intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp làm bài nghị luận văn học lớp 9

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

29
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm THCS "Phương pháp làm bài nghị luận văn học lớp 9" với mục đích của tôi là rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh. Cụ thể là cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản nhất về kĩ năng, phương pháp làm bài nghị luận văn học. Từ chỗ làm được bài văn đúng tiến tới làm được bài văn hay theo một quy trình hoàn chỉnh: từ tìm hiểu đề, tìm ý đến lập dàn ý, các yêu cầu về diễn ý, hành văn sau đó là thể hiện thành đoạn văn, bài văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp làm bài nghị luận văn học lớp 9

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Mỗi tác phẩm văn chương là thành quả sáng tạo của nhà văn, nhà thơ thuộc một thời kì văn học nhất định. Tác phẩm dù nhỏ nhất là một câu tục ngữ, một bài ca dao hay lớn hơn là một bài thơ, một truyện ngắn... đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào giúp học sinh đồng cảm với những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ của giáo viên dạy Ngữ văn. Lep Tôn- xtôi nói: “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là làm thế nào để biết được quả đất tròn”. Chân lí là quý báu, nhưng cách tìm ra chân lí còn quý bàu hơn nhiều. Vì thế cái khó trong việc dạy Văn nhất là dạy Tập làm văn kiểu bài Nghị luận văn học là làm sao hướng cho học sinh tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm để các em không những làm được bài văn đúng mà còn phải viết được bài văn hay. Thế nhưng một thực tế là số học sinh lớp 9 nắm chắc phương pháp, có kĩ năng làm bài rất ít. Ý nghèo nàn, chữ viết cẩu thả, khả năng diễn ý hành văn kém. Các em học văn một cách thụ động, thường dựa vào bài văn mẫu hoặc ý thầy cô cho sẵn, chưa tự mình tìm ra các ý mới, ý sâu sắc do chính bản thân cảm nhận được. Rồi hiện tượng học sinh lười học Văn, không yêu thích môn Văn cũng là vấn đề nan giải. Vậy làm thế nào giúp học sinh hiểu rõ kiểu bài Nghị luận văn học và yêu thích môn Tập làm văn. Điều này quả là khó đối với giáo viên dạy Văn. Từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, ôn luyện cho học sinh thi vào lớp 10, và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn khiến tôi rất trăn trở. Những trăn trở này thôi thúc tôi phải tìm tòi, nghiên cứu tìm giải pháp để dạy học sinh lớp 9 làm bài văn nghị luận văn học hiệu quả. Và sau một năm thực nghiệm phương pháp dạy học sinh lớp 9 làm bài Nghị luận văn học của mình, tôi đã đúc rút được kinh nghiệm quý báu. Kinh nghiệm ấy được kết hợp với những nguyên tắc lí thuyết nhằm đưa ra một phương pháp phù hợp để giúp học sinh xây dựng được một bài văn hoàn chỉnh, bài làm đạt chất lượng cao. Đề tài: “Phương pháp làm bài nghị luận văn học lớp 9” là tôi trình bày những sáng kiến, những suy nghĩ của mình về việc dạy học sinh lớp 9 viết đúng, tiến tới viết hay bài nghị luận văn học. Từ đó giúp các em nắm chắc những yêu cầu cơ bản, có kiến thức đầy đủ về kiểu bài, có kĩ năng làm bài tốt. Các em thêm yêu quý môn Văn, tự tin khi làm bài Tập làm văn làm cho việc học Văn, thi Văn của các em ngày càng đạt kết quả cao. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Nghiên cứu đề tài “Phương pháp làm bài nghị luận văn học lớp 9” với mục đích của tôi là rèn kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh. Cụ thể là cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản nhất về kĩ năng, phương pháp làm bài nghị luận văn học. Từ chỗ làm được bài văn đúng tiến tới làm được bài văn hay theo một quy 1
  2. trình hoàn chỉnh: từ tìm hiểu đề, tìm ý đến lập dàn ý, các yêu cầu về diễn ý, hành văn sau đó là thể hiện thành đoạn văn, bài văn. 3. Đối tượng nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu là phân môn Tập làm văn kiểu bài nghị luận văn học. Nghiên cứu phương pháp, cách làm để tìm ra giải pháp tối ưu nhất cho việc dạy học sinh cách làm bài nghị luận văn học đạt kết quả trong nhà trường Trung học cơ sở. 4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm - Đối tượng khảo sát khi chưa áp dụng đề tài: Học sinh lớp 9D năm học 2017- 2018 - Đối tượng khảo sát khi áp dụng đề tài: Học sinh lớp 9B năm học 2018-2019, (học sinh đại trà và học sinh giỏi). 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài - Hiểu và nắm chắc đặc điểm, yêu cầu của một bài văn nghị luận văn học. - Đọc, nghiên cứu phân môn Tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 9, tìm đọc các sách tham khảo, các tài liệu liên quan đến kiểu bài Nghị luận văn học. - Khảo sát, nắm tình hình thực tế học sinh. - Rút kinh nghiệm từ thực tiễn giảng dạy hàng năm, kết hợp với nguyên tắc lí thuyết cơ bản để tìm ra giải pháp. 6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu đề tài - Đề tài được nghiên cứu trong năm học 2018-2019 - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 8 năm 2019 đến tháng 5 năm 2019 B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận của đề tài 1.1. Yêu cầu của bài văn đúng 1.1.1. Đúng yêu cầu của đề Trước một đề văn học sinh phải xác định được yêu cầu của đề. Yêu cầu của đề văn nghị luận thể hiện ở hai phương diện: Yêu cầu về phạm vi nội dung cần nghị luận và yêu cầu về cách thức nghị luận. Học sinh xác định yêu cầu đề bài bằng cách trả lời các câu hỏi: Đây là nghị luận xã hội hay nghị luận văn học? Nếu là nghị luận văn học thì đề yêu cầu làm sáng tỏ phạm vi nội dung nào? Thao tác nghị luận chính là gì? 1.1.2. Đúng những kiến thức cơ bản Kiến thức cơ bản thể hiện tầm văn rộng hẹp của người viết. Để viết được một bài nghị luận văn học đúng người viết phải sử dụng rất nhiều loại kiến thức cơ bản khác nhau. Một số kiến thức cơ bản cần phải phải nắm chắc trước khi làm văn nghị luận là: Kiến thức văn học sử (các giai đoạn, các thời kì trong tiến trình phát triển lịch sử văn học); kiến thức tác phẩm (với thơ phải thuộc, với tác phẩm văn xuôi 2
  3. phải nắm được chi tiết, sự kiện, nhân vật, cốt truyện…); kiến thức ngôn ngữ (dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, tạo lập văn bản); kiến thức làm văn (xác định kiểu bài, bố cục, tìm ý, lập ý, diễn ý, hành văn, lập luận…). 1.2. Hiểu và phân tích được cái hay của văn Tác phẩm văn học chứa đựng tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ lớn lao của người nghệ sĩ. Cách diễn đạt nội dung ấy được thông qua một loạt các hình ảnh, nhân vật, nhịp điệu… Muốn phân tích một tác phẩm, một đoạn trích tương đối hoàn chỉnh trong tác phẩm người viết phải tuân thủ các bước: - Bước 1: Phải đọc tác phẩm nhiều lượt, vừa đọc vừa suy ngẫm để cảm thụ tinh thần chung của tác phẩm và những nét tài nghệ lớn của tác giả. Nếu là thơ trữ tình thì sự cảm thụ nên hướng nhiều hơn về tình cảm. Tình cảm, cảm xúc của nhà thơ chi phối mạnh mẽ ở hình ảnh, màu sắc, nhịp điệu… còn nếu là tác phẩm truyện ngắn hay thơ tự sự thì cảm thụ hướng nhiều về cốt truyện và khắc họa tính cách nhân vật. - Bước 2: Phân tích, bình giảng chi tiết. Đó là phân tích, bình giảng từng phần, từng mặt của các đặc sắc nghệ thuật lớn trong tác phẩm: một nhân vật, một tình tiết, một hình ảnh, một câu, một từ, một âm điệu, một thủ pháp nghệ thuật nào đó… Các chi tiết được chọn cũng không nên phân tích bình giảng một cách bình quân mà có đậm, có nhạt tùy theo vị trí quan trọng của chi tiết ấy đối với cái tinh thần chung và những nét đặc sắc nghệ thuật lớn cũng tùy theo yêu cầu của đề bài. Tuy nhiên phân tích chi tiết không được lạc ra ngoài sự cảm thụ tổng quát ban đầu về tinh thần chung và đặc sắc nghệ thuật chung của tác phẩm, của từng đoạn. Nó chẳng qua là đi vào thâm nhập sâu hơn, tỉ mỉ hơn mà thôi. 2. Thực trạng của đề tài 2.1. Quan điểm về cách dạy Làm văn nghị luận Nội dung chính của Làm văn nghị luận là dạy cho học sinh biết cách tạo ra ý, làm phong phú ý và biết lập luận, phản bác, để bảo vệ ý kiến của mình… Nghĩa là tăng cường rèn luyện tính chủ động, tích cực trong suy nghĩ của người học. Học sinh phải có năng lực vận dụng các thao tác làm văn một cách linh hoạt, sáng tạo như: phân tích, giải thích, bình luận, so sánh… Những thao tác nghị luận này phải được kết hợp nhuẫn nhuyễn trong bài văn. Học sinh được thực hành, ứng dụng làm bài văn nhiều hơn, bớt lí thuyết về các kiểu bài, tăng cường cung cấp kiến thức liên quan đến việc đọc- hiểu các văn bản tương ứng để thực hiện dạy học tích hợp. 2.2. Thực trạng học sinh (khảo sát thực tế) Làm văn kiểu bài Nghị luận văn học là học sinh tìm ra được cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm, học sinh phải có kĩ năng làm bài. Nhưng thực tế số học sinh lớp 9 nắm chắc phương pháp, có kĩ năng làm bài rất ít. Ý nghèo nàn, chữ viết cẩu thả, khả năng diễn ý hành văn kém. Các em học văn một cách thụ động, thường dựa vào 3
  4. bài văn mẫu hoặc ý thầy cô cho sẵn chưa tự mình tìm ra các ý mới, ý sâu sắc do chính bản thân cảm nhận được. Các em còn mắc rất nhiều lỗi trong quá trình làm bài như: lẫn lộn các giai đoạn, các thời kì phát triển lịch sử văn học, không nhớ hoặc nhớ sai hoàn cảnh ra đời tác phẩm; không thuộc hoặc thuộc quá ít thơ, không nắm được chi tiết, sự kiện, nhân vật, cốt truyện…, lẫn lộn giữa tác phẩm này với tác phẩm khác; hiểu sai từ, viết sai câu, không nắm được đoạn văn, bố cục bài văn… Rồi hiện tượng học sinh lười học Văn, không yêu thích môn Văn đang là vấn đề nan giải. Năm học 2017-2018 tôi tiến hành khảo sát 30 học sinh lớp 9D làm bài văn nghị luận văn học. Kết quả là: số học sinh nắm tốt kĩ năng làm bài là 16,7%; học sinh chưa nắm được kĩ năng là 36,6 %. 2.3. Về phía giáo viên Đa số giáo viên cho rằng dạy phân môn Tập làm văn đặc biệt là dạy văn nghị luận là rất khó. Để dạy cho các em biết làm đúng, làm hay kiểu bài nghị luận văn học đòi hỏi giáo viên phải có năng lực thẩm thơ văn, bình luận tốt, nắm vững kĩ năng, phương pháp, kiểu bài. Giáo viên phải thực hiện tích hợp được các phân môn Văn- Tập làm văn- Tiếng Việt trong bài giảng văn, tạo điều kiện cho học sinh luyện tập bình giảng trong tiết Đọc- hiểu văn bản. Muốn làm được như thế giáo viên phải đầu tư thời gian, trí tuệ trong từng bài giảng. Nhưng thực tế không phải giáo viên nào cũng có những điều kiện ấy. Trước những cơ sở lí luận và thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu, tìm giải pháp để dạy học sinh lớp 9 làm tốt bài nghị luận văn học. 3. Nội dung cụ thể của đề tài (Giải pháp để giải quyết vấn đề) 3.1. Tìm hiểu đề, tìm ý Đây là khâu đầu tiên rất quan trọng trong tiến trình làm bài văn nghị luận. Ở phần này tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ý bằng cách đặt và trả lời câu hỏi. 3.1.1. Tìm hiểu đề - Đề yêu cầu kiểu bài gì? Đề đặt ra vấn đề gì cần giải quyết? - Giải quyết vấn đề ấy cần đến kiến thức nào? 3.1.2. Tìm ý - Trả lời các câu hỏi: + Tác phẩm (nhân vật, tình huống ...) hay ở chỗ nào ? Nó xúc động ta ở ý gì ? + Cái hay ấy được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật nào (cốt truyện, chi tiết,… hình ảnh, nhịp điệu,…)? Hình thức đó được xây dựng bằng thủ pháp nghệ thuật gì? - Để tìm ý được phong phú, tôi dạy học sinh cách tích lũy “vốn ý” từ những giờ giảng văn trên lớp của thầy, từ việc đọc những bài văn hay của các nhà văn, nhà lí luận phê bình để vừa học cách viết cụ thể vừa học cách lập ý, sau đó tập tóm tắt bài viết ấy thành một dàn ý theo hệ thống. Ví dụ như: Bài viết về vấn đề gì? Mở bài 4
  5. đến đâu và nêu luận đề gì lớn? Thân bài gồm mấy phần, mỗi phần có mấy ý lớn, trong mỗi ý lớn có thể phân chia thành mấy ý nhỏ? Kết bài nêu ý gì? Ví dụ: Tìm hiểu đề, tìm ý cho đề bài: “Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân”. * Tìm hiểu đề: Đặt và trả lời câu hỏi: Đề đặt ra vấn đề gì cần giải quyết? - Đề yêu cầu nêu những suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Nêu được tình yêu làng gắn với lòng yêu nước của ông Hai, một nét rất mới trong đời sống tinh thần của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Giải quyết vấn đề ấy cần đến kiến thức nào? - Tư liệu chính là truyện ngắn Làng của Kim Lân. Tuy nhiên để làm nổi bật được thứ tình cảm mới mẻ của người nông dân trong kháng chiến, học sinh phải mở rộng vùng tư liệu ở các tác phẩm khác như truyện “Lão Hạc”, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” để so sánh làm nổi bật vấn đề của đề bài. Đề yêu cầu kiểu bài gì? - Kiểu bài nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm: Nêu suy nghĩ, nhận xét, đánh giá về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai. * Tìm ý: Đặt và trả lời câu hỏi Nét nổi bật nhất ở nhân vật ông Hai là gì ? - Nét nổi bật nhất ở nhân vật ông Hai là tình yêu làng, yêu nước thống nhất với tinh thần kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được bộc lộ trong tình huống nào? - Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được bộc lộ rõ nhất ở tình huống khi ông nghe tin đồn làng mình theo giặc và khi nghe tin cải chính. Tình cảm ấy có đặc điểm, ý nghĩa gì trong hoàn cảnh thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp? - Tình cảm ấy là biểu hiện của tình yêu nước, niềm tin vào cách mạng, vào Đảng, nhiệt tình tham gia ủng hộ kháng chiến. Những chi tiết nghệ thuật nào chứng tỏ một cách sinh động, thú vị tình yêu làng và lòng yêu nước ấy của ông Hai? - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Việc lựa chọn tình huống truyện độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật. Miêu tả tâm lí nhân vật cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua ý nghĩ. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại sinh động, giàu tính khẩu ngữ, thể hiện rõ cá tính nhân vật. 3.2. Lập dàn ý Không thể viết được một bài văn vừa đủ ý vừa hay nếu không có một đề cương. Là học sinh đang ở giai đoạn học tập và rèn luyện vì thế dứt khoát tôi yêu cầu các em lập dàn ý trước khi viết bài. Mục đích chính của việc lập dàn ý là buộc 5
  6. học sinh phải động não, phải suy nghĩ trước khi viết. Có hai loại dàn ý là dàn ý tổng quát và dàn ý chi tiết. Dàn ý tổng quát là nhìn vào đó thấy được những luận điểm lớn nhất của bài viết. Dàn ý chi tiết là được phát triển từ dàn ý tổng quát, chi tiết cho từng phần, từng luận điểm, luận cứ, luận chứng. Ví dụ: Lập dàn ý chi tiết cho đề bài: “Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân”. A. Mở bài Phần mở bài tôi hướng dẫn học sinh: giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Làng” và nhân vật ông Hai, nhận định đây là một trong những nhân vật thành công bậc nhất của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. Mở bài gồm các ý cơ bản sau: - Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người nông dân, ông thường viết về đề tài người nông dân. - Truyện ngắn “Làng” được sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. - Nhân vật ông Hai là một trong những hình ảnh tiêu biểu nhất về người nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp có tình yêu làng, yêu nước hòa quyện, gắn bó. B. Thân bài Tôi hướng dẫn học sinh tìm hệ thống luận điểm, luận cứ để sáng tỏ tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai và nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. - Luận điểm 1: Ông Hai là một người nông dân đi tản cư trong kháng chiến chống Pháp, có tình yêu làng quê, yêu nước rất đặc biệt. + Luận cứ 1: Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông Hai. Làng không chỉ đẹp mà còn tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc (dẫn chứng, phân tích) + Luận cứ 2: Ở nơi tản cư ông Hai đau đáu nhớ quê, nhớ anh em du kích (dẫn chứng, phân tích, nhận xét) + Luận cứ 3: Ông Hai luôn tìm cách theo dõi tin tức kháng chiến, ruột gan sung sướng khi nghe được nhiều tin hay, tin chiến thắng của quân ta (dẫn chứng, phân tích, nhận xét) - Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai được bộc lộ sâu sắc và cảm động khi ông nghe tin làng mình theo giặc. + Luận cứ 1: Phản ứng tâm lí khi ông Hai mới nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: bàng hoàng, sững sờ, tủi thẹn (dẫn chứng, phân tích, nhận xét) + Luận cứ 2: Nỗi ám ảnh day dứt trong lòng ông Hai từ khi cái tin dữ xâm chiếm trở thành sự sợ hãi lo lắng (dẫn chứng, phân tích, nhận xét). + Luận cứ 3: Xung đột nội tâm khi ông Hai phải lựa chọn giữa tình yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc (dẫn chứng, nhận xét). 6
  7. + Luận cứ 4: Cuộc trò chuyện với con khẳng định tình yêu quê hương vẫn chan chứa trong lòng ông Hai. - Luận điểm 3: Niềm vui khi nghe tin cải chính. + Luận cứ 1: Ông Hai đi khoe tin làng ông bị giặc đốt, nhà ông bị giặc đốt. + Luận cứ 2: Ông Hai mua quà chia cho các con (dẫn chứng, phân tích, nhận xét) - Tiểu kết: Khẳng định vẻ đẹp của tình yêu làng, yêu nước của ông Hai gắn bó, bền chặt, thiêng liêng. - Liên hệ, so sánh: So sánh với nhân vật Lão Hạc (“Lão Hạc” - Nam Cao), để thấy được những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn tình cảm và tính cách của người nông dân khi có ánh sáng của Đảng, Bác Hồ giác ngộ. - Luận điểm 4: Nghệ thuật miêu tả nhân vật. + Lựa chọn tình huống truyện độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng + Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế. + Ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính khẩu ngữ, thể hiện rõ cá tính nhân vật. C. Kết bài: Giáo viên hướng dẫn học sinh kết bài theo các ý: - Đánh giá chung về thành công của tác phẩm, sức hấp dẫn của nhân vật, ý nghĩa biểu tượng của hình tượng nhân vật. - Cảm nghĩ của mình từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về tâm hồn, tình cảm của nười dân Việt Nam. 3.3. Làm bài văn Một nhà phê bình văn học nói rằng giải một bài toán, tìm được đáp số là xong nhưng làm một bài văn, tìm được đáp số công việc xem như mới được một nửa. Đọc một bài thơ, một đoạn văn, một cuốn sách nhiều khi ai cũng thấy hay nhưng hay ở chỗ nào? Vì sao như thế lại hay? Nói cho ra nhẽ đã khó, đặt bút xuống viết, diễn tả cho hết những cảm nghĩ của mình để người đọc cũng thấy là hay còn khó hơn. Trong quá trình làm văn đa phần học sinh gặp tình huống này, ý đã có rồi mà văn cứ tắc lại, nhiều khi viết ý rời rạc, lời lẽ nhạt nhẽo. Vậy làm thế nào để hướng dẫn các em viết được bài văn không những đúng mà còn phải hay. Sau đây là những yêu cầu cần thiết mà tôi rèn luyện học sinh khi làm bài văn. 3.3.1. Các yêu cầu về diễn ý, hành văn 3.3.1.1. Yêu cầu về giọng văn và sự thay đổi giọng văn Trong một bài văn nghị luận, người viết bao giờ cũng thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng của mình trước một vấn đề mà mình đang thảo luận. Giọng văn là sự thể hiện màu sắc biểu cảm đó. Khi viết văn, người viết phải linh hoạt trong việc hành văn. Tránh kiểu viết một giọng đều đều tạo cảm giác đơn điệu. Đây là việc làm quan trọng mà tôi luôn chú ý luyện tập cho các em. Ví dụ khi phân tích nhân 7
  8. vật ông Hai trong truyện ngắn Làng, nên dùng các từ ngữ về nhân vật như: ông Hai, lão nông, người nông dân ấy, con người chất phác ấy… Khi gọi tên một tác giả, nhiều học sinh từ đầu đến cuối chỗ nào cũng thấy dùng một từ, nhà thơ, nhà văn hoặc tác giả… mà không biết thay đổi cách gọi. Ví dụ như viết về nhà văn Kim Lân, có thể dùng: Kim Lân, nhà văn, tác giả, tác giả truyện ngắn Làng, nhà văn có sở trường về truyện ngắn … 3.3.1.2. Viết câu linh hoạt Bài văn hay là bài văn vận dụng linh hoạt được các kiểu câu. Tùy từng lúc, từng đoạn mà có những loại câu tương ứng để diễn đạt cho phù hợp. Ví dụ như cùng đoạn văn nhưng có câu ngắn, có câu lại rất dài. Lúc diễn đạt tình cảm thái độ của mình có thể dùng câu cảm thán. Khi muốn gây chú ý cho người đọc có thể dùng câu nghi vấn. Câu nghi vấn ở đây như là đặt vấn đề, rồi sau đó lại tự trả lời, tự làm sáng tỏ. Một loại câu cũng được vận dụng làm thay đổi giọng văn trong bài nghị luận là loại câu hô - ứng. Chúng thường theo lối kết cấu: Tuy…nhưng, càng… càng, không những… mà còn…, loại câu này nhằm nhấn mạnh một ý nào đó và ý đó luôn nằm ở vế thứ hai. Trong một bài văn nghị luận, học sinh phải biết viết câu linh hoạt, để người đọc cảm thấy cái hay của sự diễn đạt trong bài. Nhiệm vụ của giáo viên là giúp các em làm được điều đó. Ví dụ: “Càng yêu làng, ông Hai càng đau khổ, uất ức khi nghe tin làng theo giặc”. Hoặc: “ Ta không chỉ yêu quý anh thanh niên ở niềm say mê công việc, mà ta còn rất mến anh ở sự cởi mở, chân thành với mọi người”. Trong nhiều trường hợp, câu khẳng định được diễn đạt bằng câu phủ định của phủ định nhằm nhấn mạnh sự khẳng định. Ví dụ: “ Một trong những điểm tạo nên sức hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà mà ta không thể không nói tới là cách xây dựng một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ, tự nhiên nhưng hợp lí”. 3.3.1.3. Viết văn có hình ảnh Văn nghị luận là loại văn của tư duy, ý tứ cần chặt chẽ, sáng sủa, lập luận phải chắc chắn độ chính xác cao. Bài văn nghị luận hay là vừa giàu sức thuyết phục, vừa giàu hình ảnh. Biện pháp cơ bản để bài viết có hình ảnh là người viết biết dùng phép so sánh, liên hệ, đối chiếu. Đây là một yêu cầu cao giáo viên phải dành thời gian thích đáng để hướng dẫn các em biết vận dụng trong bài văn của mình. Ví dụ: Để làm nổi bật nét tinh tế, độc đáo khi viết về mùa thu trong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh, ngay phần mở bài có thể dùng phép so sánh như sau: “Trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có thể nói mùa thu được chú ý nhiều hơn cả. Mùa thu đã sớm định hình trong trạng thái ổn định như mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du, hoặc có vận động nhưng có cái gì đó phân chia như trong thơ Huy Cận, Xuân Diệu. Còn đến “Sang thu” của Hữu Thỉnh, cách lựa chọn 8
  9. khoảnh khắc thời gian đã khác. Chưa có một sự định hình, nó bắc cầu giữa cái “không” và cái “có”. Chính cái cảm giác mơ hồ và tinh tế này chuyên chở hồn thu theo cái cách của mùa thu. Nhạy cảm, nhẹ nhàng, mùa thu đến vừa lạ vừa quen, nó đánh thức tâm hồn ta những gì da diết”. 3.3.1.4. Lập luận sắc sảo, chặt chẽ Lập luận là dùng lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, đề người đọc tin, hiểu và đồng tình với mình. Do đặc điểm và tính chất của nó, văn nghị luận ít dùng loại câu mô tả, trần thuật mà chủ yếu dùng loại câu nghi vấn, khẳng định và phủ định với nội dung hầu hết là các phán đoán hoặc những nhận xét, đánh giá sâu sắc. Để học sinh biết lập luận chặt chẽ, giáo viên dạy các em biết và sử dụng các từ ngữ lập luận như: thật vậy, đúng thế, cho nên, không chỉ, mà còn, trước hết, sau cùng, tóm lại,… Có thể gọi chung là hệ thống từ lập luận. Ví dụ: “ Đúng thế, đời Kiều là một tấm gương oan khổ, một câu chuyện thê thảm về vận mệnh con người trong xã hội cũ. Dựng lên một con người, một cuộc đời như vậy là một cách Nguyễn Du phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề của thời đại. Lời phát biểu ấy trước hết là một tiếng kêu thương. Tiếng kêu não nùng đau đớn suốt trong tác phẩm lúc nào cũng văng vẳng bên tai.” 3.3.1.5. Dẫn chứng và trình bày dẫn chứng Nội dung bài nghị luận được tạo nên bởi những lí lẽ và dẫn chứng, cả hai cùng có một mục đích là làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận. Nếu như lí lẽ nghiêng về việc làm cho người đọc hiểu thì dẫn chứng thiên về phía làm cho người ta tin. Vậy là cả hai đều có tầm quan trọng ngang nhau. Một bài văn không thể không chú ý tới vấn đề dẫn chứng. Vậy cách chọn dẫn chứng, sắp xếp dẫn chứng, phân tích dẫn chứng, đó là những điểm hết sức cơ bản và cần thiết của kĩ năng này mà tôi luôn chú ý rèn luyện cho học sinh. *Phân biệt dẫn chứng Giáo viên phải cho học sinh phân biệt hai loại dẫn chứng trong bài văn nghị luận đó là dẫn chứng bắt buộc và dẫn chứng mở rộng. Dẫn chứng bắt buộc là nằm trong phạm vi yêu cầu của đề. Dẫn chứng mở rộng là ở ngoài phạm vi của đề do người viết đưa ra để liên hệ, so sánh nhằm làm sáng tỏ thêm ý đang được bàn bạc. Học sinh phải biết về hai loại dẫn chứng ấy để khi cần dẫn chứng mở rộng thì phải có, một mặt để liên hệ, mặt khác cũng chứng tỏ kiến thức văn của các em. Ví dụ: Lấy dẫn chứng cho đề bài: Truyện ngắn “Làng” gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Ở đề này, tác phẩm “Làng” của Kim Lân là tư liệu mà người viết buộc phải trích dẫn. Tuy vậy học sinh biết liên hệ với các tác phẩm khác cũng viết về hình ảnh 9
  10. người nông dân như: truyện “Lão Hạc” của Nam Cao, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” của Ngô Tất Tố… để làm nổi bật vấn đề của đề bài. *Tỉ lệ dẫn chứng và lí lẽ Trong quá trình viết bài nghị luận, người viết phải tùy từng vấn đề, từng kiểu bài mà xác định tỉ lệ giữa lí lẽ và dẫn chứng cho phù hợp. Bài viết chỉ có lí lẽ hoặc dẫn chứng quá ít sẽ trở lên khô khan, tạo cảm giác nặng nề cho người đọc. Trái lại, nếu bài nghị luận toàn dẫn chứng, lí lẽ quá ít sẽ trở lên hời hợt và nhạt nhẽo. Vì vậy phải kết hợp được cả hai yếu tố: lí lẽ và dẫn chứng. Không nên hiểu một cách máy móc rằng chứng minh là dùng dẫn chứng nhiều lí lẽ ít; giải thích là lí lẽ nhiều dẫn chứng ít. Lí lẽ và dẫn chứng nhiều hay ít phụ thuộc vào từng nội dung vấn đề cần nghị luận. Loại đề mà các em học sinh lớp 9 hay gặp là phân tích, bình giảng một đoạn trích, một tác phẩm văn học thì lí lẽ nghiêng về việc chỉ ra tác phẩm ấy hay ở chỗ nào. Còn dẫn chứng là tất cả những chi tiết, câu chữ, hình ảnh, nhân vật… trong tác phẩm ấy. Như vậy phải linh hoạt trong việc xác định dẫn chứng cũng như cách đưa dẫn chứng: Khi nào thì trích nguyên văn, khi nào chỉ cần tóm tắt dẫn chứng, khi nào trích một số từ ngữ chi tiết tiêu biểu. Muốn vậy học sinh phải đọc nhiều, nhớ nhiều thì sẽ chọn được những dẫn chứng tiêu biểu. Dẫn chứng thường được tích lũy theo đề tài, chủ đề, hình tượng, hay theo hệ thống chi tiết, nhân vật cùng loại nào đó. Ví dụ: Dẫn chứng về hình tượng người phụ nữ trong xã hội cũ gồm có: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ…, dẫn chứng về hình ảnh người phụ nữ hiện đại có: truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm,… dẫn chứng về đề tài người nông dân có “Lão Hạc” của Nam Cao, “Làng” của Kim Lân… * Yêu cầu về dẫn chứng Dẫn chứng phải được phân tích cho hay và gắn nó với lí lẽ mà nó cần sáng tỏ. Một bài văn có dẫn chứng la liệt chỉ mới chứng tỏ người viết chăm học, có trí nhớ. Một bài văn hay là người viết phải biết phân tích dẫn chứng một cách sắc sảo, sâu sắc. Đây có lẽ là công đoạn tốn nhiều thời gian nhất mà tôi dành cho học sinh. 3.3.2. Yêu cầu viết câu, đoạn chuyển tiếp 3.3.2.1. Cách “nối” Đây là cách dùng từ nối, câu nối, đoạn nối để nối ý này với ý kia, phần, đoạn này với phần, đoạn kia nhằm chuyển tiếp. Ví dụ: “ Ở hai khổ thơ trên, nếu những khó khăn thử thách của người lính mới chỉ là cảm giác thì đến đây những thử thách, khó khăn ấy đã ập tới cụ thể, trực tiếp vào thân mình người chiến sỹ.” 10
  11. Đây là câu chuyển tiếp giữa đoạn văn phân tích hai khổ thơ đầu bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với đoạn phân tích khổ thơ thứ ba, thứ tư của bài. Đó là đoạn phân tích những khó khăn, mà người lính lái xe phải đối mặt trực tiếp trên đường Trường Sơn. 3.3.2.2. Cách đặt câu hỏi Ví dụ: Đoạn văn phân tích về hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa”: “Hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên khá đặc biệt: một mình trên đỉnh núi cao, quanh năm suốt tháng với cỏ cây và mây núi Sa Pa. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất để góp phần vào việc dự báo thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất và chiến đấu”. Công việc đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. Nhưng cái gian khổ lớn nhất là phải vượt qua sự cô đơn vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người. Điều gì đã giúp anh có thể vượt lên hoàn cảnh ấy ?” Câu “Điều gì đã giúp anh có thể vượt lên hoàn cảnh ấy ?” nằm giữa đoạn văn phân tích hoàn cảnh sống của anh thanh niên với đoạn phân tích những nét đẹp của anh thanh niên khi vượt lên được hoàn cảnh cô đơn, gian khổ. 3.3.2.3. Cách dùng phép lặp Ví dụ: Câu văn kết luận của đoạn văn phân tích lòng yêu nghề của anh thanh niên: “Ta yêu mến nhân vật anh thanh niên, là ta yêu quý tấm lòng yêu nghề, thấy được công việc thầm lặng ấy là có ích cho cuộc sống, cho mọi người”. Câu chuyển đoạn: “Ta yêu mến nhân vật anh thanh niên còn là ở tấm lòng chân thành, cởi mở, rất quý trọng tình cảm của mọi người” Câu chuyển đoạn nằm giữa đoạn văn chứa câu kết luận ở trên và đoạn văn phân tích tấm lòng chân thành, cởi mở, rất quý trọng tình cảm của nhân vật anh thanh niên sử dụng phép lặp cụm từ “Ta yêu mến nhân vật anh thanh niên”. 3.3.2.4. Cách tạo thế tương ứng giữa hai phần, hai đoạn Ví dụ: “Nếu như khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai đau khổ, uất ức, tủi nhục bao nhiêu thì khi nghe tin cải chính ông hân hoan, vui sướng bấy nhiêu” Đây là câu chuyển đoạn giữa đoạn văn phân tích tâm trạng đau khổ của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, với đoạn văn phân tích tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính. Như vậy, tuy chỉ dùng từ ngữ, câu, đoạn để chuyển tiếp ý nhưng cách chuyển tiếp thì vô cùng phong phú, đa dạng. Đó cũng là cả một nghệ thuật trong văn nghị luận. Vì vậy giáo viên luôn chú ý luyện tập cho các em cách chuyển tiếp ý, đoạn văn để bài viết là một chỉnh thể, có kết cấu chặt chẽ. 3.3.3. Viết đoạn văn * Đoạn văn mở bài 11
  12. - Đầu đoạn: Thường viết câu dẫn dắt, là những câu liên quan gần gũi với vấn đề chính sẽ nêu. Tùy nội dung vấn đề chính mà người viết lựa chọn câu dẫn dắt có thể là từ tác giả, tác phẩm, đề tài, là một câu thơ, một câu chuyện kể… - Phần giữa đoạn: Vấn đề chính này có thể đã chỉ rõ, có thể người viết tự rút ra, tự khái quát. Đối với phân tích, bình giảng thơ thì thường là nêu ấn tượng bao trùm mang tư tưởng chủ đề mà người đọc cảm nhận được. - Phần kết đoạn: Phần này đề bài thường đã xác định sẵn, người viết chỉ việc giới thiệu hoặc ghi lại đoạn trích, câu trích ở đề bài. - Mô hình của phần mở bài: Dẫn dắt-> Nêu vấn đề -> Giới hạn phạm vi đề. Ví dụ: Viết đoạn văn mở bài cho đề: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân “Có những tác phẩm văn học đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay cho đến lúc cầm lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những tác phẩm như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại một lớp phù sa, để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm khảm. Hình ảnh ông Hai - người nông dân trong kháng chiến chống Pháp - với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc và cảm động làm ta không thể nào quên được. Nó cứ theo đuổi ta mãi. Hãy đọc kĩ tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân, cùng suy nghĩ về nhân vật ông Hai ta sẽ nhận ra điều ấy”. Mở bài đi từ cảm nhận, suy nghĩ của người viết về tác phẩm văn học nói chung đến tác phẩm và vấn đề nghị luận. * Đoạn văn kết bài Về cách kết bài có thể chia ra bốn cách: - Tóm lược (tóm tắt quan điểm, nội dung đã nêu ở thân bài). - Phát triển (mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài). - Vận dụng (nêu phương hướng, bài học áp dụng phát huy hay khắc phục vấn đề nêu trong đề bài). - Liên tưởng (mượn những ý kiến có uy tín, đề thay cho lời tóm tắt của người làm bài). Ví dụ: Viết đoạn văn kết bài cho đề: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. “Ông Hai trong truyện ngắn “Làng” là một nhân vật tạo ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Bằng những tình huống, những chi tiết chân thực, thú vị, bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí sinh động, nhà văn đã đem đến cho chúng ta một hình tượng hấp dẫn về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tình yêu thiết tha, sự gắn bó sâu nặng với làng quê, đất nước của nhân vật ông Hai luôn có ý nghĩa giáo dục thấm thía đối với các thế hệ bạn đọc”. Kết bài theo kiểu tóm lược có tính giáo khoa phổ thông, đánh giá từ nhân vật, nghệ thuật để khái quát lại hình tượng nhân vật. 12
  13. * Đoạn văn giới thiệu nằm ở đầu phần thân bài Ví dụ: “Anh thanh niên là nhân vật chính, anh không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ hiện ra trong cuộc gặp gỡ chốc lát với bác lái xe, ông họa sĩ, cô gái trẻ khi xe của họ dừng lại nghỉ trưa. Chỉ trong chốc lát nhưng cũng đủ để các nhân vật khác kịp ghi nhận một ấn tượng một “kí họa chân dung” về anh, rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thủa của núi rừng Sa Pa”. * Đoạn tiểu kết đứng cuối các đoạn nghị luận Ví dụ: “Có thể nói, tình yêu làng của ông Hai đã mở rộng, hòa trong tình yêu nước. Cội nguồn của lòng yêu quê hương là cuộc chiến đấu cứu nước, cứu làng. Làng và nước không thể tách rời mà luôn gắn bó thành một khối bất khuất, kiên cường chống ngoại xâm. Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai làng chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hóa thấp nhưng có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, yêu Tổ quốc”. * Đoạn văn nghị luận Tất cả các đoạn văn trong bài đều, tương tác, tương hỗ với nhau. Tuy nhiên quan trọng nhất và xuất hiện nhiều nhất là đoạn văn nghị luận. Mô hình cơ bản của đoạn nghị luận là diễn dịch, các biến thể gồm có: quy nạp, tổng - phân - hợp, song hành. Đối với học sinh lớp 9, chủ yếu hướng dẫn học sinh viết đoạn văn nghị luận diễn dịch, quy nạp và tổng - phân - hợp. Tùy theo chức năng, tính chất mà các đoạn văn nghị luận đảm nhận nhiệm vụ nghị luận: giải thích, chứng minh, bình luận… Cách thức luyện viết đoạn văn nghị luận là dựa vào dàn ý bài văn, luyện viết với từng luận điểm, luyện viết theo tiến trình: - Chuyển luận điểm thành câu chủ đề. - Trên cơ sở phân tích khía cạnh của luận điểm, viết các câu triển khai. - Viết câu có tính chất kết đoạn. Một bài văn gồm nhiều luận điểm, mỗi luận điểm tập viết một đoạn theo các thể khác nhau, lắp ráp lại thành chỉnh thể rồi xem xét, đánh giá tính chỉnh thể ấy để điều chỉnh cách viết từng đoạn, ở vị trí nào cần dùng đoạn thế này hay thế kia (đoạn tổng – phân – hợp, đoạn diễn dịch hay đoạn quy nạp). Cứ yêu cầu học sinh luyện đi luyện lại nhiều lần để các em thành thạo dựng đoạn văn độc lập và đoạn văn trong cả bài. 3.3.4. Viết bài văn, đọc bài, sửa chữa Sau khi học sinh đã viết được các đoạn văn nghị luận theo dàn ý chi tiết, giáo viên hướng dẫn các em lắp ráp lại thành chỉnh thể rồi xem xét tính chỉnh thể ấy. Ở vị trí nào cần dùng đoạn tổng - phân - hợp, hay đoạn diễn dịch, đoạn quy nạp; vị trí nào cần đoạn chuyển tiếp, đoạn tiểu kết, đoạn liên hệ để viết thành bài văn hoàn 13
  14. chỉnh cho phù hợp. Cuối cùng học sinh đọc kĩ bài của mình phát hiện lỗi sửa lỗi, và nộp bài cho giáo viên. Học sinh tiếp tục sửa lại bài văn của mình sau khi được thầy cô chấm điểm, viết lại theo sự chỉ dẫn. Nếu có điều kiện, giáo viên yêu cầu học sinh viết lại cả bài. 5. Kết quả sau khi thực hiện đề tài có so sánh đối chứng - Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài Năm Lớp Sĩ Nắm tốt Nắm kĩ năng Chưa nắm Giỏi Giỏi học số kĩ năng bình thường được kĩ năng huyện thành phố 2017 - 9D 30 5 14 11 1 0 2018 (16,7 %) (46,7 %) (36,6 %) KK - Kết quả khảo sát học sinh sau khi áp dụng đề tài Năm Lớp Sĩ Nắm tốt Nắm kĩ năng Chưa nắm Giỏi Giỏi học số kĩ năng bình thường được kĩ năng huyện thành ( khá, giỏi) (trung bình) (yếu) phố 2018 – 9B 33 27 6 0 1 1 2019 (81,8 %) (18,2 %) Nhất Ba C. KẾT LUẬN - KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Đối với nghệ sĩ, sáng tác được một bài thơ, một thiên truyện hay là niềm hạnh phúc. Còn đối với giáo viên dạy văn chúng tôi, suy ngẫm để hiểu được đúng, thấm được sâu từng trang truyện, từng bài thơ, từng yếu tố nội dung nghệ thuật của tác phẩm là niềm vui lớn. Việc tích lũy được những kinh nghiệm để hướng dẫn học sinh, giúp các em cảm nhận được cái hay cái đẹp của từng tác phẩm, giúp các em tìm ra được phương pháp làm bài văn Nghị luận văn học là điều tôi tâm đắc. Đề tài “ Phương pháp làm bài nghị luận văn học lớp 9” mà tôi áp dụng vào thực tế giảng dạy trong năm học 2018 - 2019 tuy chỉ là những kinh nghiệm, là ý kiến cá nhân, song bước đầu tôi đã thành công. Kết quả mà các em đạt được trong năm học 2018 - 2019 làm cho tôi rất phấn khởi, khích lệ tôi rất nhiều. Việc làm của tôi đã đem lại thành công cho cả thầy và trò, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Từng bước đưa chất lượng giáo dục học sinh trường nhà ngày một đi lên. 2. Khuyến nghị sau khi thực hiện đề tài Về phía giáo viên: Nắm vững nội dung đổi mới phương pháp dạy học; tích cực dự giờ, rút kinh 14
  15. nghiệm với đồng nghiệp; tham dự sinh hoạt chuyên môn đầy đủ, hiệu quả. Về phía BGH nhà trường: Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học. Chuẩn bị tốt các điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác đổi mới phương pháp dạy học. * Lời cam đoan: Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2