intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình

Chia sẻ: Dung Hoang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:31

29
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của sáng kiến nhằm lôi cuốn học sinh vào mỗi tiết học, giúp học sinh hiểu bài dễ dàng, vận dụng giải bài tập tốt hơn, biến mỗi giờ học toán trở nên thú vị, giúp các em cảm thấy yêu thích môn học hơn, cảm giác nội dung bài học nhẹ nhàng, đơn giản, chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến thức và vận dụng nó sau này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình

  1. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình 1Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  2. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình PHẦN I. MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Trong thời đại hiện nay, kinh tế ­ xã hội ngày càng phát triển, hội nhập  kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng được  quan tâm, cải tiến, đổi mới phù hợp với thế  giới và các quốc gia trong khu  vực. Những năm qua, cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học, sách giáo  khoa cũng được quan tâm chỉnh sữa, đổi mới để phù hợp hơn với yêu cầu của  thực tiễn, đi liền với đó là lượng kiến thức mà học sinh phải tiếp thu tương  đối lớn. Do đó tất cả  các môn học đều đòi hỏi  ở  các em sự  chủ  động trong  từng nội dung kiến thức, tư duy sáng tạo và không ngừng học hỏi để nâng cao  sự hiểu biết. Đặc biệt đối với môn toán, một trong những bộ môn yêu cầu độ  chính xác cao, trình bày khoa học và phải có tính logic chặt chẽ thì yêu cầu đó   lại càng được chú trọng. Trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có những bất  cập về  chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử  dụng phương pháp dạy học   lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ  động trong học tập của học sinh dẫn đến   hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn, động viên khích lệ để  hứng thú, tự  giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ  học  ở  một số  bộ  phận học lực yếu kém. Vì vậy, bản thân người giáo viên không chỉ  là người  có kiến thức vững vàng, nhiệt huyết với công việc, với vai trò là người tổ  chức hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết   người giáo viên cần phải nghiên cứu, phải tìm và phải biết tiếp cận với cái  mới trên cơ  sở  kế  thừa cái hay, cái đẹp của cái cũ để  phát huy tính tích cực,   sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi gợi niềm đam mê học   tập của học sinh. Thật vậy, đó không chỉ  là điều mà các thầy cô giáo mong  muốn mà còn là mục tiêu chung của bộ giáo dục đang đề ra và được triển khai  rộng khắp cả nước.  Bản thân là một giáo viên đã đứng trên bục giảng hơn 8 năm, thời gian  không phải quá dài nhưng cũng ít nhiều rút ra được vài kinh nghiệm quý báu  trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt khi trực tiếp giảng dạy bộ môn toán 8, tôi  nhận thấy nội dung kiến thức về Giải bài toán bằng cách lập phương trình là  một trong những dạng bài tập gây cho học sinh rất nhiều khó khăn, số lượng   bài tập vô cùng nhiều và phong phú có trong sách giáo khoa cũng như trong các   2Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  3. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình tài liệu tham khảo có liên quan.  Tuy nhiên để  phân loại từng dạng bài tập  cũng như phương pháp đi tìm lời giải cho từng dạng bài tập đóng vai trò quan   trọng trong việc phụ đạo học sinh yếu cũng như bồi dưỡng và nâng cao kiến   thức cho các em học sinh giỏi. Tôi nghĩ cần phải làm như  thế nào đó để học   sinh có thể vận dụng được tốt trong việc phân chia được các dạng, tìm được   phương pháp giải và không có sự  nhầm lẫn giữa các dạng bài tập. Và đây  cũng là tiền đề  để  các em chủ  động hơn trong việc vận dụng vào kiến thức  Giải bài toán bằng cách lập hệ  phương trình khi được học lên lớp 9. Kiến   thức về dạng bài tập này tương đối lớn, tuy nhiên ở đây tôi xin đưa ra một số  kinh nghiệm của mình tích lũy được trong quá trình phụ  đạo cũng như  ôn thì   học sinh giỏi về  việc đưa ra  “ Một số  phương pháp giải bài toán bằng  cách lập phương trình”.  II. Mục đích nghiên cứu Điều   24,   luật   giáo   dục   (do   Quốc   hội   khoá   X   thông   qua)   đã   chỉ   rõ  “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của  học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự  học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình  cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là mục tiêu  không phải chỉ riêng đối với bộ  môn toán mà còn là mục tiêu chung của toàn  bộ các môn học. Từ  xưa đến nay môn toán luôn là một trong những môn học được học  sinh và phụ  huynh xem như  là môn học chính vì nó được vận dụng nhiều   trong đời sống cũng như là tiền đề quan trọng đối với một số môn học khác.   Tuy nhiên, môn toán là một môn học khô khan, đòi hỏi tính chính xác cao, tính   logic chặc chẽ, và độ  khó càng ngày càng được nâng lên trong từng nội dung  kiến thức theo từng cấp học. Và đây cũng chính là nguyên nhân gây nên tình  trạng một phần lớn học sinh không hứng thú, cảm thấy áp lực trong mỗi giờ  học Toán.  Từ  thực tế  giảng dạy bộ  môn Toán  ở  THCS trên địa bàn xã nhà trong  nhiều năm, tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả  cao, ngoài việc truyền  đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải tìm ra phương pháp để  gây hứng   thú học tập cho học sinh, làm cho tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động, học   sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Hơn nữa, đối với  môn toán, từng nội dung kiến thức đều liên quan chặt chẽ với nhau, nếu nắm   vững nội dung kiến thức này, thì đây cũng là tiền đề  để  vận dụng vào nội  dung tiếp theo. Chính vì vậy, tôi đã nghiên cứu và áp dụng nhiều biện pháp   3Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  4. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình vào lớp mình dạy nhằm mục đích lôi cuốn học sinh vào mỗi tiết học, giúp   học sinh hiểu bài dễ  dàng, vận dụng giải bài tập tốt hơn, biến mỗi giờ  học   toán trở  nên thú vị, giúp các em cảm thấy yêu thích môn học hơn, cảm giác  nội dung bài học nhẹ nhàng, đơn giản, chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến   thức và vận dụng nó sau này. PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề Trong mọi thời đại, mục tiêu của ngành giáo dục chính là đào tạo ra   một thế hệ con người mới có sự phát triển toàn diện cả về phẩm chất và đạo  đức, năng lực và trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy, người  giáo viên phải là người biết vận dụng những phương pháp dạy học hiện đại,   luôn luôn không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ  của bản thân, nhằm mục   đích phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực của học sinh trong các môn  học, đặc biệt là môn Toán. Tích cực là một trạng thái của hành động trí óc hoặc chân tay của người   có mong muốn hoàn thành tốt một công việc nào đó. Tính tích cực học tập là  một phẩm chất, nhân cách của người học, được thể  hiện  ở  tình cảm, ý chí   quyết tâm giải quyết các vấn đề  mà tình huống học tập đặt ra để  có tri thức   mới, kĩ năng mới. Môn Toán còn có sự  hấp dẫn riêng vì sự  thông thái  ẩn chứa trong môn  học này. Người giáo viên Toán cần làm cho học sinh thấy được cái hay, cái  đẹp, cái ý nghĩa của mỗi nội dung toán học mà các em được học. Nếu giáo   viên không làm cho học sinh cảm thụ được những điều đó, thì các em sẽ cảm  thấy toán học rất khô khan, mất hết ý nghĩa của việc học toán. Chính vì vậy, việc giúp học sinh giải quyết những khó khăn trong quá   trình học, tìm ra được những phương pháp để giải quyết các bài toán khó, thì   người giáo viên đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đây cũng chính là vấn   đề mà bản thân tôi luôn trăn trở khi giảng dạy cho các em. Chương trình học của môn Toán vô cùng rộng lớn, đặc biệt là kiến  thức về  phương trình, một trong những kiến thức mà các em thường xuyên  gặp phải từ  những dạng đơn giản đến phức tạp. Đến năm học lớp 8, dạng  toán này mở  rộng ra là bài toán có lời giải, các em phải là những người đọc  đề  bài toán sau đó lập cho mình một phương trình để  giải quyết, dạng toán  này tương đối mới mẻ, các em phải biết liên hệ  với các môn học khác, các   tình huống xảy ra trong thực tế để tìm ra cho mình một hướng giải quyết bài   4Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  5. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình toán, do đó gây cho các em khá nhiều khó khăn. Đa số  các em không thể  dễ  dàng giải quyết được bài toán này, đây chính là vấn đề mà tôi luôn trăn trở khi   trực tiếp giảng dạy các em. “Lập phương trình đối với một bài toán cho trước  là biện pháp cơ  bản để  áp dụng toán học vào khoa học tự  nhiên và kỹ  thuật.  Không có phương trình thì không có toán học, nó như phương tiện nhận thức   tự nhiên” (P.X.Alêkxanđơrôp). Vì những lẽ trên, tôi đã tích góp tất cả kinh nghiệm và nghiên cứu của  bản thân để  tìm ra:  Một số  phương pháp giải quyết bài toán bằng cách  lập phương trình. II. Thực trạng của vấn đề Trường THCS Lê Đình Chinh là trường có nền tảng giáo dục lâu đời,   nhiều giáo viên có kiến thức chuyên môn vững vàng, nhiệt tình trong công tác   giảng dạy, luôn luôn tìm tòi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.  Mặc khác, Trường vừa đạt chuẩn quốc gia cấp độ 1 nên cơ sở vật chất   của nhà trường cũng ngày càng được cải thiện theo hướng tích cực, để  phục   vụ nhu cầu dạy và học của thầy trò trong trường. Về  công tác chuyên môn, nhà trường cũng thường xuyên tổ  chức các  buổi chuyên đề, thao giảng dự  giờ, đóng góp ý kiến cho nhau, để  tiết dạy   được hoàn thiện hơn.  Bên cạnh đó, Phòng Giáo dục của huyện nhà cũng tổ  chức định kì các  chuyên đề để trao đổi công tác chuyên môn theo các cụm giáo dục. Đây cũng  là dịp để các thầy cô giáo trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa các trường với  nhau để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy.  Về  học sinh, các em học sinh của trường đa phần là con em nông dân,   người Quảng Nam, nên tính tình hiền lành, ngoan ngoãn, chăm chỉ  mặc dù  điều kiện gia đình còn khó khăn nhưng các em luôn nỗ lực, cố gắng phấn đấu   khắc phục khó khăn để  vươn lên trong học tập. Phụ huynh học sinh cũng có  sự  phối hợp nhịp nhàng với giáo viên trong công tác quản lý và giáo dục học  sinh. Ngoài những thuận lợi kể  trên thì hiện tại trường vẫn gặp nhiều khó  khăn nhất định. Cơ  sở  vật chất của trường tuy đã được đầu tư  hơn trước,   nhưng so với nhu cầu sử dụng thì vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn khá nhiều.  Lực lượng giáo viên trẻ  còn nhiều nên còn thiếu kinh nghiệm trong việc   giảng dạy. Gia đình học sinh chủ yếu là lao động chân tay nên điều kiện học   tập của các em còn hạn chế, ngoài thời gian đến lớp, đa phần các em còn phải  5Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  6. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình phụ  giúp gia đình trong công việc đồng án  ở  nhà, do đó thời gian học tập  ở  nhà còn hạn hẹp. Không những vậy, nhiều gia đình học sinh có hoàn cảnh hết  sức khó khăn nên một bộ phận học sinh có tư tưởng bở học đi làm thêm kiếm  tiền phụ giúp gia đình gây nên khó khăn không nhở  trong việc vận động học   sinh đến lớp của giáo viên.  Năm học  2018­2019  được phân công giảng dạy môn Toán 8, sau khi  nhận nhiệm vụ tôi đã tiến hành điều tra, sát hạch về hứng thú học tập và kết  quả  học tập môn Toán của học sinh ba lớp 8A1, 8A2, 8A3 bằng phiếu điều   tra và bài kiểm tra 90 phút với hình thức trắc nghiệm, tự  luận ngay từ  đầu  năm học với kết quả thu được như sau: ­ Về hứng thú học tập: Tổng số HS Yêu thích Không yêu thích Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 94 28 29,8% 66 70,2% ­ Về kết quả học tập: Tổng  Trung  Giỏi Khá Yếu số HS bình Số  Số  Số  Số  Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ 94 lượng lượng lượng lượng 7 7.4% 15 16% 65 69,2% 7 7.4% Đây là kết quả chưa thật sự tốt đối với một trong những bộ môn được   xem như  khá quan trọng trong chương trình học của học sinh, đặc biệt trong  quá trình giảng dạy vẫn còn một phần lớn học sinh khá thụ  động trong việc   tiếp thu kiến thức, cũng như giải bài tập, không hăng say phát biểu bài, đa số  mỗi tiết học là giáo viên say sưa giảng bài, một phần nhỏ  học sinh tiếp thu,  phát biểu còn lại đa số  học sinh ngồi chép bài một cách thụ  động. Chính vì  vậy, việc tìm ra một phương pháp mới để  thay đổi thực trạng trên là vấn đề  mà tôi luôn băn khoăn và suy nghĩ. III. Các giải pháp đã tiến hành Khi trực tiếp giảng dạy cho các em học sinh, tôi nhận thấy những khó  khăn mà các em gặp phải đến từ  các yếu tố  chủ  quan cho đến khách quan,  việc giải quyết những khó khăn đó đòi hỏi người giáo viên phải luôn theo sát  6Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  7. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình những bước đi của các em. Nắm được tâm lý ngại khó, ngại suy nghĩ của các  em nên tôi đã phân chia các bài tập ra từng dạng cụ thể, phân chia các bài tập  theo từng cấp độ  phù hợp với từng đối tượng học sinh, đồng thời kích thích,  gây sự hứng thú cho các em học sinh khá giỏi. Ngoài việc yêu cầu học sinh hoạt động cá nhân, chúng ta còn có thể cho  học sinh nghiên cứu giải quyết bài toán theo hình thức hoạt động cặp đôi,   hoạt động nhóm, thi đua giữa các tổ  để  tạo nên không khí thoải mái, kích   thích sự tự giác, chủ động, sáng tạo của các em học sinh, bên cạnh đó, các em   còn có thể giúp đỡ nhau trong quá trình học tập. Bên cạnh đó, bản thân tôi luôn quan sát, hướng dẫn các em trong cách   trình bày bài giải, sửa lỗi cho các em ngay trực tiếp khi giải quyết bài toán,  điều đó sẽ giúp các em ghi nhớ, và khắc sâu hơn nội dung bài toán, tránh việc  các em thấy khó mà nản chỉ, không chịu suy nghĩ, đồng thời có thể  nhận ra  những khó khăn mà các em gặp phải, để rút ra kinh nghiệm cho bản thân trong  quá trình giảng dạy. Khi học xong giải bài toán bằng cách lập phương trình, bản thân tôi còn  dùng phương pháp trò chuyện gợi mở để thu thập thêm một số thông tin ,  phân loại đối tượng học sinh trong việc giải toán bằng cách lập phương  trình .  Tuy nhiên, dù áp dụng phương pháp mới, phương pháp tích cực đến  mấy thì cũng phải và luôn kế  thừa những phương pháp truyền thống. Phải   biết xen kẽ  bổ  sung cho nhau để  phù hợp với tình hình thực tế  và từng đối  tượng học sinh. Dưới đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện: Giải pháp 1. Hướng dẫn học sinh nghiên cứu đề bài. Mỗi bài tập đều thuộc các dạng bài tập khác nhau, giáo viên cần hướng  dẫn học sinh đọc thật kĩ đề bài để nắm được các thông tin trong đề bài, thông  qua đó xác định được các đại lượng nào đã cho, đại lượng nào phải đi tìm để  đặt  ẩn cho phù hợp ( kèm theo đơn vị  và điều kiện hợp lý),  bài toán cần áp   dụng các công thức nào có liên quan để giải quyết bài toán. Giải pháp2. Quy định tiến trình chung để  giải bài toán bằng cách  lập phương trình. Mặc dù mỗi học sinh đều có khả năng tư duy, năng lực của mỗi cá nhân   khác nhau, tuy nhiên, trong bất kỳ  bài toán giải bằng cách lập phương trình  7Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  8. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình nào thì chúng ta cần phải thống nhất cho học sinh một trình tự để giải quyết  nó. Qua đó có thể rèn cho học sinh cách trình bày bài toán một cách logic, khoa   học hơn. Cụ thể như sau: * Bước 1: Chọn ẩn số ( ghi rõ đơn vị ) và đặt điều kiện cho ẩn; * Bước 2:  Biểu diễn các đại lượng chưa biết theo  ẩn và các đại lượng đã  biết; * Bước 3: Lập phương trình biểu thị mối quan hệ giữa các đại lượng. * Bước 4: Giải phương trình, chọn nghiệm và kết luận. Lưu ý: Trong 3 bước trên, cần chỉ ra cho học sinh bước 1 là quan trọng  nhất, nó quyết định bài giải có đúng hay không, các em cần xác định xem bài   toán thuộc dạng bài tập nào để lựa chọn ẩn cho phù hợp. Từ đó xác định đơn  vị và điều kiện của ẩn phải đúng với thực tế cuộc sống hằng ngày của chúng   ta. Tìm ra mối quan hệ với các đại lượng khác để  lập ra được phương trình   đúng. Ngoài ra, sau khi tìm được nghiệm của phương trình, phải đối chiếu  với điều kiện xác định ở bước 1 rồi mới đi tới kết luận của bài toán. Ví dụ: Một người đi xe máy từ  A đến B với vân tốc 40 km/h . Lúc về,  người đó đi với vận tốc 30 km/h, nên thời gian về nhiều hơn thời gian đi là 45   phút. Tính quãng đường AB.    Giải: Bước 1: Gọi x (km) là quãng đường AB ( x > 0) Bước 2: Thời gian đi: (giờ) ; thời gian về: (giờ) Bước 3:  Vì thời gian về  nhiều hơn thời gian đi là 45 phút = giờ  nên ta có  phương trình:     –   =    Bước 4:  –   =     4x – 3x = 90   x = 90 (thỏa đ/k)   Vậy quãng đường AB là: 90 km Giải pháp 3. Phân loại từng dạng bài tập cho học sinh 8Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  9. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình Tùy theo từng dạng bài tập cụ  thể  mà người giáo viên có thể  hướng   dẫn cho học sinh cách giải quyết cho phù hợp. Giúp học sinh giải quyết các   bài toán một cách chủ động, không bỡ ngỡ khi gặp các bài toán khác nhau, tạo   sự hứng thú cho học sinh.  Mỗi dạng toán sẽ có cách giải quyết và hướng  dẫn khác nhau, ta sẽ xét từng dạng cụ thể như sau: * Dạng 1: Dạng toán về chuyển động: Trong chương trình toán lớp 8 mà các em học sẽ gặp rất nhiều bài toán  thuộc dạng toán chuyển động này như: các bài toán về  chuyển động cùng  chiều,   ngược   chiều   trên   cùng   một   quảng  đường,   hoặc  chuyển   động  xuôi  dòng, ngược dòng nước…. Vì vậy, để giải quyết các bài toán này, các em cần phải nắm vững các  kiến thức, công thức liên quan. Như  đối với bài toán về  chuyển động thì các  em phải nắm rõ mối liên hệ  giữa các đại lượng về  quãng đường, thời gian,  vận tốc và mối liên hệ của chúng qua công thức: s=v.t. Từ đó suy ra:  ; . Hay   đối với bài toán chuyển động xuôi dòng, ngược dòng nước các em phải nắm  được:          vxuôi  =  vThực + v dòng nước ;   vngược = vThực ­ v dòng nước Từ đó mới có thể suy luận để lập ra được phương trình phù hợp. Ví dụ: Đối với bài toán: Một ca nô xuôi dòng từ bến A đến bến B mất 6 giờ  và ngược dòng từ bến B về bến A mất 7 giờ. Tính khoảng cách giữa hai bến   A và B, biết rằng vận tốc của dòng nước là 2 km/h.  Phân tích bài toán:  Đối với các dạng toán về chuyển động này thì ta có thể hướng dẫn học  sinh lập bảng hay vẽ sơ đồ về mối liên hệ giữa các đại lương, khi đó các em  sẽ dễ dàng tìm được hướng giải quyết bài toán hơn. Cụ thể: Nếu ta gọi x (km/h) là vận tốc của ca nô ( x > 2) thì dựa vào mối liên hệ  giữa quảng đường, vận tốc, thời gian và vận tốc khi đi xuôi dòng, ngược  dòng nước ta có bảng tóm tắt sau: Ca nô S(km) V (km/h) t(h) Xuôi dòng 6(x+2) x +2 6 Ngược dòng 7(x­2) x­2 7 Qua bảng tóm tắt ta dễ dàng lập ra được phương trình: 6(x+2) = 7(x­2). 9Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  10. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình Giải:  Gọi x (km/h) là vận tốc của ca nô ( x > 2). Vận tốc khi ca nô đi xuôi dòng nước là: x+2 (km/h) Quảng đường ca nô đi khi xuôi dòng là: 6(x+2) (km) Vận tốc khi ca nô đi ngược dòng nước là: x ­ 2 (km/h) Quảng đường ca nô đi khi ngược dòng là: 7(x ­ 2) (km) Vì quảng đường khi đi và về giống nhau nên ta có phương trình:  6(x+2) = 7(x­2) 6x +12=7x – 14 x = 26 ( Thỏa mãn Đ/k). ( Đến đây học sinh dễ mắc sai lầm là đi kết luận bài toán: Vận tốc của   ca nô là 26 km/h. Do đó cần hướng dẫn các em xác định rõ  yêu cầu của bài   toán là tìm cái gì để có đáp án hợp lý). Vậy quảng đường từ A đến B là: 6.( 26+2) =168 km Lưu ý: Trong một bài toán sẽ có nhiều đại lượng chưa biết, ta phải căn   cứ vào đề bài để lựa chọn ẩn cho phù hợp. Ưu tiên chọn trực tiếp đại lượng   bài toán yêu cầu làm ẩn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp không thể chọn   trực tiếp ta phải chọn đại lượng trung gian làm ẩn như trong ví dụ nêu trên.  Một số bài toán tương tự: Bài 1: Một người dự định đi từ Hà Nội về Thanh Hóa. Ban đầu Người đó dự  định đi xe máy với vận tốc 50km/h. Nhưng sau đó người đó lại đi ô tô với vận   tốc 60km/h nên đã đến sớm hơn dự  định là 1 giờ. Tính quãng đường từ  Hà   Nội vào đến Thanh Hóa Bài 2: Một người đi từ A đến B. Lúc đầu người đó dự định đi với vận tốc là  40km/h, nhưng đi được ½ quãng đường thì người đó dừng xe nghỉ 20 phút. Để  đến B đúng dự định người đó phải đi với vận tốc mới lớn hơn vận tốc cũ là   10km/h. Tính quãng đường AB. 10Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  11. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình Bài 3: Một xe máy khởi hành từ  A đến B  vào lúc 10 h sang với vận tốc là   45km/h. Lúc 11h sang, một ô tô cũng xuất phát từ  A đến B với vận tốc là  60km/h. Hỏi 2 xe gặp nhau lúc mấy h ? Bài 4: Một xe máy đi từ A đến B với vận tốc 50km/h. Đến B người đó nghỉ  15 phút rồi quay về A với vận tốc 40km/h. Biết thời gian tổng cộng h ết 2 gi ờ  30 phút. Tính quãng đường AB. Bài 5: Một người đi  ôtô  từ A đến B dài 240 km ,trên nửa quãng đường đầu đi  với vận tốc dự định , trên nửa quãng đương sau người đó đi với vận tốc bằng  3/2 vận tốc dự  định .Tính vận tốc dự  định ,biết thời gian đi trên cả  quãng  đườg là 5 giờ ? Bài 6: Đường sông từ thành phố A đến thành phố B ngắn hơn đường bộ là 10  km. Canô đi từ  A đến B hết 3h20’ còn ôtô đi hết 2h. Vận tốc của canô nhỏ  hơn vận tốc của ôtô là 17 km/h. Tính vận tốc của canô ?    Bài 7:Một ca nô chạy trên một khúc sông từ  bến A đến bến B, khi đi xuôi   dòng thì mất 5 giờ, khi đi ngược dòng thì mất 6 giờ. Tính khoảng cách từ bến  A đến bến B, biết vân tốc của ca nô khi đi xuôi dòng hơn vân tốc của ca nô   khi đi ngược dòng là 6km/giờ? Bài 8:Một ca nô xuôi dòng từ A đến B hết 4 giờ và ngược dòng từ B về A hết  6 giờ. Biết vận tốc của dòng nước 50m/phút. Tính a,  Chiều dài quãng sông AB b,  Vận tốc ca nô trong nước yên lặng. Bài 9: Một ca nô xuôi dòng từ  A đến B hết 2 giờ  và ngược dòng từ  B về  A   hết 4 giờ. Hỏi một cụm bèo trôi theo dòng nước từ A đến B hết mấy giờ? Bài 10: Lúc 6 giờ sáng một chuyến tàu thuỷ chở khách xuôi dòng từ A đến B  nghỉ lại 2 giờ để  trả  và đón khách rồi lại ngược dongngf về đến A lúc 3 giờ  20 phút chiều cùng ngày. Hãy tính khoảng cách giữa hai bến A và B, biết rằng   thời gian xuôi dòng nhanh hơn thời gian ngược dòng 40 phút và vận tốc của   dòng nước  là 50m/phút. Bài 11:Một nhóm các bạn bơi thuyền đi chơi xuôi dòng sông với vận tốc là  6km/giờ và bơi ngược dòng với vận tốc là 3km/giờ. Hỏi 11Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  12. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình a,  Nếu chuyến đi chơi kéo dài 4 giờ  thì khi rời bến bao xa thì các bạn   phải quay lại để trở về đúng giờ? b, Vận tốc của dòng sông? c, Vận tốc thực của thuyền? * Dạng 2: Dạng toán liên quan đến số học Đối với các bài tập dạng này các em cần phải phân tích đề bài để tìm ra  quy luật của hai số đó. Thông thường ta coi hai số là số  lớn và số  bé rồi tìm   mối liên hệ giữa chúng để lập ra phương trình cụ thể và giải. Ví dụ: Hiệu hai số  là 15. Nếu chia số  bé cho 5 và số  lớn cho 10 thì  thương thứ nhất lớn hơn thương thứ hai là 2 đơn vị. Tìm hai số đó.      Phân tích bài toán: Bài toán có hai đại lượng chưa biết là số lớn và số bé.    Nếu gọi số lớn là x thì số bé biểu diễn bởi biểu thức nào?  Hướng dẫn học sinh lập bảng để tìm mối liên hệ giữa các đại lượng      Giá trị Thương Số bé x ­ 15 Số lớn x Từ bảng vừa lập ta có thể tìm ra lời giải cho bài toán. Giải:       Gọi số lớn là x.      Số bé là: x ­ 15      Chia số bé cho 5 ta được thương là : .     Chia số lớn cho 10 ta được thương là:               Vì thương thứ  nhất lớn hơn thương thứ  hai 2 đơn vị  nên ta có phương  trình:                         ­ = 2                 Giải phương trình ta được x = 50 12Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  13. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình       Vậy số lớn là 50.       Số bé là: 50 ­ 15 =35. Một số bài toán tương tự: Bài 1. Tuổi bố và tuổi con cộng lại được 58 tuổi. Bố hơn con 38 tuổi. Hỏi bố  bao nhiêu tuổi, con bao nhiêu tuổi? Bài 2. Hai ông cháu hiện nay có tổng số tuổi là 68, biết rằng cách đây 5 năm   cháu kém ông 52 tuổi. Tính số tuổi của mỗi người. Bài 3.  Hai thùng dầu có tất cả 116 lít. Nếu chuyển 6 lít từ thùng thứ nhất sang  thùng thứ  hai thì lượng dầu  ở  hai thùng bằng nhau. Hỏi mỗi thùng có bao   nhiêu lít dầu ? Bài 4. Cha hơn con 32 tuổi. Biết 4 năm nữa tổng số tuổi của 2 cha con là 64   tuổi. Tính tuổi 2 cha con hiện nay. Bài 5. Tổng của hai số  là một số  lớn nhất có 3 chữ  số  chia hết cho 5. Biết  nếu thêm vào số bé 35 đơn vị thì ta được số lớn. Tìm mỗi số. Bài 6. Trên một bãi cỏ người ta đếm được 100 cái chân vừa gà vừa chó. Biết   số chân chó nhiều hơn chân gà là 12 chiếc. Hỏi có bao nhiêu con gà, bao nhiêu   con chó ? Bài 7. Trên một bãi cỏ người ta đếm được 100 cái mắt vừa gà vừa chó. Biết   số chó nhiều hơn số gà là 12con. Hỏi có bao nhiêu con gà, bao nhiêu con chó ? Bài 8. Một phép trừ  có tổng của số  bị  trừ, số  trừ  và hiệu là 7652. Hiệu lớn   hơn số trừ 798 đơn vị. Hãy tìm phép trừ đó. Bài 9. An và Bình mua chung 45 quyển vở  và phải trả  hết số  tiền là 72000  đồng. Biết An phải trả nhiều hơn Bình 11200. Hỏi mỗi bạn đã mua bao nhiêu   quyển vở. Bài 10. Ba bạn Lan, Đào, Hồng có tất cả 27 cái kẹo. Nếu Lan cho Đào 5 cái,  Đào cho Hồng 3 cái, Hồng lại cho Lan 1 cái thì số kẹo của ba bạn bằng nhau.   Hỏi lúc đầu mỗi bạn có bao nhiêu cái kẹo ? * Dạng 3: Dạng toán về công việc làm chung, làm riêng, năng suất lao  động, tỉ lệ chia phần Khi gặp dạng toán này, cần lưu ý cho học sinh phải đọc đề bài cho cụ  thể, tìm đúng ẩn để đặt, biểu thị qua các đơn vị quy ước. từ đó lập phương  trình để giải. Ví dụ 1: Một tổ sản xuất theo kế hoạch mỗi ngày phải sản xuất 50 sản  phẩm. Khi thực hiện, mỗi ngày tổ đã sản xuất được 57 sản phẩm. Do đó tổ  13Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  14. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình đã hoàn thành trước kế hoạch 1 ngày và còn vượt mức 13 sản phẩm. Hỏi theo  kế hoạch, tổ phải sản xuất bao nhiêu sản phẩm? Lập bảng phân tích: Năng suất 1 ngày  Số ngày ( ngày ) Số sản phẩm  ( sản phẩm/  ( sản phẩm) ngày) Kế hoạch 50 x Thực hiện 57 x+ 13 Phương trình : ­ = 1  Giải: Gọi x ( sản phẩm) là số  sản phẩm theo kế hoạch mà tổ  sản xuất phải hoàn   thành  (xϵΝ, x > 0). Theo kế hoạch tổ sản xuất phải hoàn thành trong  ( ngày) Số sản phẩm hoàn thành theo thực tế là x+ 13 ( sản phẩm) và thời gian hoàn  thành là ( ngày). Theo đề ra tổ đã hoàn thành trước 1 ngày nên ta có phương trình ­ = 1 Giải phương trình ta được x = 93 Vậy số  sản phẩm mà tổ  sản xuất phải hoàn thành theo kế  hoạch là 93 sản  phẩm. Ví dụ 2:  Số công nhân của hai xí nghiệp trước kia tỉ lệ với 3 và 4. Nay  xí nghiệp 1 thêm 40 công nhân, xí nghiệp 2 thêm 80 công nhân. Do đó số công  nhân hiện nay của hai xí nghiệp tỉ lệ với 8 và 11. Tính số công nhân của mỗi  xí nghiệp hiện nay.       Phân tích bài toán:       Có hai đối tượng tham gia trong bài toán, đó là xí nghiệp 1 và xí nghiệp 2.   Nếu gọi số công nhân của xí nghiệp 1 là x, thì số  công nhân của xí nghiệp 2  biểu diễn bằng biểu thức nào? Học sinh lập bảng và điền vào các ô trống còn  lại và căn cứ vào giả thiết: Số công nhân của hai xí nghiệp tỉ lệ với 8 và 11 để  lập phương trình. Số công nhân Trước kia Sau khi thêm 14Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  15. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình Xí nghiệp 1 x x + 40 Xí nghiệp 2  + 80      Giải:     Gọi x (công nhân) là số công nhân xí nghiệp I trước kia (xϵΝ, x > 0).     Số công nhân xí nghiệp II trước kia là x (công nhân).     Số công nhân hiện nay của xí nghiệp I là: x + 40 (công nhân).     Số công nhân hiện nay của xí nghiệp II là:  + 80 (công nhân).     Vì số công nhân của hai xí nghiệp tỉ lệ với 8 và 11 nên ta có phương trình:                                                     Giải phương trình ta được: x = 600 (thỏa mãn điều kiện).      Vậy số công nhân hiện nay của xí nghiệp I là: 600 + 40 = 640 công nhân.      Số công nhân hiện nay của xí nghiệp II là:  .600 + 80 = 880 công nhân. Một số bài toán tương tự: Bài 1. Theo kế  hoạch mỗi ngày tổ  Quyết Thắng phải may được 120 cái áo .  Khi thực hiện , mỗi ngày tổ  may được 130 cái áo . Nên tổ  đã hoàn thành kế  hoạch sớm hơn hai ngày. Hỏi theo kế hoạch , tổ phải may bao nhiêu cái áo? Bài  2. Trong tháng đầu hai tổ công nhân của một xí nghiệp dệt được 800 tấm  thảm len. Tháng thứ hai tổ I vượt mức 15%, tổ 2 vượt mức 20% nên cả hai tổ  dệt được 945 tấm thảm len. Tính xem trong tháng thứ hai mỗi tổ đã dệt được  bao nhiêu tấm thảm len Bài 3.  Hai đội công nhân cùng sửa một con mương hết 24 ngày. Mỗi ngày  1 2 phần việc làm được của đội 1 bằng 1  phần việc của đội 2 làm được. Nếu  làm một mình, mỗi đội sẽ sửa xong con mương trong bao nhiêu ngày? 15Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  16. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình Bài 4. Một xí nghiệp hợp đồng dệt tấm thảm len trong 20 ngày. Do cải tiến  kỹ thuật, năng suất dệt của xí nghiệp đã tăng 20%. Bởi vậy, chỉ trong 18 ngày,  không những xí nghiệp đã hoàn thành số thảm cần dệt mà còn dệt thêm được  24 tấm nữa. Tính số thảm mà xí nghiệp phải dệt theo kế hoạch. Bài 5. Một công nhân dự định sẽ hoàn thành công việc được giao trong 5 giờ.  Lúc đầu mỗi giờ người đó làm được 12 sản phẩm. Khi làm được một nửa số  lượng công việc được giao, nhờ cải tiến kỹ thuật nên mỗi giờ  người đó làm   thêm được 3 sản phẩm nữa. Nhờ vậy, công việc hoàn thành trước thời hạn 30  phút. Tính số sản phẩm người đó dự định làm. * Dạng 4: Dạng toán liên quan đến các môn học khác. Đối với dạng toán này các em cần phải nắm được các công thức của  từng môn học, mối liên hệ giữa các yếu tố  trong  các môn học đó để  đặt ẩn  và lập phương trình thích hợp. Ví dụ: một hợp kim của đồng và kẽm có khối lượng 124g và có thể tích  15cm  . Tính xem trong hợp kim này có  bao nhiêu gam đồng và bao nhiêu gam  3 kẽm, biết rằng cứ  90g đồng có thể  tích 10 cm3  và 7 gam kẽm có thể  tích 1  cm3. ( Đối với bài toán này các em cần nhớ lại các công thức tính khối lượng  riêng và suy ra ). Giải: Gọi x là số gam đồng trong hợp kim ( 0 
  17. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình Giải phương trình ta được x = 89 ( Thỏa mãn đ/k) Vậy trong hợp kim có 89g đồng và 124 – 89 = 35g kẽm. Một số bài toán tương tự: Bài 1. Lan có một miếng bìa hình tam giác ABC vuông tại A, cạnh AB = 3cm.  Lan tính rằng nếu cắt từ miếng bìa đó ra một hình chữ nhật có chiều dài 2cm  như hình bên thì hình chữ nhật ấy có diện tích bằng một nửa diện tích của  miếng bìa ban đầu. Tính độ dài cạnh AC của tam giác ABC. Bài 2. Biết rằng 200g một dung dịch chứa 50g muối. Hỏi phải pha thêm bao   nhiêu gam nước vào dung dịch đó để được một dung dịch chứa 20% muối? Bài 3. Tìm một số tự nhiên có hai chữ số, biết rằng nếu viết thêm một chữ số  2 vào bên trái và một chữ  số  2 vào bên phải số  này thì ta được một chữ  số  mới lớn gấp 153 lần số ban đầu. Bài 4. Một khu vườn hình chữ  nhật có chu vi 82m. chiều dài hơn chiều rộng   11m. Tính diện tích khu vườn đó. Bài 5. Một hình chữ nhật có chu vi là 36m, diện tích 56m2. Tính  độ  dài mỗi  cạnh. Bài 6. Hòa và Bình là hai chị em ruột. Sau 5 năm nữa thì tuổi của Hòa gấp đôi  số  tuổi hiện nay, còn sau 3 năm nữa thì tuổi của Bình sẽ  gấp 4 lần số  tuổi   của 3 năm trước. Biết rằng Hòa và Bình có tháng sinh giống nhau. Tìm mối   quan hệ giữa Hòa và Bình? Giải pháp 3. Đảm bảo đầy đủ yêu cầu trong lời giải Đối với dạng bài tập có lời giải thì cách trình bày lời giải trong bài toán   phải luôn được đảm bảo. Để làm được điều này, người giáo viên phải hướng   dẫn cụ thể cho các em học sinh trong việc tìm hiểu đề bài toán. Yêu cầu các  em đọc đề  bài nhiều lần để  nắm rỏ  xem bài toán yêu cầu làm gì, đã cho   những gì. Nó giúp các em chọn ẩn phù hợp, đặt điều kiện đúng, lập luận chặt  chẽ. Một bài toán giải hoàn chỉnh phải đảm bảo 5 yêu cầu sau: + Lời giải phải có căn cứ rõ ràng, chính xác. + Lời giải phải đơn giản. 17Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  18. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình + Lời giải phải đầy đủ và mang tính toàn diện. + Lời giải phải được trình bày một cách khoa học. + Lời giải phải chính xác và không dư thừa. IV. Tính mới của giải pháp Với phương pháp giải bài toàn bằng cách lập phương trình này, giáo  viên có thể rèn luyện cho học sinh cách trình bày bài toán, kĩ năng lập phương  trình từ những bài tập cụ thể. Theo dõi được sát hơn sự tiến bộ của học sinh.  Các dạng bài tập được phân chia rõ ràng, ví dụ  minh họa cụ  thể, tuy  chưa đầy đủ  nhưng đa phần là các bài toán mà các em thường gặp trong quá  trình học cũng như  ôn thi học sinh giỏi và đã được hướng dẫn một cách cụ  thể  nhất để  các em nắm được, chủ  động trong việc vận dụng vào việc lập   phương trình và giải phương trình. Mỗi dạng bài tập đều đi kèm với các bài toán có liên quan, qua đó các   em có thể tự rèn thêm bài tập để  nắm được nội dung kiến thức mà giáo viên  hướng dẫn. Tuy nhiên, giáo viên cần phải kiểm tra, đánh giá, khắc phục ngay  những sai sót mà học sinh còn mắc phải để học sinh rút kinh nghiệm kịp thời,  tránh mắc lỗi trong những lần giải bài tập kế tiếp. V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm Qua việc trực tiếp vận dụng sáng kiến này vào công tác giảng dạy, tôi  đã đạt được một số hiệu quả cụ thể như sau: ­ Kiến thức: Đảm bảo đầy đủ  nội dung bài dạy, khách quan khoa học   theo đúng chuẩn kiến thức đặt ra trước đó.  Nội dung bài dạy trở  nên nhẹ  nhàng, dễ hiểu phù hợp với tầm hiểu biết của học sinh, có thể giúp học sinh  nhớ  lâu kiến thức một cách tự  nhiên nhất mà không mang tính ép buộc trong   lớp học. 18Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  19. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình Các em đã chủ động hơn trong việc nắm kiến thức bài học, mạnh dạn, tự  giác lên bảng sửa bài tập. ­ Khả  năng tự  tin, chủ  động, sáng tạo: Đây là những kinh nghiệm có  được qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, nên sau khi thực hiện kết quả  lớn   nhất thu về không chỉ  là nội dung kiến thức mà các em còn tự  nhận thấy vai  trò cá nhân của mình trong tập thể  và nâng cao khả  năng làm chủ  kiến thức  của mình hơn. Tính chủ động trong việc nắm nội dung bài học cũng như giải  quyết bài toán có liên quan được nâng cao, đa số các em đã tự giải quyết được   bài toán của mình. Ngoài ra các em học sinh khá giỏi còn tự  mình tìm kiếm  thêm cho mình các bài toán nâng cao để  củng cố  thêm kiến thức.  Điều này  tạo tiền đề cho việc học sau này của các em khi gặp các kiến thức nâng cao  hơn nữa ở chương trình học lớp 9, cũng như sẽ giúp giáo viên truyền thụ kiến   thức dễ dàng hơn. 19Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
  20. Một số phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình 20Đào Thị Nữ – THCS Lê Đình Chinh – Krông Ana – Đắk Lắk
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0