intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở

Chia sẻ: Convetxao | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:47

28
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về đặc điểm và cách tạo lập văn bản nghị luận. Rèn kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận. Thông qua việc rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận, nhằm góp phần hoàn thiện năng lực giao tiếp cho học sinh. Bởi vì, văn bản nói chung và văn bản nghị luận nói riêng vừa là phương tiện vừa là sản phẩm giao tiếp

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở

  1. MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Lí do chọn đề tài 3 2 Mục đích nghiên cứu 4 3 Nhiệm vụ nghiên cứu 4 4 Phương pháp nghiên cứu 4 5 Phạm vi nghiên cứu 5 6 Kết cấu của sáng kiến kinh nghiệm 5 PHẦN 2: NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA VIỆC RÈN LUYÊN KĨ NĂNG ĐƯA YẾU TỐ BIỂU CẢM 6 VÀO VĂN NGHỊ LUẬN 1. Cơ sở lí thuyết 6 Văn bản và các kiểu văn bản phân loại theo phương thức 1.1. 6 biểu đạt 1 Văn bản nghị luận và các phương thức biểu đạt của văn 1.2. 11 bản nghị luận 1.3. Vai trò của phương thức biểu cảm trong văn nghị luận. 15 2. Cơ sở thực tiễn: Khảo sát nội dung chương trình sách giáo 2 17 khoa Ngữ văn THCS hiện hành II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐƯA YẾU TỐ BIỂU CẢM VÀO VĂN NGHỊ LUẬN 19 1. Lựa chọn bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào 19 bài văn nghị luận 1 1.1. Vị trí, tác dụng của bài tập 19 1.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập 20 2. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu 21 cảm vào bài văn nghị luận Bài tập nhóm 1: Nhận biết và phân tích tác dụng của các 2.1. 23 yếu tố biểu cảm trong văn nghi luận 2 Bài tập nhóm 2: Tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng 2.2. 32 yếu tố biểu cảm Bài tập nhóm 3:Bài tập phát hiện và chữa lỗi về kĩ năng 2.3. 38 sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận 3. Tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm 41 trong văn nghị luận 3 3.1. Rèn luyện qua một số bài học trên lớp 41 3.2. Rèn luyện qua bài tập về nhà 42 1
  2. PHẦN 3: PHẦN KẾT LUẬN 43 PHẦN 4: TÀI LIỆU 45 2
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ngữ văn là một trong ba môn học (Ngữ văn, Toán và Ngoại ngữ) có số giờ học cao nhất ở nhà trường Phổ thông. Nó vừa là môn học về khoa học xã hội nhân văn (cung cấp cho học sinh những kiến thức về Tiếng Việt, Văn học và Làm văn, đồng thời hình thành ở học sinh những năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực tiếp nhận các tác phẩm văn học...), vừa là môn học công cụ (trang bị cho học sinh công cụ để học tập, sinh hoạt và nhận thức xã hội…). Nhiệm vụ của môn Ngữ văn là hình thành và phát triển ở học sinh những năng lực: nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt. Những năng lực này ở học sinh được hình thành và phát triển theo 3 bậc học: Tiểu học, THCS và THPT. Ở bậc học THSC, môn Ngữ văn bao gồm 3 phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Mỗi phân môn có một nhiệm vụ chức năng riêng và cùng hướng tới thực hiện nhiệm vụ chung của môn Ngữ văn. Đối với phân môn Tập làm văn nhiệm vụ cơ bản bước đầu cung cấp những kiến thức cơ bản về đặc điểm và kĩ năng tạo lập các loại văn bản. Để thực hiện được cả hai hoạt động này, quá trình dạy học cần tích hợp tri thức và kĩ năng của cả ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Đồng thời còn cần huy động kiến thức của nhiều môn học khác nữa. 1.2.Phân môn Làm văn cấp THCS có bản chất là dạy học sinh nói, viết một văn bản hoàn chỉnh. Tức là dùng hoạt động nói, viết để tạo ra văn bản. Hoạt động này giữ vai trò là trung tâm, là trục chính của môn Ngữ văn. Chương trình Tập làm văn cấp THCS nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về đặc điểm và cách tạo lập các kiểu văn bản: Tự sự; miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và một số văn bản hành chính thông dụng. 1.3. Nắm chắc kiến thức cơ bản về đặc điểm và có kĩ năng xây dựng các kiểu văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh là cả một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực của học sinh. Nhưng tạo lập một văn bản nghị luận còn khó khăn hơn đối với học sinh.Văn bản nghị luận sử dụng phương thức biểu đạt chính là nghị luận. Nghị luận là việc tác giả nêu ra một quan điểm nào đó rồi nêu ra những sự thực và vận dụng những phương thức tư duy lôgic như khái niệm, phán đoán, suy lí để bình luận nhằm đạt được mục đích khiến người ta tin theo. Đây là loại văn bản vừa tác động vào lí trí vừa tác động tình cảm nên văn bản nghị luận không chỉ sử dụng phương thức nghị luận mà cần sử dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt khác như: Thuyết minh, miêu tả, biểu cảm, tự sự. Trong đó cần thiết nhất là biểu cảm. Đây là phương thức hỗ trợ cho phương thức nghị luận, nhằm tăng cường tính biểu cảm cho văn bản nghị luận. 3
  4. 1.4. Qua thực tế dạy học, tôi thấy rằng, Khi học và rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận học sinh gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản nghị luận. Vì vậy dẫn đến bài viết văn nghị luận của học sinh thường khô khan, thiếu sự thuyết phục hoặc viết theo văn mẫu. Xuất phát từ lí do trên nên tôi đã lựa chọn đề tài Sáng kiến kinh nghiệm là: Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao năng lực tạo lập văn bản cho học sinh THCS, để từ đó góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. 2. Mục đích nghiên cứu Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở, nhằm mục đích: - Cung cấp kiến thức cơ bản về đặc điểm và cách tạo lập văn bản nghị luận. - Rèn kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận. - Thông qua việc rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận, nhằm góp phần hoàn thiện năng lực giao tiếp cho học sinh. Bởi vì, văn bản nói chung và văn bản nghị luận nói riêng vừa là phương tiện vừa là sản phẩm giao tiếp 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Với khả năng và tài liệu cho phép, tôi xác định Sáng kiến kinh nghiệm những nhiệm vụ chính như sau: 3.1. Xây dựng những tiền đề lí thuyết và thực tiễn làm cơ sở khoa học cho việc rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh THCS. 3.2. Đề xuất nội dung, phương pháp và các hình thức rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận. 3.3. Tổ chức thực nghiệm dạy học để kiểm tra khả năng thực thi và hiệu quả của các giải pháp được đề xuất. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết Phương pháp nghiên cứu lý thuyết được tiến hành trên cơ sở tìm hiểu thu thập nghiên cứu phân tích những thành tựu về lí thuyết đã có để làm tiền đề cho giả thuyết khoa học mà mình đặt ra. Có thể khẳng định rằng, bất kì một công trình nghiên cứu khoa học nào cũng phải dựa trên một cơ sở lí thuyết nhất định. Do vậy, nghiên cứu lí thuyết là một phương pháp quan trọng trong quá trình tôi 4
  5. thực hiện đề tài. Những lí thuyết mà tôi nghiên cứu ở đây bao gồm: lí thuyết giao tiếp, lí thuyết về tạo lập văn bản và lí thuyết về văn bản nghị luận. 4.2 Phương pháp điều tra khảo sát Thông thường để đi đến một kết luận, một nhận định đúng đắn người nghiên cứu phải thông qua các khâu kiểm tra khảo sát thực tế. Bởi vì những con số biết nói là cơ sở tạo niềm tin cho đề tài nghiên cứu. Với phương pháp này, tôi chọn đối tượng khảo sát là Học sinh lớp 8 Quá trình khảo sát, tôi tiến hành cho học sinh viết bài thuộc kiểu văn bản nghị luận, rồi thu thập kết quả theo tiêu chí: hình thức bài viết, nội dung bài viết, kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm. Bên cạnh việc khảo sát bài làm của học sinh, tôi cũng tiến hành khảo sát giáo viên thông qua dự giờ thăm lớp theo tiêu chí đánh giá các hoạt động dạy học được tổ chức trên lớp. 4.3 Phương pháp thực nghiệm Có thể coi phương pháp thực nghiệm là quan trọng nhất trong nghiên cứu khoa học. Thông qua thực nghiệm, tôi có thể kiểm tra khả năng vận dụng của đề tài vào thực tiễn dạy học. tôi sẽ tiến hành thực nghiệm đối với học sinh THCS (lớp 8) trong nhà trường. Qua kết quả thực nghiệm, chúng tôi có cứ liệu để khẳng định mức độ thành công của đề tài. 5. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào nội dung, phương pháp và hình thức rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh lớp 8. Sáng kiến kinh nghiệm đề xuất hệ thống bài tập gồm: Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của phương thức biểu cảm trong văn nghị luận; Bài tập tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm; Bài tập phát hiện và sửa chữa lỗi về kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm trong văn nghị luận. 6. Kết cấu của sáng kiến kinh nghiệm Gồm 3 phần: Ngoài phần mở đầu và kết thúc, phần nội dung của luận văn được triển khai thành 2 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận. Chương 2: Rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận 5
  6. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA VIỆC RÈN LUYÊN KĨ NĂNG ĐƯA YẾU TỐ BIỂU CẢM VÀO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN 1. Cơ sở lí thuyết 1.1. Văn bản nghị luận và các phương thức biểu đạt của văn bản nghị luận 1.1.1. Văn bản nghị luận 1.1.1.1. Khái niệm văn bản nghị luận Văn bản nghị luận là loại văn bản quan trọng, cần thiết và cũng rất quen thuộc với chúng ta. Ta có thể gặp văn nghị luận dưới dạng các ý kiến nêu ra trong các cuộc họp, trong các bài xã luận, bình luận, bài phát biểu ý kiến trên báo chí…về mọi lĩnh vực, từ đời sống xã hội đến văn học nghệ thuật. Về khái niệm văn bản nghị luận, có một số cách hiểu như sau: "Văn nghị luận là một thể loại nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về các lĩnh vực văn học hoặc chính trị, đạo đức, lối sống… nhưng lại được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục". "Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc (người nghe) một tư tưởng quan điểm nào đó. Muốn thế văn nghị luận phải có quan điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục". "Văn nghị luận là một loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đấy và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đã đề xuất". Như vậy, tuy có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng cơ bản các tác giả đều đã thống nhất được rằng: Văn nghị luận là loại văn trình bày ý kiến của người viết, thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và lập luận. 1.1.1.2. Đặc điểm của văn bản nghị luận Khác với các loại văn bản - sản phẩm của tư duy hình tượng, văn bản nghị luận - sản phẩm của tư duy lôgic, có những đặc điểm riêng như sau: Văn bản nghị luận sử dụng kết hợp các thao tác lập luận; Luận điểm của bài văn nghị luận thể hiện rõ tư tưởng quan điểm chủ trương đánh giá của người viết; Và lập luận trong văn nghị luận rất chặt chẽ hùng hồn, giàu sức thuyết phục. (1). Mỗi văn bản nghị luận thường tập trung làm sáng tỏ một vấn đề nào đó, có thể là vấn đề xã hội hoặc vấn đề văn học. Để làm sáng tỏ vấn đề và thuyết phục được người đọc (người nghe), người viết cần soi chiếu vấn đề từ nhiều góc độ, mỗi góc độ soi chiếu, người viết cần thực hiên những thao tác nghị luận cụ thể như giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp… và những cách trình bày 6
  7. như diễn dịch, qui nạp…Nhưng cần lưu ý rằng, trong bài văn nghị luận các thao tác trên không tách riêng mà luôn kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn. Đồng thời, không phải bất kì văn bản nghị luận nào cũng cần huy động đầy đủ các thao tác. Tuỳ thuộc vào vấn đề, tuỳ thuộc vào đối tượng tiếp nhận, tuỳ thuộc vào người viết giả định mà có thể lựa chọn một số thao tác nhất định. Thông thường, trong một đoạn văn, bài văn nghị luận sẽ có một hoặc hai thao tác chính đóng vai trò nòng cốt tạo nên mạch lập luận của vấn đề đưa ra nghị luận, và những thao tác khác phối hợp giúp cho lập luận được sinh động, có chiều sâu. Bên cạnh đó không phải chỉ có các thao tác lâp luận được sử dụng kết hợp trong văn nghị luận mà nhiều khi cả những yếu tố miêu tả, tự sự biểu cảm cũng cần đưa vào, khiến cho bài viết vừa lôgic trong tư duy vừa có sự sinh động tươi tắn hấp dẫn của những hình ảnh hình tượng. Bài văn nghị luận hay là bài văn vừa giàu sức thuyết phục luận lí, vừa giàu hình ảnh. Hình ảnh làm tăng sức thuyết phục, làm cho chân lí sáng tỏ thấm thía. Ví dụ: HAI BIỂN HỒ Người ta bảo ở Palenxtin có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi. Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này. Nhưng điều kì lạ là cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Gioócđăng. Nước sông Gioócđăng chảy vào biển chết. Biển chết đón nhận và giữ riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Gioócđăng rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy mà nước trong hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cố,i muông thú, con người. Một định lí trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình: một ánh lửa sẻ chia là một ánh lửa lan toả, một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi, đôi môi có hé mở nụ mới thu nhận được nụ cười, bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ cho riêng mình. "Sự sống trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển Chết…" (TheoQuà tặng cuộc sống) Vấn đề đưa ra bàn luận ở văn bản này là hai cách sống trái ngược nhau, và vấn đề này được triển khai qua các thao tác: chứng minh, giải thích, phân tích, 7
  8. bình luận xung quanh một câu chuyện về hai biển hồ. Đoạn văn cũng nêu lí lẽ và bằng chứng xác thực qua những lời văn tự sự, miêu tả. Lập luận của đoạn văn nhẹ nhàng mà thấm thía. Đoạn văn có tác động sâu xa đến lí trí và tình cảm của người đọc. (2). Văn bản nghị luận là loại văn trình bày, tư tưởng quan điểm của người viết. Tư tưởng, quan điểm này phải được thể hiện trong luận điểm của bài văn nghị luận. Do đó luận điểm được coi là linh hồn, là trí tuệ của bài văn nghị luận. Luận điểm thường thể hiện dưới hình thức những câu văn ngắn gọn với phán đoán có tính chất khẳng định hoặc phủ định. Luận điểm của văn nghị luận thực chất là ý kiến của người viết, vì thế bài văn nghị luận phải nêu được ý hay. Ý hay là ý phải đúng, phải sâu, phải mới, phải riêng, phải tập trung, phải nổi bật và có cơ sở khoa học, cơ sở đạo lí vững chắc, đáp ứng đòi hỏi của thực tế, có sức thuyết phục với người nghe, người đọc. Do vậy tìm được luận điểm đúng, sâu, mới, riêng là công việc quyết định nhất, khó khăn nhất của người viết văn nghị luận. Muốn tìm được luận điểm mới mẻ, độc đáo, đúng đắn, người viết phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, từ kho tàng tư tưởng đạo lí của dân tộc và nhân loại. Đồng thời điều đó còn phụ thuộc vào trình độ vốn sống, vốn văn hoá khác nhau của người viết. Ví dụ: Khi viết tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn ra ngay từ đầu lời văn hùng hồn ở hai bản tuyên ngôn bất hủ của Pháp và Mĩ. Bản Tuyên ngôn của Mĩ: "Tất cả mọi người sinh đều ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" Bản tuyên ngôn của Pháp: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" Từ đó Bác khẳng định: "Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Từ "những lẽ phải không ai có thể chối cãi được" ấy, Bác đã lật ngược lại vấn đề để tố cáo tội ác của thực dân Pháp: "Thế mà, hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước ta…" Ta thấy, cách nêu luận điểm của Bác rất đúng, rất mới, rất độc đáo và sâu sắc. (3). Nghị luận là bàn luận, là nói lí lẽ, là thuyết phục người đọc người nghe bằng lập luận lôgic chặt chẽ. Vì thế, có luận điểm mới mẻ, độc đáo là hết sức quan trọng nhưng để bài văn có sức thuyết phục cao thì riêng luận điểm thôi chưa đủ mà còn phải cần đến vai trò của lập luận. Nghệ thuật lập luận phụ thuộc rất nhiều vào cách nêu vấn đề, cách dẫn dắt người đọc, cách phân tích bằng 8
  9. nhiều thủ pháp nhỏ như so sánh, liên hệ, đối chiếu, nêu dẫn chứng thực tế, đưa số liệu thống kê… Nghệ thuật lập luận còn phụ thuộc vào hành văn, giọng văn, cách dùng từ, đặt câu. Văn nghị luận ít dùng câu mô tả, trần thuật, mà chủ yếu dùng câu khẳng định, phủ định với nội dung hầu hết là phán đoán, nhận xét, đánh giá chắc chắn, sâu sắc. Để tạo nên tính chặt chẽ trong lập luận văn nghị luận thường sử dụng hệ thống từ lập luận. Hệ thống từ lập luận này có vai trò liên kết các ý, các vế, các đoạn nghị luận. Để tăng tính thuyết phục, tính hấp dẫn, tác động thấm thía tới người đọc văn nghị luận có thể dùng những từ ngữ giàu hình ảnh, có sức gợi cảm, truyền cảm cao. Đặc biệt, văn nghị luận thực chất là những cuộc đối thoại ngầm nên hành văn của văn nghị luận thường mang sắc thái tranh luận. Nhờ đó, những ý kiến mà tác giả đưa ra vừa có được chiều sâu của ý tưởng vừa có được độ sắc sảo của tư duy. Ngoài ra văn nghị luận cũng có thể dùng giọng văn mỉa mai, hài hước…Những bài nghị luận có thêm chất giọng này sẽ giúp tác giả bày tỏ sâu sắc tư tưởng thái độ của mình trước những vấn đề có tính chất mặt trái. Ví dụ: "Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên đi việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!". (Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn) Đoạn văn trên có luận điểm là: Đã làm tướng sĩ thì phải có trách nhiệm với triều đình. Luận điểm được triển khai bằng các luận cứ: Sao các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn… Sao các ngươi chỉ biết vui chơi cờ bạc, rượu chè, tiêu khiển… Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì hậu quả sẽ bi đát biết nhường nào… Từ các luận cứ này tác giả hướng tới một kết luận ngầm: Các ngươi có xứng đáng làm tướng sĩ của triều đình không? Đó cũng chính là cách lập luận chặt chẽ khéo léo nhằm hướng tới mục đích thuyết phục cao nhất đối với người nghe, người đọc của tác giả. 9
  10. 1.1.2. Các phương thức biểu đạt của văn bản nghị luận "Có người đã chỉ ra rằng: Nội dung khác nhau thì cần phương thức khác nhau để biểu đạt. Phản ánh sự phát triển của sự kiện, sự di chuyển của không gian và qúa trình trưởng thành của nhân vật thì thường dùng phương thức tự sự. Viết về cảnh vật, miêu tả hoàn cảnh tự nhiên và xã hội, khắc hoạ hình tượng nhân vật thì vận dụng phương thức miêu tả. Bình luận về người và việc, nêu rõ lí lẽ thì dùng phương thức nghị luận. Giải thích, trình bày về tính chất, trạng thái, đặc trưng, công dụng, cách dùng của sự vật thì sử dụng phương thức thuyết minh. Bày tỏ tình cảm thì dùng phương thức biểu cảm (trữ tình)…” Thông thường những phương thức biểu đạt này không đứng riêng mà chúng kết hợp với nhau trong các kiểu văn bản. Khi dùng kết hợp trong một văn bản, tuỳ thuộc vào kiểu văn bản mà sử dụng một phương thức biểu đạt chính, còn các phương thức biểu đạt khác sẽ là phụ trợ. Theo quan điểm nêu trên, văn bản nghị luận có phương thức biểu đạt chính là nghị luận (lập luận) và các phương thức biểu đạt phụ trợ là tự sự, miêu tả, biểu cảm và thuyết minh. Ví dụ: CHẾ ĐỘ LÍNH TÌNH NGUYỆN Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khoá, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915-1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa. Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp… Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu “vật liệu biết nói” châu á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứngvới chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản. Sau nữa, việc săn bắt thứ "vật liệu biết nói" đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là "chế độ lính tình nguyện" (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ lạm dụng hết sức trắng trợn. Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị "chúa tỉnh" - mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị "chúa tỉnh" - ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền. 10
  11. Thoạt tiên, chúng tóm lấy những người khoẻ manh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: "đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra... (Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu) Đoạn trích này thuộc kiểu văn bản nghị luận. Luận điểm là: Vạch trần sự tàn bạo và giả dối của bọn thực dân trong cái gọi là "mộ lính tình nguyện". Trong phần văn bản này tác giả đã sử dụng các yêú tố thuộc các phương thức tự sự và miêu tả khi kể và tả về nỗi thống khổ về thuế của dân lao khổ xứ Đông Dương ; những thủ đoạn bắt lính của bọn quan lại và cảnh khổ sở của người bị bắt lính. Yếu tố tự sự là lời kể về các loại thuế và diễn biến cảch bắt lính. Yếu tố miêu tả là hình ảnh bọn bắt lính và hình ảnh người bị bắt lính. Cùng với tự sự và miêu tả ta còn nhận thấy yếu tố biểu cảm và thuyết minh được tác giả sử dụng trong phần văn bản nghị luận này. Yếu tố biểu cảm thể hiện ở giọng văn mỉa mai và những từ ngữ mỉa mai: vật liệu biết nói, chế độ lính tình nguyện, vị chúa tỉnh…Yếu tố thuyết minh thể hiện ở những từ ngữ có tính chất chú giải: Mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị "chúa tỉnh"… Tác dụng của những yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong phần văn bản trên là: khắc hoạ rõ ràng cụ thể chi tiết cảnh bắt lính, bày tỏ cảm xúc, thái độ bất bình của tác giả trước cảnh bắt lính, một cách tự nhiên chân thành và giải thích giới thiệu chi tiết về bộ mặt của bọn bắt lính. Qua đó sức tố cáo của đoạn trích trở nên mạnh mẽ hơn, tác động mạnh hơn tới cả cảm xúc và lí trí của người đọc. Khi sử dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm và thuyết minh trong vă nghị luận cần lưu ý rằng: những yếu tố thuộc các phương thức biểu đạt nêu trên chỉ đóng vai trò phụ trợ, không được tách biệt khỏi quá trình nghị luận và không được làm mờ nhạt vai trò của nghị luận. Các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm và thuyết minh cũng chỉ được đưa vào bài văn nghị luận khi nhờ chúng mà nội dung nghị luận trở nên rõ ràng, đáng tin cậy và sắc bén hơn. 1.2. Vai trò của phương thức biểu cảm trong văn nghị luận Những phương thức biểu đạt nêu trên khi được sử dụng trong văn bản nghị luận, chúng có những tác dụng khác nhau. Trong đó biểu cảm có những tác dụng đặc biệt quan trọng, góp phần tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ cho văn bản nghị luận. Biểu cảm là một nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống. Biểu cảm thể hiện ở sự phô diễn những cung bậc tình cảm của con người như: niềm vui 11
  12. nỗi buồn tình yêu thương lòng căm giận… Để biểu hiện những cung bậc tình cảm ấy người ta có rất nhiều phương tiện khác nhau, trong đó phương tiện quan trọng nhất là ngôn ngữ (thông qua văn bản biểu cảm). Biểu cảm có nghĩa khái quát là: "Biểu hiện tình cảm, cảm xúc" Hiện nay, biểu cảm được coi là một phương thức biểu đạt, sử dụng khi người viết muốn biểu hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của mình với đối tượng được nói tới. Biểu cảm trực tiếp là cách thức bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ thầm kín bằng những từ ngữ trực tiếp gợi lên những tình cảm ấy. Biểu cảm gián tiếp là cách biểu hiện tình cảm thông qua những hình ảnh miêu tả, những câu chuyện hoặc gợi ra những suy nghĩ liên tưởng (nghĩa là không gọi thẳng cảm xúc ra). Khi biểu cảm bằng phương tiện ngôn ngữ, tức là biểu cảm bằng văn, cần phải lưu ý rằng không phải tình cảm nào cũng đưa vào văn. Những tình cảm tầm thường đưa vào văn người ta chê cười và không có ai đồng cảm. Những tình cảm đưa vào văn phải là tình cảm cao đẹp, nhân ái, cao thượng, tinh tế. Biểu cảm là phương thức biểu đạt chính của văn bản biểu cảm và là phương thức biểu cảm phụ trợ quan trọng của nhiều văn bản khác, tiêu biểu là văn bản nghị luận. Mặc dù nghị luận và biểu cảm là hai phương thức biểu đạt và hai kiểu văn bản có nhiều đặc điểm khác biệt nhau, (Biểu cảm thiên về tư duy hình tượng, bộc lộ cảm xúc và tác động vào tình cảm. Nghị luận thiên về tư duy lôgic, trình bày lí lẽ, thuyết phục bằng lập luận và tác động vào lí trí). nhưng thực tế chúng không hoàn toàn khác biệt nhau mà chúng liên quan đến nhau, hoà hợp với nhau, bổ trợ cho nhau. Bởi vì, trong con người chúng ta tình cảm và lí trí không hoàn toàn đối lập, ánh sáng của trí tuệ của lí trí giúp tình cảm, cảm xúc thêm bền vững, sâu sắc. Ngược lại tình cảm giúp cho những điều mà lí trí nêu ra có thêm sức lay động, cảm hoá lòng người. Thực tế cũng cho thấy, những bài văn nghị luận hay là những bài văn được viết ra không chỉ bằng sự sáng suốt mạch lạc chặt chẽ của lí trí, trí tuệ mà còn bằng cả sự nhiệt tình, sự tha thiết của tâm hồn. Đồng thời người đọc cũng chỉ thấy một bài nghị luận hay là khi bài đó không chỉ làm đầu óc mình sáng tỏ lên mà còn làm trái tim mình rung động. Nghĩa là người đọc không chỉ "ngộ ra" (nhận ra) chân lí mà còn "thấm thía" (xúc động) về chân lí đó. Phương thức biểu cảm có những yếu tố biểu cảm thuộc về phương diện hình thức (cái biểu đạt) và phương diện nội dung (cái được biểu đạt). Ở phương diện hình thức, yếu tố biểu cảm thể hiện rõ nhất ở những từ ngữ chỉ cảm xúc, những câu văn cảm thán và ở giọng điệu của bài văn. Còn ở phương diện nội 12
  13. dung, biểu cảm là cảm xúc chân thành của người viết. Chính cảm xúc chân thành mới làm cho bài nghị luận chinh phục được tình cảm của bạn đọc. Sử dụng biểu cảm trong văn nghị luận là đưa những yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận. Tác dụng của biểu cảm là tác động mạnh mẽ tới tình cảm của người nghe người đọc. Tác dụng đó thể hiện ở khả năng "gây được hứng thú hoặc cảm xúc đẹp đẽ, mãnh liệt, sâu lắng", nghĩa là có khả năng nhiều nhất trong việc làm nên cái hay, tạo nên sự hấp dẫn cho văn bản nghị luận. Do đó biểu cảm giúp văn nghị luận đạt hiệu quả thuyết phục cao hơn. Nếu thiếu yếu tố biểu cảm sức thuết phục của nghị luận nhất định sẽ giảm đi. Tuy nhiên, không phải cứ biểu cảm, cứ sử dụng bất kì yếu tố biểu cảm nào cũng làm cho sức thuyết phục của bài nghị luận tăng lên. Vì thế yêu cầu sử dụng biểu cảm chỉ với vai trò phục vụ cho công việc của nghị luận. Yếu tố biểu cảm trong một bài văn nghị luận sẽ không được xem là có giá trị khi nó làm mạch nghị luận bị phá vỡ đứt đoạn quẩn quanh. Và người nghị luận sẽ không thể biểu cảm với ai nếu bản thân không có cảm xúc chân thành. Do vậy người làm bài nghị luận phải thực sự có tình có tình cảm, cảm xúc đối với điều mình nói ra. Hơn nữa cảm xúc ấy phải truyền đến người đọc thông qua ngôn ngữ. Tức là phải tìm ra cách biểu lộ tình cảm bằng ngôn ngữ và tập cho thành thạo cách biểu hiện cảm xúc bằng phương tiện ngôn ngữ sao cho có tính truyền cảm. Mặt khác, tình cảm của người viết sẽ không được tiếp nhận khi người đọc chưa tin nó là chân thành, nên yêu cầu người viết phải chú ý làm cho cả cảm xúc và sự diễn đạt cảm xúc phải thật chân thực Ví dụ: CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI BẢN XỨ Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam- mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do". Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lí và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban- căng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước 13
  14. mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-bơ-nhơ, để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế. Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn "bô-sơ" nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy. Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. (Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu) Đoạn trích có luận điểm là: Vạch trần bộ mặt tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp trong việc dùng người dân nước thuộc địa làm vật hi sinh cho quyền lợi của mình trong các cuộc chiến tranh thảm khốc. Triển khai luận điểm trên, tác giả đã sử dụng kết hợp các yếu tố biểu cảm như: giọng văn mỉa mai thái độ của các quan cai trị thực dân khi so sánh sự đối sử của chúng đối với người dân nước thuộc địa trước và sau khi cuộc chiến tranh nổ ra. Trước chiến tranh chúng coi người bản xứ là giống người hạ đẳng, đối sử với họ như với súc vật. Khi chiến tranh bùng nổ lập tức chúng tâng bốc họ lên, phong cho họ những danh hiệu cao quí nhằm lừa bịp họ biến họ thành vật hi sinh. Đằng sau giọng văn mỉa mai là nỗi căm phẫn cực độ của tác giả trước trò bịp bợm của chính quyền thực dân. Giọng văn mỉa mai và thái độ căm phẫn của tác giả được nhấn sâu ở những từ ngữ biểu cảm có tính chất "nhại lại" như: "những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu"; "những đứa con yêu, những người bạn hiền". Đó là những từ ngữ lột tả bản chất của bon thực dân. Cùng với thái độ căm phẫn là nỗi lòng đau xót của tác giả trước cảnh người dân bản xứ bị biến thành vật hi sinh cho quyền lợi của bọn thực dân. Nỗi đau xót thể hiện ở những hình ảnh: Họ phải "đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường"; họ đã được "xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái"; một số khác "đã bỏ xác tại những miền hoang vu"…Đây là những hình ảnh giàu sức biểu cảm, vừa thể hiện nỗi thương cảm vừa thể hiện nỗi đau vừa thể hiện lòng căm thù của tác giả. Những cảm xúc ấy dồn lên đến đỉnh điểm với hàng loạt câu câu hỏi tu từ và câu văn so sánh bình luận: "…chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy?; "…để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế…". Những câu văn 14
  15. hàm chứa cả nỗi đau, miền ai oán và lòng căm thù. Tất cả hợp thành một sức mạnh tố cáo đanh thép tội ác của bọn thực dân Pháp. Đoạn trích "chiến tranh và người bản xứ" đã tác động mạnh đến người đọc không chỉ ở lí lẽ và lập luận mà còn ở cảm xúc chân thành của tác giả. Cảm xúc ấy đã truyền đến người đọc bằng những yếu tố biểu cảm sử dụng hợp lí trong đoạn văn. Tóm lại, biểu cảm không thể thiếu trong văn nghị luận. Biểu cảm góp phần quan trọng vào thành công của bài nghị luận. Nhờ biểu cảm, bài nghị luận không chỉ thuyết phục người đọc bằng lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực mà còn thuyết phục người đọc bằng tình cảm, cảm xúc chân thành tha thiết. Tức là thuyết phục bằng cả trái tim và khối óc. 1.3. Cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài nghị luận Về phương diện ngữ nghĩa, biểu cảm là một thành phần ý nghĩa rất quan trọng của từ ngữ. Tự nó đã tồn tại một ý nghĩa biểu cảm nhất định và giới hạn phạm vi sử dụng cho con người. 1.3.1. Loại từ có khả năng biểu đạt cảm xúc rõ ràng nhất là những từ, ngữ cảm thán như: Chao ôi, hỡi ôi, than ôi, biết bao, xiết bao, biết chừng nào... Loại từ này được sử dụng để bày tỏ trực tiếp cảm xúc của người viết (người nói). Để tạo ra tính truyền cảm và thu hút sự chú ý của người nghe (người đọc), chúng ta cũng có thể sử dụng loại từ này để tạo nên các câu cảm thán hay kết hợp với một nội dung thông báo nào đó trong bài văn nghị luận. Bên cạnh đó, các đại từ nhân xưng trong tiếng Việt cũng có khả năng bộc lộ thái độ, tình cảm của người nói (người viết) một cách rất mạnh mẽ. Vì thế, loại từ này cũng có thể sử dụng và phát huy hiệu quả biểu cảm trong bài văn nghị luận, nhất là nghị luận xã hội.Trong đó, các đại từ ngôi thứ nhất số nhiều như: Nhân dân ta, đất nước ta, ta, chúng ta, đồng bào... thường biểu thị tinh thần đoàn kết, thống nhất trong suy nghĩ và hành động. Các đại từ ngôi thứ hai, thứ ba số ít hoặc số nhiều như: Bọn, bọn bay, chúng, chúng bay, bọn chúng thường bày tỏ sự căm thù, khinh bỉ, đối nghịch. Để công khai bày tỏ quan điểm, thái độ của mình, người làm văn nghị luận cũng có thể sử dụng các từ mang ý nghĩa khẳng định (sự thật là, tin rằng, chắc chắn rằng, quả quyết rằng..) hay phủ định (không, không chịu, không được...), các từ biểu thị sự quyết tâm, kiên quyết (nhất định, quyết, phải được..). Những từ này vừa có khả năng biểu đạt cảm xúc, thái độ mạnh mẽ vừa làm cho lời văn trở nên đanh thép hơn. 15
  16. Ngoài ra, trong bài làm văn nghị luận, người viết còn có thể sử dụng thêm những từ, cụm từ đậm phong cách khẩu ngữ vào câu văn nghị luận nhằm tạo được sự chú ý cho người đọc. 1.3.2. Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với các loại câu nhiều thành phần có kết cấu cân xứng Ngoài từ ngữ, sức mạnh biểu cảm trong bài văn nghị luận còn được tạo nên bởi cách sử dụng và tạo lập câu của người viết. Trong văn nghị luận, người viết phải cố gắng đi tìm những cách diễn đạt mới mẻ, độc đáo. Bên cạnh những câu ngắn dùng để nhấn mạnh, người viết có thể sử dụng những câu dài, nhiều thành phần có kết cấu cân xứng nhằm ra nhịp điệu và sức lan tỏa mạnh hơn. Trong một số trường hợp, người viết có thể dùng câu đơn không gắn với các thành phần phụ hay tách các vế câu ra thành câu độc lập nhằm mục đích nhấn mạnh một nội dung nào đó. Ngoài ra, người viết văn nghị luận cũng cần đặt những câu có tính chất hội thoại, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày nhằm thu hút sự chú ý và hứng thú của người đọc, từ đó góp phần tăng thêm tính biểu cảm cho lời nói. “Nhằm tạo ra tính biểu cảm cho bài văn nghị luận, việc sử dụng câu không theo một mô hình hạn định nào mà phụ thuộc vào năng lực sử dụng ngôn ngữ của người viết. Đôi khi, không cần quá cầu kì trong câu văn nhưng người viết vẫn có thể tạo ra một bài văn nghị luận chặt chẽ, sâu sắc và truyền cảm” 1.3.3. Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với một số biện pháp tu từ Biểu cảm và tạo hình là hai chức năng chính của các biện pháp tu từ. Bất cứ biện pháp tu từ nào, ngoài tác dụng gợi hình, còn có tác dụng gợi cảm. Trong mỗi loại văn bản, biện pháp tu từ được sử dụng với những mục đích khác nhau. Nếu như trong ngôn ngữ nghệ thuật, việc sử dụng biện pháp tu từ chỉ cốt yếu tạo ra tính hình tượng thì trong văn bản nghị luận, nó lại được sử dụng nhằm tăng thêm sức mạnh cho sự đánh giá, bình luận và tăng thêm tính truyền cảm cho lời văn… Vì vai trò quan trọng đó, không một bài văn nghị luận nào, nhất là các văn bản chính luận lại không sử dụng các biện pháp tu từ. Một số biện pháp tu từ thường được sử dụng trong bài văn nghị luận nhằm tạo ra hiệu quả biểu cảm như sau: So sánh trong văn nghị luận chủ yếu làm cho vấn đề nghị luận hiện lên cụ thể, vừa gần gũi vừa ấn tượng, dễ đi vào lòng người đọc hơn. Điệp ngữ là sự “lặp đi lặp lại có ý thức những từ, ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe... Nhờ điệp ngữ, câu văn mới tăng thêm tính cân đối, nhịp nhàng, hài hòa, có tác dụng nhấn mạnh một sắc thái ý nghĩa, tình cảm nào 16
  17. đó, làm nổi bật những từ quan trọng, khiến cho lời nói trở nên sâu sắc, thấm thía, có sức thuyết phục mạnh. Với khả năng đó, điệp ngữ được sử dụng nhằm tạo ra được tính truyền cảm cho văn bản nghị luận. Câu hỏi tu từ là loại câu có hình thức nghi vấn nhưng nội dung của nó đã bao hàm ý trả lời. Xét về hiệu quả biểu cảm, câu hỏi tu từ dùng để khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó được đề cập đến trong câu và tăng cường tính diễn cảm của lời nói. Ngoài ra, người viết cũng có thể sử dụng thêm nhiều phương tiện và biện pháp tu từ khác nhằm tăng thêm tính biểu cảm và thuyết phục cho văn bản nghị luận như phép đối, phép sóng đôi, liệt kê... Khẳng định biểu cảm thể hiện một cách hết sức đa dạng trong văn nghị luận, muốn sử dụng hiệu quả yếu tố này này, học sinh không những phải hiểu rõ về khả năng biểu cảm của các đơn vị ngôn ngữ, các biện pháp tu từ mà còn phải có một thái độ nghiêm túc, một tình cảm chân thành thiết tha với vấn đề nghị luận. Sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm nói riêng và các phương thức biểu đạt nói chung là yêu cầu tất yếu của quá trình tạo lập văn bản nghị luận. Vì vậy, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn sau năm 2015 nên dành thời lượng nhiều hơn nữa cho việc dạy học về sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản nói chung và văn bản nghị luận nói riêng ở THCS và THPT. Ngoài ra, mỗi giáo viên cũng phải tìm những biện pháp để phát huy tính tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong việc sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt vào việc tạo lập văn bản như thay đổi cách ra đề, cách đánh giá và giúp các em không còn lệ thuộc những bài vẫn mẫu để tạo nên những “tác phẩm” thực sự của mình. 2. Cơ sở thực tiễn: Khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THCS hiện hành Để có cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất nội dung rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh THCS tôi không thể không khảo sát chương trình và SGK Ngữ văn THCS. Bởi chúng được xây dựng và biên soạn theo nguyên tắc đồng tâm, nâng cao. Riêng với phần Làm văn, ở cấp THCS, học sinh vừa được ôn tập, củng cố, nâng cao, mở rộng kiến thức, kĩ năng về những kiểu văn bản đã học ở Tiểu học như: Miêu tả, Tự sự; vừa được học những kiểu văn bản mới như: Biểu cảm, Thuyết minh, Nghị luận… Lên cấp THPT, những kiểu văn bản này lại tiếp tục được ôn tập, củng cố nâng cao, mở rộng và bổ sung những tri thức kĩ năng mới. Để từ đó hoàn thiện năng lực tạo lập văn bản cho học sinh trước khi bước vào cuộc sống học tập và lao động. 17
  18. Trong những kiểu văn bản học sinh được học ở nhà trường Phổ thông, kiểu văn bản nghị luận chiếm một dung lượng lớn và được học trong một quá trình lâu dài từ lớp 7 đến lớp 9 với các nội dung: - Lớp 7: Đặc điểm và cách tạo lập văn bản nghị luận; luận điểm luận cứ, phương pháp lập luận; nghị luận giải thích và nghị luận chứng minh. Thực hành nói viết đoạn, bài nghị luận giải thích hoặc chứng minh. - Lớp 8: Triển khai luận điểm luận cứ trong văn nghị luận; các yếu tố biểu cảm tự sự miêu tả trong văn nghị luận. Thực hành nói, viết đoạn bài văn nghị luận có sử dụng các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả. - Lớp 9: Nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống, về một vấn đề tư tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện (đoạn trích), về một bài thơ (đoạn thơ); Cách làm bài nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống,về một vấn đề tư tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện, thơ; Thực hành nói, viết văn bản nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống, về một vấn đề tư tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện, thơ. Nhìn nhận lại nội dung chương trình SGK Ngữ văn THCS về phần Làm văn chúng tôi thấy, học sinh được cung cấp tri thức về các kiểu văn bản và được hình thành các kĩ năng để tạo lập các kiểu văn bản đó. Càng lên cao thì yêu cầu về tạo lập các kiểu văn bản càng cao. Riêng kiểu văn bản nghị luận THCS, học sinh được học cả kiến thức lí thuyết và kĩ năng thực hành. Lớp 8, bước đầu học sinh được rèn luyện kĩ năng đưa các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn nghị luận. Tuy nhiên thời lượng dành cho rèn luyện kĩ năng không nhiều. Mỗi loại kĩ năng chỉ được luyện tập trong một tiết. Điều đó dẫn đến những khó khăn không thể tránh khỏi đối với cả người dạy và người học. Đối chiếu với chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về mức độ cần đạt của học sinh lớp 8 khi học kiểu văn bản nghị luận (Hình thành kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận/ Hiểu yêu cầu và biết cách đưa các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn nghị luận), tôi thấy nhiệm vụ và trách nhiệm của giáo viên khi dạy phần làm văn lớp 8 là vô cùng nặng. Giáo viên cần suy nghĩ lựa chọn và tìm ra phương pháp dạy học thích hợp nhất mới có thể đáp ứng được yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng nêu trên. Nguyên tắc dạy học tạo lập văn bản là phải gắn lí thuyết với thực hành. Do vậy, sau mỗi bài học lí thuyết đều có bài tập thực hành và giờ luyện tập thực hành. Tuy nhiên, qua tìm hiểu SGK, sách bài tập và một số sách tham khảo về Ngữ văn 8, tôi cũng nhận thấy rằng, bài tập luyện tập thực hành chưa nhiều, chưa biên soạn thành hệ thống. Riêng đối với bài Luyện tập Đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận (Chương trình Ngữ văn 8), tôi thấy sách giáo khoa 18
  19. chỉ đưa ra 1 bài tập luyện tập. Như vậy rất khó giúp học sinh hình thành được kĩ năng. Do vậy, để việc rèn luyện kĩ năng vận dụng tốt cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cần xây dựng hệ thống bài tập phong phú có hệ thống và cụ thể hơn. Tóm lại, qua khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn và thực tiễn dạy học của giáo viên, học sinh về văn nghị luận lớp 8, tôi thấy rằng để nâng cao chất lượng làm văn nghị luận cho học sinh cần phải tổ chức rèn luyện các kĩ năng phục vụ cho việc viết văn nghị luận. Trong đó có kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt là rất quan trọng đối với hành văn khi tạo lập văn bản nghị luận. II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐƯA YẾU TỐ BIỂU CẢM VÀO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN 1. Lựa chọn bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận 1.1. Vị trí và tác dụng của bài tập "Mục tiêu của môn Ngữ văn THCS chủ yếu là hình thành và nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản và làm văn" cho học sinh. Để nâng cao năng lực làm văn cần trang bị cho học sinh tri thức và kĩ năng về các kiểu văn bản và tạo lập các kiểu văn bản đó. Tri thức rất quan trọng nhưng không phải tất cả tri thức về các kiểu văn bản đều trở thành kĩ năng tạo lập các kiểu văn bản ấy. Muốn có kĩ năng thì phải làm, phải thực hành. Không phải chỉ làm một lần mà phải làm nhiều lần, làm đi làm lại cho thành thạo. Như vậy, kĩ năng chỉ hình thành khi có quá trình rèn luyện, luyện tập, thực hành. Việc rèn kĩ năng làm văn cho học sinh nói chung và việc rèn kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh lớp 8 nói riêng luôn đòi hỏi phải xác định được nội dung luyện tập thực hành, đồng thời phải xác định được cách thức luyện tập thực hành. Nội dung luyện tập thực hành chính là hệ thống bài tập. Còn cách thức luyện tập là phương pháp tổ chức cho học sinh luyện tập của giáo viên. Bài tập trong dạy học môn Làm văn rất quan trọng, giữ vị trí trung tâm của quá trình dạy học bộ môn này. Bởi vì “bản chất của làm văn là thực hành, lí thuyết làm văn cũng là lí thuyết thực hành”. Kiến thức lí thuyết được hình thành trên cơ sở giải quyết các bài tập tình huống. Kiến thức ấy lại được củng cố hoàn thiện bằng bài tập luyện tập. Điều đó thể hiện ở qui trình dạy học: sau mỗi giờ học cung cấp kiến thức lí thuyết bao giờ cũng có giờ thực hành luyện tập bằng bài tập, qua đó hình thành những kĩ năng, năng lực tạo lập văn bản cho học sinh. 19
  20. Bài tập trong làm văn có tác dụng làm rõ kiến thức lí thuyết, khắc sâu những vấn đề lí thuyết đã được học cho học sinh. Đồng thời, bài tập cũng là phương tiện để học sinh biến kiến thức thành kĩ năng, năng lực giải quyết những vấn đề trong thực tế. Thông qua bài tập học sinh cũng được đo lường về trình độ kiến thức, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. (Nghĩa là bài tập còn là phương tiện để kiểm tra đánh giá kết quả học tập bộ môn của học sinh) Trên cơ sở vị trí và tác dụng của bài tập trong dạy học làm văn chúng tôi nhận định rằng: Để rèn luyện tốt kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh lớp 8, vấn đề trọng tâm là phải xây dựng được hệ thống bài tập và phải sử dụng được hệ thống bài tập đó vào thực tiễn dạy học. Đây là loại kĩ năng khó, phức tạp nhưng có ý nghĩa quyết định sự thành công của bài văn nghị luận xét trên quan điểm giao tiếp. 1.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập Khi xây dựng hệ thống bài tập thực hành, rèn luyện các kĩ năng tạo lập văn bản nói chung, rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận nói riêng cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau: Nguyên tắc 1: Hệ thống bài tập phải bám sát mục tiêu môn học Mục tiêu là điểm xuất phát và chi phối toàn bộ các yếu tố khác trong một qui trình dạy học. Bài tập vừa là nội dung vừa là công cụ kiểm tra đánh giá. Vì thế xây dựng hệ thống bài tập vừa phải chú ý bám sát mục tiêu chung của giáo dục, của môn học vừa phải chú ý bám sát mục tiêu riêng của từng bài học cụ thể. Nguyên tắc 2: Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính khoa học Nguyên tắc này thể hiện ở tính chính xác, tính hệ thống của nội dung bài tập. Cụ thể là mỗi bài tập đưa ra phải đúng về tri thức, phải đủ về yêu cầu và phải nhất quán giữa các câu hỏi. Nguyên tắc 3: Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính sư phạm Đây là nguyên tắc có tính bắt buộc, đòi hỏi hệ thống bài tập phải bám sát nội dung chương trình và sách giáo khoa, hệ thống bài tập phải có tính kế thừa, nâng cao phù hợp với lứa tuổi, với trình độ học sinh, hệ thống bài tập phải đa dạng, hấp dẫn, có tác dụng gợi mở từ dễ đến khó, không áp đặt và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Nguyên tắc 4: Hệ thống bài tập phải đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục. Nghĩa là phải thể hiện được tinh thần tích hợp. Phải phân hoá được sinh trong quá trình dạy học. Những nguyên tắc nêu trên là yêu cầu và định hướng để chúng tôi xây dựng hệ thông bài tập rèn kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm và thuyết minh trong văn bản nghị luận. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2