Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng khai thác mạch kiến thức trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam cho học sinh lớp 9
lượt xem 6
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là đưa ra một số biện pháp cụ thể giúp học sinh rèn kỹ năng khai thác mạch kiến thức trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam Nam môn Ngữ văn lớp 9.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng khai thác mạch kiến thức trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam cho học sinh lớp 9
- 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm Tác phẩm văn chương nghệ thuật là thành quả sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Tác phẩm dù nhỏ nhất : là câu tục ngữ, bài ca dao, hay lớn hơn là một bài văn, bài thơ, một truyện ngắn hay một bộ tiểu thuyết đồ sộ đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật. Các tác phẩm rất giàu giá trị nhân văn, có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và hướng các em đến những ước mơ và khát vọng để phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Dạy đọc – hiểu tác phẩm truyện hiện đại là dạy học sinh phương pháp tìm tòi, khám phá thế giới văn chương nghệ thuật, hướng các em phát hiện cái hay, cái đẹp, những giá trị độc đáo ẩn mình trong từng tác phẩm. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi người thầy phải chú trọng đến vấn đề khai thác sâu mạch kiến thức trong văn bản. Vậy mạch kiến thức trong văn bản là gì? Đó chính là những tín hiệu thẩm mỹ trong văn bản. Thông qua những tín hiệu thẩm mỹ ấy, người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc những thông điệp, tư tưởng nghệ thuật nhất định. Một văn bản mang tín hiệu thẩm mỹ là văn bản đem đến cho người đọc những rung động tinh tế, mạnh mẽ, khơi dậy cho người đọc những tình cảm trong sáng trong tâm hồn, hướng người đọc đến những ước mơ, khao khát chân thiện mỹ. Vấn đề đặt ra là người giáo viên có nhận ra những tín hiệu thẩm mỹ của tác phẩm hay không, có phương pháp khai thác, hướng dẫn học sinh tiếp cận đến những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm hay không? Điều đó phụ thuộc vào khả năng cảm nhận và năng lực sư phạm của người giáo viên đứng lớp. Đối với các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam, tôi thấy rằng phần lớn học sinh còn cảm thấy lúng túng trong việc cảm thụ nội dung, tư tưởng cũng như những cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Các em thường thiên về tóm tắt nội dung tác phẩm nên rất hạn chế về mạch cảm xúc. Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các ý mới, ý sâu sắc do chính bản thân các em cảm nhận hay thật sự rung động với tác phẩm. Có thể là do người dạy chưa xác định được mạch kiến thức, chưa nhận ra những tín hiệu thẩm mỹ hoặc chưa có phương pháp khai thác phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp cận những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Vì thế con đường đến với thế giới nghệ thuật lung linh sắc màu còn gặp không ít khó khăn. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9, tôi thiết nghĩ chúng ta cần phải có những phương pháp, cách thức thực hiện cụ thể hơn trong việc hướng dẫn học sinh tiếp cận, cảm thụ giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Đó chính là lí do tôi chọn sáng kiến kinh Trang 1
- nghiệm “Rèn kỹ năng khai thác mạch kiến thức trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam cho học sinh lớp 9” với mong muốn có thể ứng dụng hiệu quả hơn và sẻ chia cùng đồng nghiệp nhằm dạy tốt phần văn bản truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 9. 1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã đưa ra một số biện pháp cụ thể giúp học sinh rèn kỹ năng khai thác mạch kiến thức trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam Nam môn Ngữ văn lớp 9. Qua việc áp dụng các biện pháp ở khối lớp tôi dạy, học sinh có nhiều tiến bộ, các em không còn lúng túng trước một tác phẩm truyện mà đã cảm thụ được những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Từ đó có thể hiểu được tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm qua các áng văn chương. 1.3. Phạm vi ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm này có thể vận dụng vào công tác giảng dạy phần đọc hiểu văn bản truyện hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 9 hoặc bồi dưỡng học sinh giỏi và năng khiếu văn ở THCS. Trang 2
- 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của việc khai thác mạch kiến thức các văn bản truyện Việt Nam hiện đại môn Ngữ văn lớp 9. Các văn bản truyện Việt Nam hiện đại là nội dung quan trọng được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 9 bao gồm 5 tác phẩm: Làng – Kim Lân, Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long, Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng, Bến quê – Nguyễn Minh Châu, Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê. Tất cả đều là truyện ngắn, được sáng tác sau năm 1945, phản ánh cuộc sống của đất nước và con người Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và từ sau năm 1975. Qua thực tế giảng dạy các tiết văn bản truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9 tôi nhận ra rằng: * Về phía giáo viên: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau : Một số không ít giáo viên chưa tìm tòi nghiên cứu kĩ về tác phẩm, chưa thực sự nhập tâm vào cốt truyện, vào nhân vật, chưa đặt mình trong hoàn cảnh nhân vật sống, nhân vật suy nghĩ và hành động hoặc giáo viên chưa vận dụng, tổng hợp nhiều kiến thức, kể cả vốn sống, vốn tư tưởng tình cảm. Thế là, giáo viên chưa tìm ra phương pháp tích hợp giữa văn và đời, giữa thực tại và hư cấu… Hiện nay, mặc dù đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, nhưng vẫn còn không ít giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống, truyền thụ kiến thức một chiều. Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. Việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học chưa được thường xuyên làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh . Một bộ phận giáo viên chưa nghiên cứu kĩ SGK, SGV, nội dung chuẩn kiến thức, chưa xác định được mạch kiến thức trọng tâm của bài. Giáo viên còn lệ thuộc nhiều vào sách hướng dẫn. * Về phía học sinh Trên địa bàn trường mà tôi giảng dạy, học sinh đa số là con em nông thôn, nhiều gia đình còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời gian cho con cái học tập chưa cao. Ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ Trang 3
- bố mẹ các công việc gia đình, không có thời gian để tự học. Một số phụ huynh chỉ giao phó cho nhà trường mà không quan tâm nhắc nhở việc học tập của con em mình. Thực tế mà nói còn có những suy nghĩ lệch lạc của một số phụ huynh và học sinh chỉ chú trọng các môn khoa học tự nhiên mà xem nhẹ các môn khoa học xã hội. Bởi vậy nhiều em chưa chú trọng học môn Văn hoặc có học thì học chiếu lệ, qua loa. Một số em có thói quen học vẹt, học tủ theo những nội dung kiến thức đã cho sẵn, học sinh chưa chịu khó đọc thêm sách báo, tài liệu tham khảo để nâng cao kiến thức. Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn. Không ít các em học sinh thường không đọc kĩ tác phẩm hoặc đoạn trích trước khi bắt tay vào phân tích, khám phá văn bản nên thường lệch lạc hoặc hiểu chưa đúng, thậm chí là hiểu sai tác phẩm. Bản thân tôi là giáo viên vào ngành được gần 5 năm. Trong những năm qua tôi được phân công giảng dạy môn văn ở nhiều khối lớp từ 6 đến 9. Khi dạy môn Ngữ văn 9, tôi nhận thấy học sinh còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp thu và cảm nhận các văn bản truyện hiện đại Việt Nam. Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội dung còn chung chung chưa sâu sắc. Không ít trường hợp, học sinh còn tỏ ra lúng túng trước một tác phẩm truyện. Thậm chí có những diễn đạt tỏ ra hời hợt. Vì thế số bài đạt điểm khá chưa cao. * Kết quả thực trạng trên Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Rèn kỹ năng khai thác mạch kiến thức trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam cho học sinh lớp 9” tôi đã khảo sát thực trạng đối với khối lớp tôi dạy. Kết quả đạt được như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu 9A 29 0 0 05 3.4 % 14 51.7 % 10 44.9 % 9B 29 0 0 04 3.4 % 14 44.9 % 11 51.7 % Qua kết quả ki ểm tra cho th ấy s ố h ọc sinh đạt điểm giỏi, khá chiếm tỉ lệ ít. Trong khi đó tỷ lệ học sinh điểm trung bình, yếu nhiều. Trướ c thực trạng khó khăn nói trên, với tấm lòng yêu nghề, yêu bộ môn và thực Trang 4
- tế giảng dạy nhi ều năm, tôi đã rất trăn trở cố gắng tìm ra những hướ ng dạy, khắc phục nh ững khó khăn để góp phần nâng cao hiệu quả của các giờ học văn. Trong khuôn khổ của sáng kiến này, tôi xin mạnh dạn góp thêm một vài ý kiến nhỏ giúp học sinh rèn kỹ năng khai thác mạch kiến thức trong tác phẩm truy ện hi ện đại Việt Nam Nam môn Ngữ văn lớp 9. 2.2. Các giải pháp thực hiện Khai thác sâu mạch kiến thức trong văn bản là vấn đề quan trọng, cần thiết trong các tiết dạy văn bản. Xác định được mạch kiến thức trong văn bản là điều kiện cần thiết để cảm thụ sâu sắc tác phẩm. Mạch kiến thức chính là những tín hiệu thẩm mỹ trong văn bản, giải mã được những tín hiệu thẩm mỹ ấy, chúng ta mới nhận được những thông điệp thẩm mỹ quý giá mà người nghệ sĩ gửi gắm trong các sáng tác của mình. Một tác phẩm văn chương, không bao giờ tập trung đầy đủ những tín hiệu thẩm mỹ, mà người nghệ sĩ chỉ tạo ra những tín hiệu thẩm mỹ phục vụ cho đề tài, chủ đề, nội dung mà mình muốn biểu đạt. Nếu như trong thơ trữ tình, những tín hiệu thẩm mỹ cần khai thác đó là mạch cảm xúc, cấu tứ bài thơ, hình ảnh tu từ, nhạc điệu, tổ chức lời thơ…thì trong văn xuôi, mạch kiến thức được thể hiện ở cốt truyện, tình huống truyện, hình tượng nhân vật, ngôn ngữ, chất liệu, nhan đề tác phẩm…Vì vậy, để học sinh cảm thụ có hiệu quả một văn bản truyện hiện đại, ngoài việc cung cấp để học sinh nắm chắc kiến thức về thân thế, sự nghiệp sáng tác của tác giả, hoàn cảnh lịch sử của tác phẩm thì điều cơ bản là người thầy phải dẫn dắt học sinh khai thác sâu mạch kiến thức văn bản để các em có thể cảm nhận được một cách trọn vẹn các giá trị của tác phẩm. Muốn đạt được điều đó, tôi mạnh dạn đề xuất những giải pháp cụ thể sau: 2.2.1 Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm vững sự phát triển của tình tiết (cốt truyện) (tức là hướng dẫn học sinh tóm tắt cốt truyện) Hiểu một cách ngắn gọn, cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định của nhà văn. Nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự hình thành, đặc điểm của mỗi tính cách cũng như sự tác động qua lại giữa các tính cách. Cũng nhờ cốt truyện, nhà văn tái hiện các xung đột xã hội, chứng tỏ năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại khách quan của mình. Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc. Học một bài thơ trữ tình phải nắm được diễn biến của cảm xúc. Học một bài văn nghị luận phải nắm được trình tự lập luận của tác giả. Còn học một tác phẩm truyện trước hết phải nắm được diễn biến của câu chuyện, tức là phải tóm tắt được cốt truyện. Để hiểu được nội dung phản ánh, phân tích được các giá trị về mặt tư tưởng lẫn nghệ Trang 5
- thuật của một tác phẩm tự sự, cần tóm tắt chính xác cốt truyện của nó. Có thể xem tóm tắt cốt truyện là yêu cầu có tính chất tạo nền, là cơ sở để từ đó tìm hiểu các vấn đề khác của tác phẩm. Muốn tóm tắt được cốt truyện một tác phẩm, trước tiên cần đọc kĩ tác phẩm và trả lời được những câu hỏi sau: Hoàn cảnh xã hội, thời kì lịch sử mà tác phẩm phản ánh, tái hiện? Chủ đề của tác phẩm? Nhân vật chính của tác phẩm và các bước phát triển của tính cách, của số phận nhân vật ấy? Các chi tiết, sự kiện quan trọng trong tác phẩm tác động tới cuộc đời nhân vật? Trên cơ sở đọc kĩ tác phẩm, nắm vững kiến thức cơ bản theo yêu cầu trên mới có thể đi đến xây dựng văn bản tóm tắt. Một văn bản tóm tắt cốt truyện thông thường có hai bước chính: Bước 1: Giới thiệu ngắn gọn về xuất xứ tác phẩm, đề tài và chủ đề của tác phẩm. Bước 2: Tóm tắt các bước phát triển của cốt truyện dựa vào những sự kiện nổi bật, những chặng đường diễn biến của tính cách, số phận các nhân vật chủ yếu. Khi tóm tắt cốt truyện, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ tương tác giữa chúng. Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, có vai trò chi phối đối với các nhân vật khác và góp phần chủ yếu thể hiện nội dung, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến những bước ngoặt trên đường đời nhân vật chính. Ví dụ: Khi khai thác truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thấy được đây là một tác phẩm có cốt truyện tâm lý. Tác phẩm xoay quanh diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai nhân vật trung tâm trong tác phẩm, một người nông dân giàu lòng yêu làng, yêu quê hương tha thiết. Cốt truyện phát triển theo diễn biến tâm lý nhân vật ông Hai. + Trước Cách mạng ông Hai luôn tự hào về cái làng chợ Dầu của mình. Đi đến đâu ông cũng khoe làng Dầu quê mình “Nhà ngói san sát, đường đi lát toàn đá xanh đi từ đầu làng đến cuối làng mưa thế nào cũng không bẩn đến gót chân. Ông khoe làng Dầu của có cái chòi cao nhất xã, làng ông lại có cái sinh phần của viên tổng đốc.” + Khi thực dân Pháp sang xâm lược, ông Hai và gia đình phải đi tản cư. Ông muốn ở lại để bảo vệ làng, bảo vệ niềm tự hào của cuộc đời ông. Trang 6
- Nhưng do hoàn cảnh và yêu cầu của cách mạng ông và gia đình phải tản cư đến nơi ở mới. + Đến nơi tản cư, ông Hai vẫn khôn nguôi nhớ làng. Ông theo dõi tin tức về làng. Khi nghe tin thất thiệt: “Làng chợ Dầu Việt gian theo giặc”, ông Hai rất buồn, hổ thẹn, tủi cực: Ra đường ông cúi gằm mặt xuống mà đi. Trong ý nghĩ của ông “Làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù”. Ông dồn tất cả những băn khoăn vào cuộc trò chuyện với đứa con trai. + Khi nghe tin cải chính: Làng Dầu không theo Tây, ông Hai cảm thấy sung sướng và tự hào vì làng ông là làng kháng chiến… 2.2.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh phát hiện được tình huống quan trọng của truyện Nếu nhân vật là linh hồn của tác phẩm thì tình huống truyện là những bước ngoặt để cho nhân vật thể hiện tính cách. Tình huống là hạt nhân của truyện, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện tính cách và số phận nhân vật, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Có thể xem tình huống là loại hoàn cảnh bất bình thường, hoàn cảnh “có vấn đề” đòi hỏi con người trong đó phải xử lí, phải vượt qua. Khi được hoặc bị đặt trong tình huống, con người ta mới bộc lộ tính cách, bản chất của mình một cách đầy đủ, chân thực nhất. Nếu cuộc sống là một dòng sông thì tình huống là các xoáy nước. Nó chính là phần đậm đặc nhất của cuộc sống, nơi thể hiện tập trung bản chất một xã hội, một thời đại. Như vậy tình huống gắn chặt với cốt truyện, thường hiện lên rõ rệt ở các bước ngoặt trên dòng của cốt truyện và tác động trực tiếp tới nhân vật. Xây dựng tình huống trở thành nhiệm vụ và hứng thú, trở thành nơi thử thách tài nghệ của nhà văn. Một số truyện trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 có cốt truyện đơn giản, thường tập trung vào soi rọi đời sống nội tâm và những vận động tâm lý ở một tình huống quan trọng. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhận ra được tình huống truyện và tập trung phân tích các tâm trạng, hành động của các nhân vật ở trong tình huống đó. Ví dụ: Khi tìm hiểu văn bản “Làng” của Kim Lân, ông đã tạo nên một tình huống đặc biệt gay gắt để bộc lộ sâu sắc tình cảm của nhân vật ông Hai. Đó là việc chính ông Hai nghe được từ miệng của những người dân tản cư cái tin làng chợ Dầu quê ông theo giặc. Chi tiết này tạo nên nút thắt của câu chuyện, gây ra một mâu thuẫn giằng xé tâm trí ông lão, tạo điều kiện để thể hiện tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân vật thêm chân thực và sâu sắc, góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm: phản ánh và ca ngợi tình yêu làng yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Văn bản “Chiếc lược ngà” được viết theo cách truyện lồng trong Trang 7
- truyện mà phần chính là chuyện của bác Ba kể về câu chuyện của cha con ông Sáu. Truyện thể hiện tình cha con sâu sắc trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống: Tình huống thứ nhất : Hai cha con ông Sáu gặp nhau sau tám năm xa cách nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thì ông Sáu phải ra đi. Tình huống thứ hai: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp tặng chiếc lược cho con gái. Trong đó tình huống thứ nhất là chính, bộc lộ tình yêu thương mãnh liệt của con đối với cha, còn tình huống thứ hai thể hiện tình cảm sâu sắc của người cha đối với con. Tác giả đã tạo được hai tình huống truyện khá bất ngờ, nhưng tự nhiên hợp lí, thể hiện được chủ đề tác phẩm: ca ngợi tình cha con trong hoàn cảnh chiến tranh éo le, mất mát. Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” Nguyễn Thành Long đã xây dựng tình huống truyện rất tự nhiên. Đó là cuộc gặp gỡ của anh thanh niên với ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ tại trạm khí tượng trên núi cao. Như vậy, nhân vật chính là anh thanh niên làm công tác khí tượng chỉ hiện ra trong chốc lát, đủ để các nhân vật khác kịp ghi nhận một cách ấn tượng, một “kí họa chân dung” về anh rồi dường như anh lại khuất lấp trong cái lặng lẽ muôn thưở của núi cao Sa Pa người đọc có thể cảm nhận được chủ đề tư tưởng của tác phẩm qua nhân vật. Ở “Bến quê” Nguyễn Minh Châu lại đặt nhân vật Nhĩ vào một chuỗi tình huống có tính chất nghịch lý: Nhĩ đã từng đi khắp mọi nơi, nhưng cuối đời anh anh bị liệt toàn thân đến nỗi muốn nhích người cũng phải nhờ vợ con, hàng xóm. Khi phát hiện vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, Nhĩ khao khát muốn sang, dù biết mình không thể đến được. Đành nhờ cậu con trai thực hiện, nhưng đứa con không hiểu ý muốn của cha, mãi chơi nên có thể lỡ chuyến đò sang ngang duy nhất trong ngày. Đặt nhân vật vào tình huống như vậy, truyện muốn phát hiện một điều có tính quy luật: Trong cuộc đời, con người thường khó tránh khỏi những các vòng vèo, chùng chình. Đồng thời, thức tỉnh mọi người hãy biết trân trọng những vẻ đẹp bình dị, gần gũi, bền vững của gia đình, quê hương. 2.2.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cảm thụ sâu sắc, đánh giá được đúng đắn nhân vật qua các chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm Trong tác phẩm truyện, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm là người chở nội dung, phản ánh tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người cũng như quan niệm nhân sinh của nhà văn. Trang 8
- Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó. Về nhân vật cũng có những dạng khác nhau đòi hỏi sự phân tích phù hợp với mỗi kiểu loại. Ví dụ: Nếu nhân vật anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” chỉ là “một bức chân dung” (theo cách nói của tác giả) thì những nhân vật bé Thu (trong “Chiếc lược ngà”), Phương Định (trong “Những ngôi sao xa xôi”), ông Hai (trong “Làng”) lại là những nhân vật được khắc họa khá rõ về tính cách và nội tâm; còn Nhĩ (trong”Bến quê”) là loại nhân vật tư tưởng để tác giả gửi gắm những chiêm nghiệm, triết lí về cuộc sống và con người. Khi phân tích nhân vật giáo viên cần hướng dẫn HS chú trọng những điểm sau: a. Lưu ý cho HS các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận xét về nhân vật trong tác phẩm. Những chi tiết này có lúc được bộc lộ rõ ràng, nhưng thường rất tế nhị, kín đáo ẩn trong lời văn, đọc qua thường ít gây chú ý. b. Phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp, phân loại chúng theo trình tự hợp lý nhằm làm sáng tỏ tính cách nhân vật. Có thể lần lượt xem xét nhân vật thông qua các phương diện sau: * Lai lịch: Lai lịch của nhân vật trong văn bản tự sự có thể hiểu là thành phần xuất thân hay hoàn cảnh gia đình. Lai lịch của nhân vật cũng góp phần chi phối đặc điểm tính cách nhân vật. Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách cùng cuộc đời của nhân vật. Ví dụ: Trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, nhân vật chính Phương Định vốn là một cô gái Hà Nội từng có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên mẹ, trong căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh trước chiến tranh. Hoàn cảnh xuất thân ấy đã góp phần tạo nên ở Phương Định nét tính cách có vẻ hơi điệu, thích làm duyên, mơ mộng, giàu cảm xúc, nhạy cảm, yêu đời những nét thanh lịch đáng yêu của một cô gái Hà thành ngay cả trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường. Lai lịch của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân có hoàn cảnh xuất thân là nông dân sống ở nông thôn vì thế ông hiện lên với những phẩm chất và tính cách của một người nông dân như: hay lam hay làm, cần cù chịu thương chiụ khó. Ở nơi tản cư, ông vẫn với những công việc quen thuộc: Cuốc đất trồng rau, trồng sắn. Ông luôn quan tâm đến công việc ruộng nương Trang 9
- đồng áng vì thế khi gặp những người tản cư từ Gia Lâm lên, ông đã hỏi thăm chuyện lúa má, chuyện đất tốt, đất xấu. Cũng do xuất thân từ nông thôn nên ông luôn tự hào về quê hương của mình. Rõ ràng, cái “lai lịch” của ông Hai có ảnh hưởng rất quan trọng đến tính cách của ông sau này. Có thể nói, tính cách, số phận nhân vật được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó. * Ngoại hình: Trong văn học, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp của nhà văn nhằm hé mở tính cách nhân vật. Phần lớn trường hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm (cái bên trong) của nhân vật được thống nhất với ngoại hình ( vẻ bên ngoài). Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét phác họa có thể gúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế và bản chất của nhân vật đó. Từ quan điểm về ngoại hình như trên, giáo viên linh hoạt hướng dẫn học sinh khai thác để khái quát lên đặc điểm tính cách nhân vật. Ví dụ: Nhân vật Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” được miêu tả là cô gái khá, với “hai bím tóc dày tương đối mềm một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”, còn đôi mắt thì các anh lái xe bảo “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm?”. Vẻ đẹp hình thức đó của Phương Định đã giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm, mơ mộng của cô gái Hà Nội này. Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long giới thiệu anh thanh niên là một con người có tầm vóc nhỏ bé, khuôn mặt rạng rỡ. Chi tiết này đã khiến nhà họa sĩ và cô kỹ sư trẻ cảm mến anh. Con người nhỏ bé ấy lại đang làm những công việc vô cùng khó khăn gian khổ ở một nơi heo hút, quanh năm chỉ có mây mù bao phủ. Khuôn mặt rạng rỡ với nụ cười thường trực trên môi, cũng đủ để giúp người đọc cảm nhận được một tâm hồn yêu sống, lạc quan, cởi mở chân thành. Đến với truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, mọi người đều ấn tượng về vết thẹo trên khuôn mặt anh Sáu, vết thẹo được miêu tả rất tỉ mỉ, kỹ lưỡng đã phần nào giúp người đọc cảm nhận được sự tàn khốc của chiến tranh, những hy sinh mất mát mà người lính phải gánh chịu. Vết thẹo ấy như còn là minh chứng cho lòng dũng cảm, kiên trung của người chiến sĩ cách mạng. * Ngôn ngữ: Ngôn ngữ nhân vật cũng góp phần thể hiện trình độ văn hóa, tính cách nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật gồm: Ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm truyện thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Qua ngôn ngữ, ta có thể nhận ra tính cách của nhân vật. Ví dụ: Ngôn ngữ của Ông Hai trong truyện ngắn “Làng” thật mộc mạc Trang 10
- giản dị, giàu tính khẩu ngữ và là lời ăn tiếng nói của nông dân: “Các ông, các bà ở đâu ta lên đấy ạ?”, “Thì vưỡn! Lúa dưới ta tốt nhiều chứ?” . Đặc biệt là những lời độc thoại, độc thoại nội tâm của ông Hai được nhà văn thể hiện qua đoạn văn: “Chúng nó cũng là trẻ con làng việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn bằng ấy tuổi đầu…” Đoạn văn đã diễn tả được nỗi xấu hổ nhục nhã của ông Hai khi nghe tin làng mình theo tây làm việt gian, vừa thể hiện một cách xúc động tình cảm chân thành của một người cha dành cho các con. Hay lời đối thoại của ông với thằng Húc con trai ông cũng hé lộ tình cảm của ông với kháng chiến, với Cách mạng và với cụ Hồ… Ngôn ngữ ấy đã góp phần khắc họa tính cách thẳng thắn, bộc trực, chất phác của ông Hai, cũng như những diễn biến tâm lý căng thẳng của ông xung quanh tin làng chợ Dầu quê ông theo giặc. Lời đối thoại của bé Thu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng với Má và Bà ngoại giúp ta cảm nhận được phẩm chất, tính cách của bé Thu một đứa bé hồn nhiên trong sáng nhưng rất ương ngạnh bướng bỉnh. Trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, nhân vật Phương Định được khắc hoạ những nét cá tính đặc biệt: một cô gái lãng mạn, lạc quan, mơ mộng, đầy chất thơ với tâm hồn tràn niềm tin sống. Nhưng, ở cô, người đọc còn cảm nhận được một tinh thần thép giữa chiến trường khói lửa… Những nét tính cách ấy được thông qua ngôn ngữ của chính nhân vật (ngôn ngữ đối thoại, đặc biệt ngôn ngữ độc thoại nội tâm). * Nội tâm: Là thế giới bên trong của nhân vật gồm: cảm xúc tình cảm, tâm lí, suy nghĩ của nhân vật. Nội tâm nhân vật có thể được miêu tả trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi phân tích nhân vật, cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ... Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm nhân vật là điều kiện thử thách tài nghệ nhà văn và cảm nhận, phân tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục. Mặt này cũng là nơi chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm. Truyện ngắn “Làng” thể hiện ngòi bút miêu tả tâm lí đặc sắc của Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống đầy thử thách để miêu tả nội tâm nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo tây qua đoạn văn: “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi”. Trong đoạn văn trên nội tâm nhân vật ông Hai được miêu tả gián tiếp qua những biểu hiện bên ngoài cơ thể. Những biểu hiện như cổ nghẹn ắng, da mặt tê rân rân dã diễn tả nỗi đau đớn xót xa đến quặn thắt của người nông dân luôn tự hào về làng quê của mình. Cái tin làng theo Trang 11
- tây đã khiến ông Hai từ bàng hoàng, sững sờ đến xấu hổ, trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong lòng ông, khiến ông vô cùng đau khổ. Để rồi trong tâm trí ông Hai đã diễn ra một cuộc xung đột dữ dội. Có lúc ông ngồi lặng trên một góc giường mà suy nghĩ “Hay là quay về làng?” và lập tức phản đối ngay: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi mụ chủ nhà có ý muốn đuổi gia đình ông đi, rơi vào bế tắc tuyệt vọng, không biết đi đâu, nhưng ông quyết không về làng vì ông nghĩ “về làng tức là chịu làm nô lệ cho thằng Tây”. Rõ ràng, tình yêu nước rộng lớn đã bao trùm lên tình cảm làng quê. Dù xác định như vậy nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm đối với làng chợ Dầu. Phải có sự am hiểu sâu sắc tâm lí của người nông dân Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trạng nhân vật ông Hai như vậy. Một dẫn chứng khác tâm lý của Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” một lần phá bom được Lê Minh Khuê miêu tả rất tỉ mỉ, chi tiết đến từng cảm giác, ý nghĩ, dù chỉ thoáng qua trong giây lát: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào vỏ quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”, “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế, nghĩ thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền”. Mặc dù đây là một công việc khá quen thuộc nhưng mỗi lần bắt đầu, Định lại có những cảm giác như thế: hồi hộp, lo lắng, căng thẳng…. Kề bên cái chết im lìm, đáng sợ, bất ngờ từng cảm giác của cô gái trở nên sắc nhọn hơn. Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm yêu mến và sự kính phục. Một cô nữ sinh nhỏ nhắn, nhạy cảm, giàu mơ mộng mà cũng thật anh hùng. Đó là diễn biến tâm lí rất chân thực mà chỉ có người trong cuộc mới có thể diễn tả như vậy. * Về cử chỉ, hành động của nhân vật: Phẩm chất, tính cách của nhân vật cũng được thể hiện qua hành động và cử chỉ bởi lẽ nhân vật trong tác phẩm trước hết là con người của hành động và hành động của con người được thể hiện qua hành vi. Bản chất của con người ta bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành động. Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ nhất các cử chỉ, hành động. Đó là sự thật hiển nhiên. Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở việc nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa.Vế sau này cũng là một phương diện vô cùng quan trọng để nhà văn cá tính hóa nhân vật. Ví dụ: Nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” bất ngờ gặp anh Sáu, Trang 12
- nó nhất định không chịu gọi ba chỉ vì vết thẹo dài trên mặt anh đã khiến anh không giống với bức hình mà Ba đã chụp chung với má nó. Trong hai ngày anh Sáu ở nhà, mặc kệ những lời nói, cử chỉ âu yếm, vỗ về của anh Sáu, bé Thu vẫn thờ ơ, bướng bỉnh, không chịu gọi Ba, thậm chí khi bị dồn vào thế bí, phải nhờ đến sự giúp đỡ của anh Sáu. Mẹ dặn nó trông nồi cơm, đến khi cơm sôi nó rất hoảng sợ cứ tưởng con bé sẽ cất tiếng gọi ba, nào ngờ nó nhất định không gọi mà chỉ nói trống không: “Cơm sôi rồi chắt nước giùm cái!”, “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Đó là phản ứng tâm lí tự nhiên của một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ. Trong sự cứng đầu của bé Thu ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu đối với người cha trong bức hình chụp chung với má. Cho đến khi, anh Sáu chuẩn bị lên đường trở về căn cứ thì thái độ của Thu thay đổi đột ngột, kì lạ đến khó hiểu và rất cảm động. Nhà văn đặc tả: “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: Ba…a…a…ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba mà nó cố đè nén bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con! Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa. Miêu tả những cử chỉ, hành động ấy của nhân vật nhà văn không chỉ thể hiện sự am hiểu tâm lí trẻ thơ, tình cảm yêu mến, trân trọng những tình cảm hồn nhiên, trong trẻo của các em mà còn giúp người đọc nhận ra trong giờ phút chia tay cuối cùng (khi bé Thu hiểu ra nguyên nhân ba nó có vết thẹo dài trên mặt ) tình yêu, nỗi nhớ, niềm ân hận và hối tiếc của bé Thu bị dồn nén bấy lâu, nay bỗng bùng ra mạnh mẽ, hối hả và cuống quýt, mãnh liệt, ào ạt. Qua biểu hiện thái độ và hành động ấy ta thấy Thu là một cô bé có cá tính mạnh mẽ, dứt khoát, yêu ghét rạch ròi, quyết liệt mà vô cùng sâu sắc. Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, hành động trao gói củ tam thất cho bác lái xe, bó hoa cho cô gái, ấm trà và làn trứng cho hai vị khách, cái nắm tay tạm biệt của anh thanh niên và cô gái… tất cả những hành vi cử chỉ đó giúp người đọc cảm nhận đựơc lòng hiếu khách, mến khách, sự quan tâm chu đáo và tình cảm chân thành mà các nhân vật đã dành cho nhau. * Lời các nhân vật khác về nhân vật Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, lời đánh giá của các nhân vật khác. Lắm khi, nhà văn còn “tổ chức” cho Trang 13
- các nhân vật khác thảo luận, bàn bạc về nhân vật ấy. Trong tác phẩm văn học, các nhân vật thường ở giữa những mối quan hệ tương tác, ràng buộc nhiều khi rất phức tạp, thường nhận (hoặc chịu) sự nhận xét, đánh giá của các nhân vật khác. Một trong những thành công của truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là khắc họa nhân vật chính qua cái nhìn của các nhân vật phụ khác: Anh thanh niên không xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện mà nhà văn đã để cho bác lái xe giới thiệu về anh với hai người khách trong chuyến xe khách lên Sa Pa ( Ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ). Lời giới thiệu đầy ấn tượng của bác đã làm cho ông họa sĩ, cô kĩ sư và cả người đọc đón chờ sự xuất hiện của nhân vật: “Tôi sắp giới thiệu với bác một trong những người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác cũng thích vẽ hắn”. Cũng qua lời kể của bác mà ta biết được những nét sơ lược về nhân vật chính (tuổi tác, hoàn cảnh sống, công việc và nỗi thèm được gặp người của anh thanh niên khi mới lên sống một mình trên đỉnh núi cao “bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”). Đặc biệt là qua những quan sát, suy nghĩ của ông họa sĩ, cô kĩ sư về anh thanh niên ta thấy như một ánh sáng được lọc qua nhiều lớp kính nó trở nên trong trẻo và rực rỡ hơn. Anh hiện lên rõ nét và đẹp hơn, chủ đề tác phẩm trở nên sâu rộng hơn. Tuy nhiên, không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện (lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, cử chỉ, hành động, qua lời của nhân vật khác). Tùy trường hợp mà có chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ đậm, chỗ nhạt. Bởi thế, không phải cứ máy móc tìm đủ, khai thác đủ mà cần biết tập trung, xoáy sâu vào các phương diện thành công nhất của tác phẩm. Cũng không cứ phải tuần tự theo các phương diện như thế mà nên sắp xếp theo thực tế, theo ý chủ quan của người phân tích. Truyện ngắn “Làng” đặc biệt thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật nên khi phân tích nhân vật ông Hai cần tập trung vào hai phương diện này. Còn nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” lại hiện lên chủ yếu qua cảm xúc và suy nghĩ cùng thái độ cảm mến của các nhân vật phụ. Cuối cùng, tổng hợp các mặt phân tích về nhân vật thành một nhận định khái quát, nêu bật được ý nghĩa tác dụng nhận thức cũng như giáo dục của nhân vật gợi ra. Phân tích nhân vật theo từng mặt như trên là nhằm tìm hiểu được đầy đủ, sâu sắc về tính cách của nhân vật. Tuy các nhân vật trong truyện thường có tính cách hoặc ít nhiều đa dạng, nhưng những tính cách đó bao giờ cũng thống nhất, cũng quy tụ về một vài nét nào đó là quan trọng, chủ yếu nhất. Mỗi nhân vật như vậy thường tập trung phản ánh một cuộc sống thực tế và tập trung biểu hiện một tư tưởng nào đó của nhà văn. Tác dụng giáo dục của Trang 14
- các nhân vật văn học được phát huy từ chính đặc điểm của bản thân nhân vật. Vì vậy khi phân tích nhân vật không chỉ dừng lại ở chỗ phân tích mà tổng hợp, khái quát lại, đi sâu vào ý nghĩa xã hội giáo dục của hình tượng văn học. Ví dụ: Sau khi phân tích những cử chỉ, ngôn ngữ, diễn biến tâm lí của nhân vật ông Hai giáo viên cần tổng hơp, khái quát: Truyện ngắn “Làng ” của Kim Lân giúp người đọc thấy được hình ảnh của một người nông dân Việt Nam mộc mạc, chất phác, giàu tình yêu làng, yêu Tổ quốc. Tình yêu làng quê của ông Hai giản dị như gié lúa nhành khoai, sáng trong như giếng khơi đầu làng, gắn bó như máu thịt. Yêu làng gắn với yêu nước nhưng tình yêu Tổ quốc phải được đặt lên trên hết, đó là mệnh lệnh của trái tim. Khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính ông vui mừng khôn kể xiết, đến nỗi nhà bị đốt mà ông vẫn cứ múa tay lên để khoe. Đó là bằng chứng cảm động cho lòng yêu nước, thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của ông Hai. Ông Hai tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp: yêu nước, yêu làng sâu sắc, sẵn sàng hi sinh tài sản và tính mạng cho kháng chiến và cách mạng. Cốt truyện diễn biến theo tâm lí tạo tình huống căng thẳng để thử thách nội tâm, Kim Lân đã đưa người đọc tới một thứ tình cảm cao đẹp: lòng yêu làng của một lão nông trở thành niềm say mê, hãnh diện, thành thói quen được khoe về làng mình. Tình yêu ấy thống nhất với tình yêu dân tộc khi đất nước đang bị kẻ thù xâm chiếm. Đó cũng là tình cảm sắt son của dân tộc Việt Nam: “Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông, Những lúc tột cùng là dòng huyết chảy”. 2.2.4. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh cảm và hiểu được cái hay, thú vị trong lời kể của tác giả (hay chính là lời của người kể chuyện) Lời kể chính là ngôn ngữ nghệ thuật của truyện. Phân tích lời kể của tác giả thực chất là phân tích ngôn ngữ khi giảng truyện. Ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng nhằm khêu gợi được sự sống và truyền đạt được cảm xúc. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong lời kể chuyện. Cái hay của lời kể trong truyện chính là ở chỗ tự nhiên, nhuần nhị, sinh động và truyền cảm. Một câu chuyện hay là câu chuyện tự nó sống qua lời kể. Muốn vậy lời kể phải xen lẫn với miêu tả (tả cảnh, tả vật, tả người, tả tình). Khi phân tích lời kể trong truyện cần chú trọng chỉ ra được sức mạnh gợi tả của ngôn ngữ, chỉ rõ các từ ngữ, câu văn, cách viết, lối kể của tác giả đã làm hiển hiện được cảnh, việc, người như thế nào? Đồng thời gây xúc cảm cho người đọc ra sao? Ngôn ngữ lời văn được xem là hay khi diễn đạt được tốt nhất nội dung tư tưởng, tình cảm của tác phẩm. Cái hay của ngôn ngữ nghệ thuật là ở chỗ sinh động và rung cảm, chất chứa chất liệu đời sống và tình ý con người. Văn Trang 15
- chương hay thực sự không phải ở chỗ màu mè, hoa mỹ. Cái hay của truyện lại càng thường ngưng đọng ở sự trong sáng, giản dị mà sinh động, rung cảm. Ví dụ: Một trong những thành công của truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là việc lựa chọn nhân vật người kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật. Đồng thời, qua những ý nghĩ và cảm xúc của người kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục. Người kể chuyện là bạn của ông Sáu đã chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu xúc động cho người kể chuyện “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó.”. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hy sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến ông “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt lấy trái tim”. Chọn nhân vật người kể chuyện như vậy khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy. Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe. Hay truyện ngắn “Làng” của Kim Lân thành công bởi ngôn ngữ truyện vô cùng đặc sắc: Ngôn ngữ truyện mang đậm tính khẩu ngữ và là lời ăn, tiếng nói của nông dân. Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của ông Hai (mặc dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ ba). Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại mang đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động. Như vậy giảng dạy truyện thì phải phân tích lời kể của truyện, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm. Lời kể truyện là sợi tơ dệt nên tình tiết, dệt nên toàn bộ hình tượng nhân vật. 2.2.5. Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh khai thác chất liệu cuộc sống trong các tác phẩm. Mạch kiến thức trong một số tác phẩm còn thể hiện ở chất liệu cuộc sống mà các nhà văn đưa vào trang viết. Chất liệu cuộc sống làm cho tác phẩm văn học trở nên gần gũi, thân thuộc, sinh động và còn góp phần quan trọng việc bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Đối với tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” chất liệu cuộc sống thể hiện từ tiêu đề, đến cả tên gọi nhân vật và công việc mà nhân vật đảm nhận. Tất cả tạo nên cái lặng lẽ cho tác phẩm, cái lặng lẽ đáng trân trọng về sự hi sinh thầm lặng và lí tưởng sống cống hiến của những người lao động bình thường. Tác phẩm là một bức tranh đẹp về cuộc sống mới cho ta ngẫm nghĩ và tin yêu. Không khí kháng chiến chống Trang 16
- Mỹ đầy gian khổ hi sinh được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”. Vượt lên hoàn cảnh chiến đấu ác liệt người đọc có thể nhận ra vẻ đẹp của tính cách anh hùng và tâm hồn trong sáng của các cô gái. Các chị mang những phẩm chất chung cuả những chiến sĩ thanh niên xung phong ở chiến trường: sống có lí tưởng; tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ; lòng dũng cảm không sợ hi sinh, có sức chịu đựng phi thường, tình đồng đội gắn bó và tinh thần lạc quan cách mạng. 2.2.6. Giải pháp 6: Thuyết trình và giảng bình của người dạy là chất “men” gợi xúc cảm cho học trò về nhân vật, hoặc tác phẩm Bình giảng xoáy vào ấn tượng chủ quan và không nhất thiết phải xem xét toàn diện đối tượng. Khi sử dụng lời bình cần chắt lọc xem yếu tố nào gây ấn tượng đậm nhất, lay động mình sâu xa nhất. Ấn tượng càng sâu đậm, càng ám ảnh bao nhiêu thì càng dễ truyền cảm bấy nhiêu. Ngọn nguồn của lời bình bao giờ cũng phải là sự truyền cảm. Nếu bình nghiêng về cảm thì giảng nghiêng về hiểu. Bình nghiêng về sự rung động tâm hồn thì giảng nghiêng về nhận thức trí tuệ. Bình là sự thăng hoa cất cánh còn giảng là sự đào sâu tìm cơ sở, làm điểm tựa, làm đòn bẩy cho sự cất cánh của lời bình. Sử dụng lời bình hợp lý sẽ tạo nên điểm sáng cho bài dạy. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, giáo viên nên sử dụng lời bình về những chi tiết độc thoại nội tâm của ông: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn bằng ấy tuổi đầu…?”. Hình thức độc thoại và độc thoại nội tâm giúp người đọc cảm nhận được chiều sâu tâm lí rất tinh tế, nhạy cảm của nhân vật ông Hai ( đau xót, dằn vặt, tự trọng, nhạy cảm, dễ xúc động…), những câu độc thoại nội tâm được coi là “chiếc chìa khóa mầu nhiệm” để người đọc khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn của nhân vật. Ở truyện “ Chiếc lược ngà” chi tiết chiếc lược ngà như một điểm nhấn cho giai điệu của bài ca về tình cha con trong chiến tranh và cũng là một chi tiết tuyệt hay. Nó cho thấy sự hồn nhiên của trẻ thơ, nó là niềm an ủi anh Sáu những ngày tháng xa con ở đơn vị. Nó là cầu nối hai câu chuyện: chuyện cha con anh Sáu và chuyện của người kể chuyện bác Ba. Chiếc lược ngà là một chi tiết bất ngờ: khi anh Sáu cố gắng hết sức để có kỉ vật chờ ngày về thực hiện lời hứa với con thì bom đạn kẻ thù không cho anh làm việc ấy, bất ngờ nhưng là hiện thực tất yếu và đau xót của chiến tranh. Như vậy một lần nữa, chúng ta có thể khẳng định rằng, việc phát hiện mạch kiến thức trong văn bản là việc làm quan trọng, giúp giáo viên thiết kế một bài soạn hợp lý. Từ đó rèn luyện cho học sinh kỹ năng khai thác và cảm thụ sâu sắc những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà tác giả Trang 17
- muốn gửi gắm đến người đọc. Trang 18
- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Năm học 20182019, tôi đã áp dụng đề tài nghiên cứu này vào giảng dạy cho học sinh khối lớp 9. Tôi nhận thấy rằng những biện pháp nói trên đã phục vụ hữu ích và góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của các giờ dạyhọc văn bản truyện hiện đại Việt Nam. Bước đầu chúng tôi đã thu được một số kết quả khá khả quan: * Đối với học sinh: Số học sinh nắm chắc và nắm sâu kiến thức bài học, hiểu và cảm thụ sâu sắc những giá trị đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm có chiều hướng tăng lên. Học sinh đã được hình thành kỹ năng, phương pháp và thói quen tìm hiểu, khám phá, phân tích tác phẩm: các em đã có ý thức hơn trong việc đọc kĩ văn bản để nắm cốt truyện và xác định tình huống truyện; biết chọn lọc, sắp xếp các chi tiết tiêu biểu để phân tích các khía cạnh khác nhau của tác phẩm, nhân vật. Từ đó có thể khái quát được chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Các em đã dần hình thành được thói quen liên hệ thực tế bản thân sau khi học văn bản. Đã có những học trò có ý thức tìm tòi, có phát hiện riêng, thể hiện được những cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích, sáng tạo của các em đối với một tác phẩm, một nhân vật. * Đối với giáo viên: Các giáo viên được trực tiếp phân công giảng dạy đã chủ động hơn trong việc chuẩn bị các kiến thức và phương pháp cơ bản cho một tiết dạy văn bản văn học hiện đại Việt Nam. Giáo viên đã chịu khó, kiên trì học hỏi, đầu tư thêm trong việc thiết kế bài soạn hợp lí, nhằm dẫn dắt học sinh khai thác và cảm thụ sâu những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi thấy rằng b ước đầu đã khơi dậy trong học sinh niềm đam mê và ý thức học tập, khám phá các tác phẩm . Tuy nhiên, để đạt kết quả cao hơn và lâu bền hơn đòi hỏi mỗi giáo viên phải không ngừng tìm tòi học hỏi để làm giàu thêm vốn kiến thức cho bản thân đồng thời phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, với từng bài dạy. Có như vậy, chúng ta mới nuôi dưỡng được tình cảm của học sinh đối với bộ môn Ngữ văn. Trang 19
- Qua việc khảo sát chấm chữa các bài kiểm tra tôi nhận thấy rằng các em đã có sự tiến bộ một cách rõ rệt, kết quả như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu 9A 29 3 10.3% 8 27.6 % 15 51.8 % 3 10.3% 9B 29 2 6.9% 10 34.5 % 14 48.3 % 3 10.3 % Như vậy, việc áp dụng “Khai thác sâu mạch kiến thức trong các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam môn Ngữ văn lớp 9” làm cho đa số học sinh hiểu sâu hơn nội dung kiến thức tác phẩm, năng lực, trí tuệ của học sinh được nâng lên. Học sinh đã phân tích được tác phẩm, khắc phục những lúng túng vướng mắc vốn có đồng thời củng cố được kiến thức đã học. Trang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình cho học sinh lớp 8
14 p | 59 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS thông qua các tiết sinh hoạt dưới cờ
36 p | 38 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình cho học sinh lớp 8 trường THCS Bình Lư
13 p | 49 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp gây hứng thú tập luyện thể dục thể thao cho học sinh THCS
18 p | 77 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 6
16 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà
40 p | 23 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn trình bày luận điểm cho học sinh lớp 8
12 p | 111 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng thực hành Tiếng Anh cho học sinh THCS theo hướng phát triển năng lực và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
26 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội trong đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn
17 p | 14 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn giáo dục công dân 6
19 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng trả lời câu hỏi đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn vào lớp 10
17 p | 16 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ cho học sinh thông qua dạy Hình học 7
13 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết CTHH của chất vô cơ trong chương trình Hoá học lớp 8 THCS
45 p | 15 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình và hệ phương trình
23 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh
28 p | 10 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6
18 p | 27 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9
23 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết chương trình Pascal bằng nhiều phương pháp
24 p | 49 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn