intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy ngữ văn lớp 7

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy ngữ văn lớp 7" được hoàn thành với mục tiêu nhằm gây được hứng thú rất tốt tạo tâm thế và kích thích học sinh tham gia vào tiết học; Kích thích tư duy tốt và có thể ngay lập tức khơi gợi được những kiến thức liên quan đến bài học; Có tính tương tác cao, lôi kéo được tập thể lớp tham gia xây dựng bài học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy ngữ văn lớp 7

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC TRƯỜNG THCS DI TRẠCH HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN PHẠM VI ẢNH HƯỞNG VÀ HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CẤP HUYỆN TÊN SÁNG KIẾN: Tíchhợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy Ngữ văn lớp 7. Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Huyền Đơn vị công tác: Trường THCS Di Trạch Chức vụ: Giáo viên Năm học 2023 -2024
  2. UBND HUYỆN HOÀI ĐỨC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG THCS DI TRẠCH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hoài Đức, ngày 03 tháng 04 năm 2024 BẢN MÔ TẢ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA SÁNG KIẾN Tên Sáng kiến: “Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy ngữ văn lớp 7” Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Huyền 1. Thực trạng: a. Các vấn đề tồn tại và khó khăn trước khi thực hiện sáng kiến: * Về chương trình: Dung lượng kiến thức lớn so với thời lượng từ 45 phút nghiên cứu trên lớp nên học sinh lại càng khó tiếp thu kiến thức. Chính điều này mà học sinh bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm thụ kiến thức Ngữ văn. * Về phía giáo viên: Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở nhiều giáo viên dạy Ngữ văn còn gặp khá nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng chưa đạt được kết quả mong muốn. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học và thiết kế các hoạt động chưa thật sự được chú trọng… * Về phía học sinh: Môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù, năng khiếu. Trong mỗi giờ học văn, học sinh phải phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, năng lực cảm thụ thì mới có thể hiểu được những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm, đòi hỏi người học phải thật sự có năng khiếu. Trường THCS Di Trạch nằm trên địa bàn ngoại thành Hà Nội, có nhiều gia đình cha mẹ lao động tự do, buôn bán hoặc làm nông nghiệp. Học sinh ít hứng thú với những giờ học Ngữ văn, chủ yếu là học đối phó nên không tiếp thu được kiến thức, dẫn đến hậu quả chất lượng học tập chưa cao, lệ thuộc vào sách tham khảo nhiều. b. Lý do thực hiện sáng kiến: Thực tế hiện nay đa số phụ huynh chỉ định hướng cho con em mình lựa chọn các môn học tự nhiên. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lí học sinh, làm giảm niềm yêu thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn… Chính điều đó dẫn đến kiến thức thực tế về văn học của các em còn nghèo nàn, từ ngữ trong giao tiếp một cách thiếu chính xác, đặc biệt trong các bài Tập làm văn thường mắc
  3. 4 lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Môn Ngữ văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách học sinh, đặc biệt đối tượng của môn Ngữ văn là những tác phẩm văn thơ, là những kiến thức về ngôn ngữ, tạo lập văn bản. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ học có hiệu quả, người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng, vấn đáp, nêu vấn đề, gợi ý,… Để tạo một giờ học phong phú, sinh động, thì việc lồng ghép một số bài hát và trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn, không gây sự nhàm chán trong một tiết học. 2. Nội dung sáng kiến: a. Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp cụ thể để giải quyết thực trạng nêu trên. Nội dung của sáng kiến: * Tính mới, tính tiên tiến: - Phát huy tối đa tính tích cực của chủ thể học sinh. - Phát huy thế mạnh của hoạt động nhóm/tổ. - Chú trọng quan tâm tất cả đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu). - Tạo được không khí tự nhiên, thoải mái, nhẹ nhàng và lựa chọn nội dung hấp dẫn để lôi cuốn các em vào hoạt động học. - Có thể tổ chức ở tất cả các hoạt động trong tiết học như: khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng và mở rộng, tìm tòi. - Các hoạt động tích hợp âm nhạc và trò chơi học tập không chỉ là giáo viên tổ chức mà thậm chí các em là người chủ động đưa âm nhạc vào tiết học. * Tính khả thi (khả năng áp dụng vào thực tiễn công tác của đơn vị, địa phương…): Giải pháp dạy học này được áp dụng rộng rãi cho các khối lớp, cho mọi giáo viên. Hiện nay điều kiện học tập của học sinh và cơ sở vật chất của nhà trường THCS Di Trạch đã được nâng cao. Cụ thể, nhà trường đã được trang bị thêm tivi. Đó là điều kiện thuận lợi để tôi thử nghiệm một số cách dạy học mới này để nâng cao hiệu quả dạy- học, vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh, vừa khắc sâu lại kiến thức đã học cho học sinh. Giải pháp này không chỉ được áp dụng trong môn Ngữ văn lớp 7 mà còn sử dụng trong việc giảng dạy bộ môn ở tất cả các khối lớp, có thể áp dụng ở một số môn học khác như: Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân... đáp ứng yêu cầu của trương trình giáo dục phổ thông 2018.
  4. 5 b. Kết quả của sáng kiến (Có đối chứng, so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện các giải pháp). Khi chưa áp dụng ( Giai đoạn học hè và đầu năm lớp 7 năm 2023-2024) học sinh yêu thích môn Ngữ văn chiếm tỉ lệ dưới 40%. Sau khi áp dụng ( Đến gần cuối kì I năm học 2023-2024), số học sinh yêu thích môn Ngữ văn có thay đổi rõ rệt, đặc biệt ở lớp 6b tôi đang trực tiếp giảng dạy tỉ lệ yêu thích trên 80%, tỉ lệ các em không yêu thích môn học đã giảm đáng kể . Lớp Tổng số Học sinh yêu thích Học sinh không yêu thích 7B 41 31 = 75,6 % 10 = 24,4 % Tuy nhiên vẫn còn một số học sinh chưa xác định rõ mục đích học tập, chưa phân biệt được cảm xúc khi học bộ môn. Chất lượng học sinh sau đợt kiểm tra, đánh giá giữa kì cũng đã được nâng lên rất nhiều Lớp Sĩ số Tốt Khá Đạt Chưa đạt 7B 41 6 = 14,6% 15 = 36,5% 17 = 41,4% 3 = 7,5% 3. Đánh giá phạm vi ảnh hưởng của Sáng kiến:  Chỉ có hiệu quả trong phạm vi Đơn vị áp dụng □ Đã được chuyển giao, nhân rộng việc áp dụng ra phạm vi quận/huyện/sở/ ngành/tập đoàn/tông công ty... (theo chứng cứ đính kèm) □ Đã phục vụ rộng rãi người dân hoặc người tiêu dùng trên địa bàn Thành phô, hoặc đã được chuyên giao, nhân rộng việc áp dụng trên địa bàn Thành phố (theo chứng cứ đính kèm) XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN Người viết sáng kiến (ký tên, đóng dấu) Nguyễn Thị Thanh Huyền
  5. UBND HUYỆN HOÀI ĐỨC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG THCS DI TRẠCH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hoài Đức, ngày 03 tháng 04 năm 2024 BÁO CÁO TÓM TẮT Sáng kiến kinh nghiệm: “Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy ngữ văn lớp 7”. I. Sơ yếu lí lịch Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Huyền. Giới tính: Nữ Ngày, tháng, năm sinh: 17/12/1980 Đơn vị công tác: Trường THCS Di Trạch Chức vụ hiện nay: Giáo viên Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học sư phạm Ngữ văn. Số điện thoại liên hệ: 0389907280 II. Sáng kiến kinh nghiệp, cải tiến kỹ thuật, giải pháp công tác, đề tài nghiên cứu khoa học hoặc áp dụng công nghệ mới 1. Tên, lĩnh vực thực hiện sáng kiến kinh nghiệm đề nghị xem xét: “Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy ngữ văn lớp 7” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Ngữ văn 3. Các thành viên tham gia nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm (hoặc cải tiến kỹ thuật; giải pháp công tác; đề tài nghiên cứu khoa học; công nghệ áp dụng vào thực tiễn): Giáo viên dạy ngữ văn lớp 7B; tập thể hs lớp 7B trường THCS Di trạch 4. Thời gian thực hiện: Năm học 2023- 2024. 5. Mô tả sáng kiến cải tiến kỹ thuật; giải pháp công tác; đề tài nghiên cứu khoa học; công nghệ áp dụng vào thực tiễn: Cách thức tổ chức tích hợp âm nhạc: Giáo viên phải xác định được trong chương trình đang giảng dạy, những tiết dạy nào có thể tích hợp bài hát, cũng cần chú ý lựa chọn bài hát cho phù hợp với từng nội dung bài dạy và thời gian của tiết học. Giáo viên phải chuẩn bị băng đĩa, máy nghe nhạc hoặc tự thuộc bài hát để trình bày nếu giáo viên có năng khiếu. Cách thức tổ chức trò chơi: Trò chơi thường được tổ chức ở đầu tiết học hoặc trước một hoạt động lớn trong tiết nhằm khơi dậy kiến thức nền, hình thành kiến thức hoặc nhằm củng cố
  6. 2 kiến thức. Do vậy, cần thiết kế thời gian cụ thể; câu hỏi đơn giản, chủ yếu gợi nhớ lại kiến thức; luật chơi phải rõ ràng… 6. Địa chỉ áp dụng: Lớp 7B trường THCS Di Trạch - Hoài Đức – Hà Nội. 7. Thời gian bắt đầu áp dụng: Từ ngày 05 tháng 09 năm 2023 đến nay. 8. Những hiệu quả nổi bật đã đạt được: Chất lượng học tập bộ môn được cải thiện rõ rệt: hơn 90% học sinh có kết quả học tập từ Đạt đến Khá - Giỏi. Thủ trưởng đơn vị xác nhận Người báo cáo (Ký, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên) Nguyễn Thị Thanh Huyền
  7. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC TRƯỜNG THCS DI TRẠCH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy Ngữ văn lớp 7”. Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Huyền Đơn vị công tác: Trường THCS Di Trạch Chức vụ: Giáo viên Năm học 2023 - 2024
  8. MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1 Mục lục. 2 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ. 1 3 1. Tính cấp thiết phải tiến hành sáng kiến. 1 4 1. Mục tiêu của đề tài. 2 5 2. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 3 5 PHẦN II. NỘI DUNG 4 7 1. Hiện trạng của vấn đề. 4 8 2. Giải pháp thực hiện sáng kiến để giải quyết vấn đề. 4 9 3. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến tại đơn vị: 11 10 4. Hiệu quả và khả năng vận dụng 12 11 PHẦN III. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT 14
  9. 1 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết phải tiến hành sáng kiến: Một thực tế chúng ta phải thừa nhận trong thời kì đất nước đang chuyển mình hội nhập quốc tế, bên cạnh rất nhiều mặt tích cực thì cũng nảy sinh không ít những khó khăn thách thức. Theo đó, hiện nay đa số phụ huynh chỉ định hướng cho con em mình lựa chọn các môn học tự nhiên. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lí học sinh, làm giảm niềm yêu thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn. Học sinh rất lười học văn, chán học văn, các em có cảm giác bị bắt buộc trong giờ học văn, đối phó việc học văn bằng các hoạt động miễn cưỡng: nghe, ghi chép, trả bài…. Những giờ học văn có khi chỉ là giờ thông tin kiến thức một chiều, khô cứng và nhạt nhẽo. Học xong một giờ văn, học sinh thu được kiến thức cần quá ít ỏi, thậm chí cá biệt có em không thu hoạch được gì. Chính điều đó dẫn đến kiến thức thực tế về văn học của các em còn nghèo nàn, từ ngữ trong giao tiếp một cách thiếu chính xác, đặc biệt trong các bài Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Đứng trước thực tế nhiều học sinh chưa xác định rõ mục đích của môn học. Các em thậm chí đặt ra câu hỏi học văn để làm gì đẫn đến không tìm thấy niềm vui, ý nghĩa của môn học. Chúng ta đều biết, môn Ngữ văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách học sinh, đặc biệt đối tượng của môn Ngữ văn là những tác phẩm văn thơ, là những kiến thức về ngôn ngữ, tạo lập văn bản. Chính vì vậy, để thực hiện một giờ học có hiệu quả, người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng, vấn đáp, nêu vấn đề, gợi ý,… Đặc biệt, để tạo một giờ học phong phú, sinh động, thì việc lồng ghép một số bài hát và trò chơi trong quá trình giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn, không gây sự nhàm chán trong một tiết học. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn và thực hiện giải pháp “Tích hợp âm nhạc và trò chơi trong giảng dạy ngữ văn lớp 7” vào trong các giờ dạy và học Ngữ văn ở các phân môn Tiếng Việt, văn bản và Tập làm văn ở lớp 7 tại trường THCS Di Trạch để nhằm khắc phục và cải thiện những vấn đề trên. 2. Mục tiêu của sáng kiến: Tích hợp âm nhạc, tổ chức các trò chơi học tập cần thiết trong quá trình tổ chức tiết học, nhằm giúp khơi dậy những gì học sinh đã biết để từ đó có thể hướng tới những gì chúng chưa biết, giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian diễn giảng lại
  10. 2 những gì học sinh đã biết, tránh gây nhàm chán trong tiết học. Từ đó, các nhiệm vụ giáo viên đưa ra để hình thành kiến thức mới cũng sẽ dễ dàng giải quyết hơn với học sinh. - Gây được hứng thú rất tốt tạo tâm thế và kích thích học sinh tham gia vào tiết học. - Kích thích tư duy tốt và có thể ngay lập tức khơi gợi được những kiến thức liên quan đến bài học. - Có tính tương tác cao, lôi kéo được tập thể lớp tham gia xây dựng bài học. - Hơn nữa lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi hiếu động nhưng thích khám phá, tìm tòi và thể hiện nên sử dụng âm nhạc và trò chơi giúp các em thỏa mãn nhu cầu đó. - Góp phần củng cố kiến thức - kĩ năng học tập cho học sinh. - Rèn luyện tư duy nhanh nhạy, kĩ năng quan sát. - Giáo dục cho học sinh có thái độ tích cực, tinh thần tập thể, hợp tác nhịp nhàng khi giải quyết một vấn đề trong nhóm, tổ. - Nhằm giải trí tránh tâm lý nặng nề, chán nản. 3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Theo điều tra từ lúc học sinh ôn tập hè và kết quả khảo sát đầu năm học 2023– 2024 (thực hiện qua phiếu khảo sát học sinh) số lượng học sinh hứng thú học môn Ngữ văn còn rất ít, dưới 40%. Kết quả khảo sát đầu năm về sự yêu thích bộ môn Ngữ Văn ở lớp 7B Lớp Sĩ số Học sinh yêu thích Học sinh không yêu thích 7B 41 15 = 36,5% 26=63,5% Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm môn Ngữ văn lớp 6B Lớp Sĩ số Tốt Khá Đạt Chưa đạt 7B 41 4 = 9,7% 10 = 24,5% 18 = 43,9% 9 = 21,9% Đứng trước thực trạng đó bản thân tôi xin mạnh dạn đưa thêm giải pháp để gây hứng thú học tập cho học sinh đó là: “ Tích hợp âm nhạc và trò chơi vào dạy học Ngữ văn lớp 7 ”. Giải pháp này được thực hiện trong năm học 2023- 2024 ở học sinh lớp 7B và các lớp học khác trong nhà trường THCS Di Trạch – Hoài Đức – Hà Nội.
  11. 3 PHẦN II. NỘI DUNG 1. Hiện trạng của vấn đề: Thực trạng thực hiện chương trình giáo dục mới 2018: * Về chương trình: Hiện nay chương trình giáo dục phổ thông đang tiến hành thay mới sách giáo khoa với ba bộ sách : “Cánh diều”, “Kết nối tri thức với cuộc sống”, “Chân trời sáng tạo”. Mỗi bộ sách đều có những ưu, nhược điểm riêng và còn rất mới mẻ với cả giáo viên và học sinh. Đa số các bài dạy đều bám sát mục tiêu đổi mới, phát huy năng lực và phẩm chất người học nhưng vẫn còn những bài dạy dung lượng kiến thức lớn so với thời lượng từ 45 phút nghiên cứu trên lớp nên học sinh khó tiếp thu kiến thức. Chính điều này mà học sinh bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm thụ kiến thức Ngữ văn. * Về phía giáo viên: Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở nhiều giáo viên dạy Ngữ văn còn gặp khá nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng chưa đạt được kết quả mong muốn. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học và thiết kế các hoạt động được chú trọng nhưng kết quả chưa đạt được như mong muốn. Một nguyên nhân nữa xuất phát từ trình độ chuyên môn của giáo viên, và việc đổi mới về chương trình giáo dục, khiến giáo viên lúng túng, mỗi khi lên lớp chưa thật làm chủ kiến thức, chỉ lo làm sao truyền thụ hết những gì đã soạn từ giáo án đã thấy khó, nói chi đến việc mở rộng, nâng cao, kích thích sự hứng thú của học sinh. * Về phía học sinh: Môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù, năng khiếu. Trong mỗi giờ học văn, học sinh phải phát huy trí tưởng tượng sáng tạo, năng lực cảm thụ thì mới có thể hiểu được những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm, đòi hỏi người học phải thật sự có năng khiếu. Yêu cầu này, đâu phải học sinh nào cũng đáp ứng được. Chúng ta đều biết dạy văn đã khó và sẽ khó hơn rất nhiều trong thời đại ngày nay. Thực tế, ở trường tôi có nhiều em được bố mẹ cho sử dụng điện thoại, hoặc không cho thì các em cũng tìm nhiều cách để có, để xem. Thời gian các em bị cuốn vì mạng Facebook, Youtube, Game online… nhiều hơn thời gian các em chuẩn bị bài, học bài. Bởi vì những thứ đó hấp dẫn hơn một tiết học khô khan. Vì vậy tạo nên một tiết học sôi nổi, vui vẻ, hấp dẫn và vẫn hình thành được kiến thức là điều cần thiết. Trường THCS Di Trạch nằm trên địa bàn ngoại thành Hà Nội, có nhiều gia đình cha mẹ lao động tự do, buôn bán hoặc làm nông nghiệp. Có học sinh gia đình
  12. 4 thuộc diện khó khăn, cha mẹ đi làm ăn xa, ở với ông bà nên các em chưa được quan tâm sát sao và chưa có tinh thần tự học cao. Nhiều em không tự giác chuẩn bị bài trước khi lên lớp và việc không thuộc bài là chuyện thường thấy. Học sinh ít hứng thú với những giờ học Ngữ văn, chủ yếu là học đối phó nên không tiếp thu được kiến thức, dẫn đến hậu quả chất lượng học tập chưa cao, lệ thuộc vào sách tham khảo nhiều. Với những thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng giải pháp đã nêu nhằm đổi mới để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học. 2. Giải pháp thực hiện sáng kiến (Những điểm mới, điểm khác biệt của giải pháp so với các giải pháp đang áp dụng; cách thức cụ thể triển khai thực hiện): a. Những điểm mới, điểm khác biệt của giải pháp so với các giải pháp đang áp dụng: - Phát huy tối đa tính tích cực của chủ thể học sinh. - Phát huy thế mạnh của hoạt động nhóm/tổ. - Chú trọng quan tâm tất cả đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu). - Tạo được không khí tự nhiên, thoải mái, nhẹ nhàng và lựa chọn nội dung hấp dẫn để lôi cuốn các em vào hoạt động học. - Có thể tổ chức ở tất cả các hoạt động trong tiết học như: khởi động, hình thành kiến thức, luyện tập, vận dụng và mở rộng, tìm tòi. - Các hoạt động tích hợp âm nhạc và trò chơi học tập không chỉ là giáo viên tổ chức mà thậm chí các em là người chủ động đưa âm nhạc vào tiết học. Như vậy, việc đổi mới cách dạy trong giờ học Văn và đặc biệt trong việc đổi mới cách tổ chức hoạt động của giáo viên và học sinh đã kích thích được hứng thú học tập. b. Cách thức cụ thể triển khai thực hiện: b.1. Giải pháp 1: Hình thức tích hợp âm nhạc. b.1.1. Cách thức tổ chức. - Đối với giáo viên : bản thân giáo viên phải xác định được trong chương trình đang giảng dạy, những tiết dạy nào có thể tích hợp bài hát, cũng cần chú ý lựa chọn bài hát cho phù hợp với từng nội dung bài dạy và thời gian của tiết học.
  13. 5 Giáo viên phải chuẩn bị băng đĩa, máy nghe nhạc hoặc tự thuộc bài hát để trình bày nếu giáo viên có năng khiếu. Cụ thể: + Xác định đưa bài hát vào phần nào cho phù hợp nội dung. + Xác định độ dài của bài hát để sắp xếp thời gian. Nếu bài hát dài mà không đủ thời gian giáo viên có thể cho các em nghe một đoạn của bài hát. Có thể đưa bài hát vào tiết dạy bằng nhiều hình thức khác nhau. Giáo viên có thể tự hát tùy khả năng, tâm lý thông thường thì các em học sinh rất thích được nghe thầy cô của mình hát, trường hợp bản thân giáo viên không thể tự hát thì có thể sử dụng băng đĩa, và cũng có thể giáo viên mời một học sinh trình bày bài hát. Mục đích của phương pháp đưa âm nhạc vào tiết dạy là để gây được sự hứng thú và giảm được không khí căng thẳng, nặng nề của tiết học và cũng là để học sinh ghi nhớ được nội dung liên quan đến bài học mà giáo viên đang muốn truyền thụ. b.1.2. Ví dụ minh họa. - Giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát “Mùa xuân nho nhỏ” khi dạy văn bản “Mùa xuân nho nhỏ” bài 4 trong chương trình Ngữ văn lớp 7- tập 1, dạy văn bản “ Gò Me” cho học sinh nghe những làn điệu dân ca Nam Bộ….
  14. 6 Lồng ghép âm nhạc trong dạy văn bản “Gò Me”- Hoàng Tố Nguyên. Trên đây là một ví dụ cụ thể về việc áp dụng hình thức tích hợp âm nhạc trong dạy học văn. Trong chương trình Ngữ văn THCS còn có rất nhiều bài học có thể áp dụng một cách linh hoạt hình thức này. Bên cạnh việc tạo hứng thú bằng phương pháp tích hợp âm nhạc, chúng ta có thể tạo hứng thú cho học sinh bằng cách chơi trò chơi trong tiết học. b.2. Giải pháp 2: Tổ chức trò chơi. b.2.1. Cách thức tổ chức. - Trò chơi thường được tổ chức ở đầu tiết học hoặc trước một hoạt động lớn trong tiết nhằm khơi dậy kiến thức nền, hình thành kiến thức hoặc nhằm củng cố kiến thức. - Thiết kế thời gian cụ thể: Đây chỉ là hoạt động phụ, có tính chất nền tảng, nên trò chơi cần đơn giản và tổ chức trong thời gian ngắn (tối đa 5 phút) để tránh khiến học sinh sao nhãng, thiếu tập trung cho hoạt động chính ở sau. - Những câu hỏi của trò chơi nên hết sức đơn giản chủ yếu là gợi nhớ kiến thức.
  15. 7 - Trong các nội dung học sinh đã biết liên quan đến chủ đề bài học, giáo viên nên chọn những nội dung trọng tâm nhất, liên quan trực tiếp đến các hoạt động mình tổ chức ở lớp, hãy bắt đầu bằng những kiến thức nếu học sinh không biết thì không thể tham gia vào các hoạt động hình thành kiến thức mới. Tổ chức trò chơi phải chọn kiến thức trọng tâm nhất cần hình thành để không làm “ loãng” nội dung tiết học. - Chọn luật chơi: Phải rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho việc hướng dẫn, huấn luyện. - Thiết kế nhiệm vụ, câu hỏi - Thiết kế sự liên kết của trò chơi với phương pháp hình thành kiến thức mới. - Hình thức chơi: Đối với trò chơi học tập đòi hỏi giáo viên phải tư duy, sáng tạo lựa chọn hình thức chơi cho phù hợp với mục đích, yêu cầu từng bài tập, từng tiết học, từng đối tượng sao cho đạt được kết quả hoạt động cao nhất. - Đối tượng tham gia trò chơi: Trò chơi phải hướng tới học sinh đảm bảo tất cả học sinh trong lớp học đều được tham gia. - Giáo viên phải định hướng, hướng dẫn nhằm đạt được mục đích, ý đồ bài học - Chuẩn bị: Tuỳ nội dung bài mà chuẩn bị ở nhà hay trên lớp. Dùng bảng phụ, phiếu học tập hay tự làm phương tiện dạy học. - Bố trí chia lớp phù hợp. b.2.2. Một số ví dụ minh hoạ. * Trò chơi thứ nhất: Ai nhanh, ai giỏi? - Mục đích trò chơi: Giúp học sinh: Hình thành được yêu cầu về kiến thức SGK. Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng các thành viên trong nhóm. Giáo dục ý thức tích cực và tinh thần hợp tác trong các hoạt động tập thể. - Chuẩn bị: + Lớp đọc kĩ và xác định yêu cầu bài tập. + Chia học sinh thành 2 - 4 nhóm tùy vào từng bài, đặc điểm lớp học. + Chia bảng, phấn, phiếu học tập…..cho nhóm. + Quy định thời gian chơi. - Tiến hành:Giáo viên hô hiệu lệnh, các nhóm cùng làm theo kiểu tiếp sức.
  16. 8 Ví dụ luật chơi sưu tầm những câu tục ngữ, ca dao về quê hương Với lớp học khoảng 40 học sinh, giáo viên chia lớp làm 4 nhóm,mỗi nhóm 6 học sinh. Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A4. Giáo viên dán bốn cục nam châm sẵn lên bảng. Trong vòng 60 giây, tất cả các đội phải ghi được nhiều nhất tất cả những câu tục ngữ, ca dao về vẻ đẹp quê hương sau đó chạy nhanh lên bảng dán câu trả lời của mình. Đội dán nhanh nhất được chấp nhận câu trả lời. Và chỉ một đội trả lời được nhiều đáp án đúng nhất chiến thắng. Ưu điểm của trò chơi này là dễ tổ chức, kết hợp giữa tư duy nhanh và vận động. Trò chơi này sẽ đánh thức sự hứng thú của học sinh và tạo không khí hào hứng trong tiết học. Lưu ý: Câu hỏi trò chơi không được quá hẹp, vì như vậy trò chơi sẽ kết thúc quá sớm. Và thời gian chơi phải ngắn, khoảng 90 giây là tối đa để đảm bảo yếu tố chạy đua. Nếu thời gian quá dài thì không khí sẽ bị chùng xuống và tạo tâm lý chán nản. Sau đó giáo viên chiếu đáp án lên màn hình và nhận xét, tổng hợp. * Trò chơi thứ hai: Giải ô chữ - Mục đích: Giúp học sinh:Củng cố, khắc sâu kiến thức của tuần học, tháng học. Rèn luyện kĩ năng nhớ, vận dụng kiến thức của các loại văn bản vào giải ô chữ để thực hiện yêu cầu của bài. Phát huy tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học sinh. Ví dụ khi dạy thực hành tiếng Việt bài: các phép tu từ (ẩn dụ, hoán dụ) tôi cho học sinh lần lượt trả lời 6 câu hỏi để tìm ra từ khóa, một phần là tên của tiết học theo hình ảnh dưới đây
  17. 9 * Trò chơi thứ ba: Biến đổi vui về câu (Từ một số từ, câu hạn chế biến đổi thành những câu khác nhau) - Ghép từ đã cho trong hình thành nhiều câu khác nhau (các câu trong hình a phải đủ 4 từ, hình b phải đủ 5 từ, có thể thêm dấu câu cần thiết). bảo thầy chưa giáo nó sao đèn tắt đến không (a) (b) - Thi ai sắp xếp được nhiều câu hơn. - Thay đổi một chút về luật chơi của trò chơi này có thể dùng trong nhiều tiết dạy tiếng Việt như: mở rộng * Trò chơi thứ tư: Đoán ý đồng đội Đây là một luật chơi vô cùng quen thuộc. Giáo viên chuẩn bị gói từ khóa, hình ảnh… , sau đó mời một học sinh quay lưng lại với bảng, các học sinh khác gợi ý để học sinh này trả lời. Lời gợi ý không được phép nhắc đến bất kì tiếng nào trong gói từ khóa giáo viên đưa ra. Để đạt được mục đích, giáo viên cần chú ý một vài điều trong luật chơi: - Học sinh không được tách từ để giải thích (ví dụ với cụm từ “truyện ngắn” học sinh có xu hướng gợi ý “truyện”, sau đó gợi ý “ngắn”). Luật chơi này đảm bảo học sinh gợi ý dựa trên hiểu biết về từ khóa, chứ không phải trên mưu mẹo. - Nên cho cả lớp tham gia vào quá trình gợi ý, thay vì chỉ một cặp chơi người hỏi người đáp, như vậy quá trình tư duy để khơi dậy kiến thức đã biết sẽ không giới hạn trong hai người chơi. - Giáo viên nên chiếu các từ khóa lên bảng để cả lớp cùng nhìn thấy (thay vì chuẩn bị các lá thăm trong từ khóa mà chỉ có người chơi mới thấy), việc quan sát các từ khóa cũng giúp kích hoạt kiến thức của học sinh. - Thời gian trò chơi ngắn: từ khoảng 60 giây đến 2 phút/lượt chơi. * Ví dụ: khi dạy bài 5 “Màu sắc trăm miền”
  18. 10 Văn bản 3- Đọc kết nối chủ điểm “Hội lồng tồng” để khắc sâu hiểu biết về những lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc vùng miền, tôi cho học sinh tìm hiểu về một số lễ hội truyền thống ở các địa phương và tham gia trò chơi “Đoán ý đồng đội” như sau: - Hình thức: Cả lớp cùng tham gia, gọi một học sinh A lên bục giảng quan sát ô chữ hoặc hình ảnh hành động trên máy tính của cô giáo sau đó dùng hành động hoặc những từ ngữ khác để diễn tả từ/hình ảnh mình vừa quan sát được. Sau khi học sinh A diễn tả, tất cả các học sinh còn lại đều có cơ hội xung phong trả lời. Sau ba lượt trả lời không đúng thì giáo viên cho học sinh quan sát đáp án trên ti vi, để tránh mất thời gian và chuyển sang thử thách tiếp theo. Câu trả lời đúng sẽ được tính điểm hoặc tặng thưởng cho cả cặp đôi. Mỗi học sinh chỉ nên được một lần tham gia gợi ý hoặc trả lời, trừ tường hợp thử thách và thời gian vẫn còn mà lớp học không tích cực-không có học sinh xung phong chơi. - Luật chơi: không được tách từ để giải thích; không dung từ địa phương, ngoại ngữ hoặc cách nói lái để giải thích. * Trò chơi thứ năm: Hỏi nhanh đáp nhanh Giáo viên chia lớp làm 4 đội. Mỗi vòng chơi, giáo viên sẽ quy định một chủ đề, nội dung câu hỏi và nội dung câu trả lời- các câu hỏi này chủ yếu để khảo sát việc chuẩn bị bài của học sinh, bám sát hoạt động “Trải nghiệm cùng văn bản”. Giáo viên chỉ định một đội bất kì, đội này ngay lập tức ra câu hỏi và chỉ định ngẫu nhiên một đội khác trả lời. Đội trả lời đúng tiếp tục được hỏi và chỉ định đội khác. Đội trả lời sai sẽ bị loại. Vòng chơi kết thúc khi chỉ còn một đội chiến thắng. Đội nào chiến thắng nhiều vòng chơi nhất thì chiến thắng toàn cuộc. Luật chơi kích hoạt kiến thức nền các khái niệm phong cách ngôn ngữ, thao tác lập luận, biện pháp tu từ trước khi làm bài tập đọc hiểu văn bản, đội nào đoán ra từ khóa bí ẩn sớm nhất đội đó chiến thắng. Trò chơi luyện cho học sinh cách làm chủ tiết học, có thể ở một vài tiết đầu học sinh sẽ bị động, lớp trầm vì học sinh chưa biết cách hỏi đội bạn, sau nhiều lần tực hành học sinh sẽ có kinh nghiệm: dùng những câu hỏi trong phần “Suy ngẫm và phản hồi” để hỏi. Trò chơi này yêu cầu học sinh phải có sự chuẩn bị bài kĩ trước khi đến lớp mới tham gia tích cực và hiểu quả được. Phần nào phát huy tính hiếu thắng ở học sinh, thúc đẩy tinh thần tích cực thi đua học tâp ở các em. Trò chơi này có thể dung nhiều thời gian hơn khi thực hiện các trò chơi khác. Vừa là chơi, vừa giúp các em tập chủ động tiếp cận kiến thức mới.
  19. 11 * Ví dụ: dạy bài 5, văn bản 3 - văn bản kết nối chủ điểm “ Hội lồng tồng” Sau nhiều tiết học, học sinh đã rút kinh nghiệm và biết cách dùng câu hỏi có trong sách giáo khoa để hỏi đội bạn như: 1. Bạn biết gì về hội lồng tồng? 2. Lễ hội phản ánh tình cảm và mơ ước gì của người dân ? 3. Các câu hỏi về cách dùng từ, tình cảm của tác giả, bài học được rút ra…. Sau khi thực hiện trò chơi, hầu hết học sinh cũng đã khắc ghi được nội dung bài học. Giáo viên giúp học sinh hệ thống lại kiến thức một cách khoa học. Như vậy chính các em đã chủ động cùng nhau tìm hiểu bài dưới sự giám sát, chỉ đạo của giáo viên. Kiến thức các em lĩnh hội được trong tiết học là do chính các em khám phá ra, các em sẽ rất hiểu bài, nhớ lâu và vận dụng tốt hơn ở những tiết học sau. * Trò chơi thứ sáu: thi tìm nhanh - Mục đích: Khắc sâu thêm kiến thức phần Tiếng Việt về Từ, từ Hán Việt. - Luật chơi: Giáo viên chia lớp làm 4 đội, với những từ cho sẵn Gv yêu cầu trong khoảng thời gian 4 phút đội nào ghép được nhiều từ, từ Hán Việt đội đó sẽ thắng. * Trò chơi thứ bảy: Đuổi hình bắt chữ - Mục đích: Khởi động, tạo tình huống có vấn đề để vào bài mới bài. - Luật chơi: Giáo viên chiếu những hình ảnh, hs tìm những từ thể hiện nội dung hình ảnh đó. 3. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến tại đơn vị: Khi chưa áp dụng ( Giai đoạn học hè và đầu năm lớp 7 năm 2023-2024) học sinh yêu thích môn Ngữ văn chiếm tỉ lệ dưới 40%. Sau khi áp dụng ( Đến gần cuối kì I năm học 2023-2024), số học sinh yêu thích môn Ngữ văn có thay đổi rõ rệt, đặc biệt ở lớp 6b tôi đang trực tiếp giảng
  20. 12 dạy tỉ lệ yêu thích trên 80%, tỉ lệ các em không yêu thích môn học đã giảm đáng kể . Lớp Tổng số Học sinh yêu thích Học sinh không yêu thích 7B 41 31 = 75,6 % 10 = 24,4 % Tuy nhiên vẫn còn một số học sinh chưa xác định rõ mục đích học tập, chưa phân biệt được cảm xúc khi học bộ môn. Chất lượng học sinh sau đợt kiểm tra, đánh giá giữa kì cũng đã được nâng lên rất nhiều Lớp Sĩ số Tốt Khá Đạt Chưa đạt 7B 41 6 = 14,6% 15 = 36,5% 17 = 41,4% 3 = 7,5% - Để thực hiện những giải pháp trên, giáo viên không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của tiết dạy mà giáo viên và học sinh vẫn đảm bảo hình thành được nội dung kiến thức bài học, bài tập sách giáo khoa, liên hệ mở rộng trong phân môn, liên môn. Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để giáo viên khắc sâu kiến thức. Từ đó làm cho không khí lớp học thoải mái, kich thích được tin thần học tập của học sinh, đặc biệt với những em sức học yếu, chậm, nhút nhát. Như vậy giải pháp góp phần thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục một cách sáng tạo và hiệu quả. 4. Hiệu quả của sáng kiến: 4.1. Hiệu quả về khoa học: Trên đây là một vài nhận biết và việc làm cụ thể của bản thân tôi trong việc thực hiện theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy - học giúp học sinh hứng thú hơn trong giờ học môn Ngữ văn ở lớp 7 tại trường THCS Di Trạch. Qua các tiết dạy có vận dụng hình tích hợp âm nhạc và trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn ở trường, tôi đã thu được một số kết quả sau: - Tiết học Ngữ văn trước đây trầm lắng, chỉ có thầy hỏi trò trả lời thì bây giờ các em cảm thấy thoải mái hơn, sôi nổi thảo luận với nhau và đưa ra các ý kiến của bản thân. - Giờ học không còn là thầy hỏi rồi tự trả lời mà đã có học trò tham gia các hoạt động. Các em cảm thấy hứng thú hơn, không uể oải trong giờ học. Và đặc
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
270=>0