intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hình thức kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong dạy học Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:67

6
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm áp dụng đa dạng các hình thức kiểm tra miệng ở các giờ dạy đọc văn trong Ngữ văn 12 sẽ giảm bớt đi sự căng thẳng, lo sợ mà thay vào đó tạo được sự mới mẻ, hứng thú từ phía HS trường THPT Nghi Lộc 5 nói riêng và HS THPT nói chung trong mỗi giờ học. Nhờ đó các em không chỉ vui vẻ học tập mà còn có cơ hội phát huy được năng lực của mình một cách toàn diện, chứ không đơn thuần là việc “đọc thuộc”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hình thức kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong dạy học Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐA DẠNG HÌNH THỨC KIỂM TRA MIỆNG Ở CÁC GIỜ ĐỌC VĂN TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 12 TẠI TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5 LĨNH VỰC: NGỮ VĂN
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5 =====  ===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐA DẠNG HÌNH THỨC KIỂM TRA MIỆNG Ở CÁC GIỜ ĐỌC VĂN TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 12 TẠI TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 5 LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Tên tác giả : Nguyễn Thị Bích Tổ : Ngữ văn Năm học : 2022 - 2023 Số điện thoại : 0365.156.777 Tháng 4, năm 2023
  3. MỤC LỤC PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................................ 6 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................................................. 6 2. Đối tượng tác động.............................................................................................................................. 7 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài............................................................................................................. 7 4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................................... 7 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài............................................................................................. 7 PHẦN B: NỘI DUNG................................................................................................................................. 8 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..................................................................................................... 8 1. Cơ sở lí luận......................................................................................................................................... 8 1.1. Khái niệm kiểm tra miệng................................................................................................................. 8 1.2. Đặc điểm của kiểm tra miệng ở giờ đọc văn trong Ngữ văn 12...................................................... 10 1.3. Ý nghĩa của việc kiểm tra miệng ở giờ đọc văn trong Ngữ văn 12 ................................................. 10 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng đề tài................................................................................. 11 II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ............................................................................................................... 12 1. Yêu cầu khi thực hiện đa dạng hình thức kiểm tra miệng................................................................. 12 2. Quy trình thiết kế hoạt động kiểm tra miệng trong các giờ dạy văn bản........................................... 13 3. Một số biện pháp đa dạng hình thức kiểm tra miệng trong các giờ đọc văn...................................... 15 Biện pháp 1: Kiểm tra miệng sử dụng phiếu trả lời trắc nghiệm kết hợp với chấm chéo trong lớp ........15 3.1. Biện pháp 2: Kiểm tra miệng bằng hình thức nhập thân vào văn bản ............................................ 16 3.2. Biện pháp 3: Kiểm tra miệng bằng hình thức đóng vai thành tác giả để trả lời phỏng vấn.............17 3.3. Biện pháp 4: Kiểm tra miệng bằng hình thức sân khấu hóa một tình tiết trong tác phẩm ...............19 3.4. Biện pháp 5: Kiểm tra miệng bằng sản phẩm: video, bài hát, sơ đồ................................................ 20 3.5. Biện pháp 6: Kiểm tra miệng theo hình thức bốc thăm câu hỏi do học sinh tự tạo.........................21 3.6. Biện pháp 7: Kiểm tra miệng theo tinh thần khích lệ cá nhân và thi đua phong trào học tập của nhóm...................................................................................................................................................... 22 3.7. Biện pháp 8: Kiểm tra miệng áp dụng với các trò chơi .................................................................. 23 4. Thiết kế minh họa đa dạng hình thức kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong chương trình Ngữ văn 12........................................................................................................................................................... 24 4.1. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng thông qua hình thức sử dụng phiếu trả lời trắc nghiệm kết hợp với chấm chéo trong dạy học văn bản Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)........................................... 24 4.2. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng thông qua hình thức nhập thân vào văn bản trong dạy học văn bản Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) và Tây Tiến (Quang Dũng) ................................................................ 26 Nhập thân vào nhân vật để tóm tắt, phân tích truyện Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)................................. 26 4.3. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng thông qua hình thức đóng vai để trả lời phỏng vấn trong dạy học văn bản Vợ nhặt (Kim Lân) .......................................................................................................... 29 4.4. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng thông qua hình thức sân khấu hóa một tình tiết trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) ................................................................................................................... 31 4.5. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng thông qua sản phẩm: video, bài hát, sơ đồ ở văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân), Sóng (Xuân Quỳnh), Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường) .................................................................................................................................................. 33 4.6. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng thông qua hình thức bốc thăm câu hỏi do học sinh tự tạo trong dạy học văn bản Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu).............................................................. 36 4.7. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng theo tinh thần khích lệ cá nhân và thi đua phong trào học tập của nhóm trong dạy học văn bản Hồn Trương Ba da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) .................................. 39 4.8. Thiết kế hoạt động kiểm tra miệng thông qua áp dụng trò chơi tiếp sức trong dạy học văn bản Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)....................................................................................................... 41 III. KẾT QUẢ VÀ ỨNG DỤNG........................................................................................................... 42 1. Kết quả khảo sát thực nghiệm............................................................................................................ 42 1.1. Mức độ hứng thú của HS................................................................................................................ 42 1.2. Kết quả điểm số học tập của học sinh ............................................................................................ 44 2. Ứng dụng........................................................................................................................................... 45 2.1. Phạm vi ứng dụng.......................................................................................................................... 45
  4. 2.2. Mức độ vận dụng............................................................................................................................ 45 IV. KHẢO SÁT TÍNH CẤP THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ...........45 1. Mục đích khảo sát ............................................................................................................................. 45 2. Nội dung và phương pháp khảo sát.................................................................................................... 45 2.1. Nội dung khảo sát........................................................................................................................... 45 2.2. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá........................................................................................ 45 2.2.1. Về tính cấp thiết........................................................................................................................... 46 2.2.2. Về tính khả thi............................................................................................................................. 46 3. Đối tượng khảo sát................................................................................................................... 46 3.1. Tính cấp thiết.................................................................................................................................. 46 3.2. Tính khả thi .......................................................................................................................... 48 4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất .........................50 4.1. Sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất ........................................................................................ 50 4.2. Tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất....................................................................................... 51 PHẦN C: KẾT LUẬN............................................................................................................................... 52 1. Kết luận chung................................................................................................................................... 52 2. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................................................. 52 3. Đề xuất.............................................................................................................................................. 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................... 1 PHỤ LỤC.................................................................................................................................................... 1 4
  5. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt Cụm từ đầy đủ THPT : Trung học phổ thông GV : Giáo viên HS : Học sinh
  6. PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Nền giáo dục ở Việt Nam nói chung và quá trình dạy học môn Ngữ văn nói riêng đã và đang không ngừng đổi mới. Theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018, việc dạy học cũng như đánh giá HS sẽ dựa trên sự phát huy tối đa năng lực của người học. Vì thế, đa dạng hình thức kiểm tra miệng cũng là một trong những cách thức giúp GV đánh giá HS. Đây là một trong những hoạt động tất yếu trong quá trình đổi mới kiểm tra, đánh giá HS dựa theo năng lực và phẩm chất trong chương trình mới này. Đặc biệt, kiểm tra miệng không chỉ là một trong những khâu hoàn thiện đánh giá kết quả học tập của HS mà còn mang lại nhiều ý nghĩa cho cả người dạy lẫn người học, trong đó rất đặc biệt đối với các giờ dạy văn bản đọc hiểu. Nó có vai trò tạo tâm thế ổn định, thoải mái cho lớp khi bước vào bài học mới. Đồng thời, khi trả lời bài cũ còn là phút giây HS được rèn luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề và hình thành thái độ tự tin cho bản thân. Và GV cũng có cái nhìn tổng quát về kiến thức, thái độ của người học để có sự điều chỉnh trong dạy học và đánh giá phù hợp hơn. Tuy nhiên, thực tế trong quá trình kiểm tra miệng trong các giờ đọc văn trong Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5, chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Với mong muốn các em trang bị kiến thức một cách đầy đủ để tham gia kì thi quan trọng, nên vẫn còn hiện tượng GV ép buộc HS ghi nhớ kiến thức một cách thuần túy và tái hiện bằng miệng trước lớp trong đầu giờ học. Và quá trình kiểm tra miệng trong các giờ dạy văn bản văn học chỉ đơn thuần là thuật lại nội dung của bài cũ như: đọc thuộc bài thơ, tóm tắt câu chuyện... Vì thế, thay vì hiểu và sáng tạo thì HS lại chú trọng quá trình học thuộc để hoàn thành yêu cầu bài cũ của GV trước khi đến lớp. Đồng thời, bản thân các em cũng chấp nhận cách học ghi nhớ này, với quan niệm: “học thuộc trước thì đỡ sau, tổng không đổi”. Tuy nhiên, cũng có một số trường hơp các em có e ngại, thậm chí có phần sợ sệt khi bị nhắc tên lên hỏi bài. Bởi lẽ, để thuộc lòng các văn bản thơ lớp 12 đó là một điều không dễ dàng khi mỗi bài có dung lượng tới 90 câu thơ. Các em gọi bông đùa những phút giây đó là “giờ xét xử”, “giờ hành hình”, “lên thớt”... Từ đó, đồng nghĩa với việc không khí của đầu giờ học luôn bắt đầu bằng những căng thẳng và nặng nề. Xuất phát từ những cơ sở trên tôi lựa chọn giải pháp “Đa dạng hình thức kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong dạy học Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5” để nghiên cứu và thực hiện. 6
  7. 2. Đối tượng tác động Khách thể nghiên cứu: học sinh khối 12 trường THPT Nghi Lộc 5 Nhóm lớp thực nghiệm: Lớp 12 A5, 12 A2 Nhóm lớp đối chứng: Lớp 12 A7 Thời gian: năm học: 2022 - 2023 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Hình thức kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong Ngữ văn 12. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát, thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thể nghiệm. Ở đề tài này chúng tôi tiến hành các bước sau: Bước 1: Tiến hành khảo sát thực trạng kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong môn Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5 Bước 2: Thực hành đa dạng các hình thức kiểm tra miệng trong giờ đọc văn ở một số lớp tại trường THPT Nghi Lộc 5 Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau khi áp dụng hình thức kiểm tra mới Bước 4: Kết luận 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Việc áp dụng đa dạng các hình thức kiểm tra miệng ở các giờ dạy đọc văn trong Ngữ văn 12 sẽ giảm bớt đi sự căng thẳng, lo sợ mà thay vào đó tạo được sự mới mẻ, hứng thú từ phía HS trường THPT Nghi Lộc 5 nói riêng và HS THPT nói chung trong mỗi giờ học. Nhờ đó các em không chỉ vui vẻ học tập mà còn có cơ hội phát huy được năng lực của mình một cách toàn diện, chứ không đơn thuần là việc “đọc thuộc”. Vì thế, các em được mở rộng được kiến thức và rèn luyện nhiều kỹ năng nhiều hơn. Giúp các em luôn tự tin, thể hiện năng lực của bản thân. Đúng với phương châm: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đồng thời, đây cũng là một kênh thông tin hữu hiệu để GV đánh giá HS một cách chính xác và khách quan. Qua đó, các nhà giáo có những lựa chọn, điều chỉnh phù hợp trong phương pháp dạy học của mình. 7
  8. PHẦN B: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm kiểm tra miệng “Kiểm tra”, “đánh giá” là một phần không thể thiếu trong bất cứ công việc, nhiệm vụ nào, đặc biệt là trong quá trình giáo dục và đào tạo. Vì thế, Nguyễn Thị Phương Hoa đã khẳng định: “Hoạt động dạy và học luôn cần những thông tin phản hồi để điều chỉnh kịp thời, nhằm tạo ra hiệu quả ở mức cao nhất”.[3]. Từ những nhận thức trên, khi chúng tôi bàn về khái niệm “kiểm tra”, “đánh giá” đã không quá xa lạ với HS lẫn GV hiện nay. Tuy nhiên, cũng không ít người còn ngộ nhận, chưa phân biệt rõ ràng các loại hình, thậm chí nhầm lẫn giữa chúng. Thực ra “đánh giá” là một quá trình, một khái niệm rộng, còn “kiểm tra” chỉ dạng thức cơ bản, quen thuộc, là một khâu quan trọng trong quá trình đánh giá. Ở phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ bàn về nội hàm của khái niệm “kiểm tra” trong dạy và học. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cho rằng: “Kiểm tra, thi cử hoặc bài kiểm tra là một bài đánh giá giáo dục nhằm đo lường kiến thức, kỹ năng, năng khiếu, thể chất hoặc tính phân loại của người dự thi trong nhiều chủ đề khác nhau” [11]. Cùng quan điểm đó, Từ điển Tiếng Việt, nêu rõ “kiểm tra” được hiểu là: “Xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”. Dựa trên những khái niệm trên chúng ta hiểu đơn giản, “kiểm tra” là một khâu trong quá trình đánh giá HS, đó là lúc GV đo lường lượng kiến thức và kĩ năng của yêu cầu bài học ở HS, qua đó phát hiện ra những năng lực hay thiếu sót của các em, nhằm đưa ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời, để nâng cao kết quả học tập. Từ những thông tin thu được sẽ cung cấp dữ kiện cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá HS. Nhận thức rõ được vai trò của “kiểm tra” trong dạy và học đối với HS lẫn GV nên hiện nay hoạt động này được mọi người quan tâm và chú trọng. Theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thông mới các hình thức kiểm tra dần được thay đổi đa dạng. Trong dạy học, người ta thường sử dụng các hình thức kiểm tra như: kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ và kiểm tra tổng kết. Cùng với các hình thức trên, các phương pháp kiểm tra được thực hiện là: kiểm tra miệng, kiểm tra viết và kiểm tra thực hành. Như vậy, có thể hiểu “kiểm tra miệng” là một trong những phương pháp của kiểm tra thường xuyên. Hoạt động này thường được áp dụng ở nhiều thời điểm khác nhau trong giờ học. Có thể trước khi học bài mới, với nội dung kiểm tra bài cũ của tiết trước. Đây là thời gian được nhiều GV lựa chọn nhất. Nhưng nó cũng có thể phát sinh trong quá trình học bài mới hoặc sau khi kết thúc bài mới với những nội dung tranh luận có vấn đề hay hoạt động nhóm... 8
  9. Tuy nhiên, kiểm tra miệng nếu không được áp dụng khéo léo thì sẽ dễ gây nên “hiệu ứng ngược” trong giờ dạy. Trước hết, kiểm tra miệng dễ sa vào phí phạm thời gian. Một số trường hợp HS chưa chuẩn bị kĩ lưỡng những yêu cầu của GV nên câu trả lời chiếm khá nhiều thời gian của tiết học. Đồng thời, về phía các em HS thường khá thụ động trong khi kiểm tra. Nào là: chưa chuẩn bị kĩ, chưa học thuộc, vì run nên ấp a ấp úng... Vì thế, chất lượng kiến thức GV thu nhận được còn quá mỏng so với dung lượng của bài học. Nhằm phát huy tối đa tác dụng và hạn chế những nhược điểm của kiểm tra miệng GV cần lưu ý một số điểm như sau: - Tạo điều kiện cho tất cả học sinh trả lời đầy đủ câu hỏi đề ra - Giáo viên nghiên cứu kỹ những kiến thức cơ bản của bài, nắm chắc chương trình, chuẩn bị kiến thức tối thiểu do quy định. - Dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi vừa phải, sát trình độ học sinh, học sinh có thể trả lời ngắn gọn trong vài phút. - Sau khi nêu câu hỏi cho cả lớp, cần có thời gian ngắn để học sinh chuẩn bị, sau đó mới chỉ định học sinh trả lời câu hỏi. - Sự hiểu biết của giáo viên về tính cách của học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm là những yếu tố giúp cho người thầy giáo thấy rõ thực chất trình độ kiến thức, kĩ năng của học sinh được kiểm tra. - Cần kiên trì nghe học sinh trình bày. Khi cần thiết, phải biết gợi ý, không làm cho các em sợ hãi lúng túng. - Yêu cầu học sinh trả lời sao cho cả lớp nghe được và yêu cầu cả lớp theo dõi câu trả lời của bạn và bổ sung khi cần thiết. - Phải có nhận xét ưu khuyết điểm trong câu trả lời của học sinh về hình thức trình bày, nội dung, tinh thần thái độ . - Phải công bố điểm công khai. Phải ghi điểm vào sổ điểm của lớp và sổ điểm cá nhân của mình. - Thực hiện được những yêu cầu trên, hoạt động kiểm tra miệng sẽ được thực hiện phù hợp, đem lại nhiều hiệu quả trong quá trình dạy học. Như vậy, có thể hiểu “kiểm tra miệng” là một trong những phương pháp của kiểm tra thường xuyên. GV có thể linh hoạt áp dụng vào thời gian thích hợp tùy theo đặc trưng của tiết học. Hoạt động này đem đến nhiều ý nghĩa cho người dạy lẫn người học, nhưng cũng tồn tại không ít những nhược điểm, đòi hỏi GV phải vận dụng cẩn thận, linh hoạt, khéo léo, đúng yêu cầu đề ra. 9
  10. 1.2. Đặc điểm của kiểm tra miệng ở giờ đọc văn trong Ngữ văn 12 Kiểm tra miệng cũng giống như kiểm tra viết, kiểm tra thực hành luôn được GV lựa chọn áp dụng thường xuyên trong quá trình dạy học của mình. Mỗi phương pháp trên đều có những đặc điểm riêng. Trước hết, kiểm tra miệng phải diễn ra trong một giới hạn thời gian nhất định trong giờ học, cụ thể là giao động từ 4-7p. Nếu không đảm bảo khung giờ này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến những hoạt động dạy học ở phía sau. Chính vì kiểm tra miệng diễn ra trong thời gian ngắn như vậy, đòi hỏi GV phải chuẩn bị kĩ lưỡng ở phần yêu cầu. Câu hỏi đặt ra cho HS phải ngắn gọn, tường minh và câu trả lời cũng chứa những nội dung vừa phải, đủ thời gian để các em suy nghĩ và trả lời trọn vẹn. Cũng trong thời gian cho phép đó, số lượng HS tham gia kiểm tra miệng cũng giới hạn nhất định, một tiết học như vậy cũng chỉ áp dụng được từ 2-3 HS. Và sau khi nhận được câu trả lời từ phía HS, GV có những đánh giá ngay lập tức trước lớp. Đó là những đặc trưng riêng của kiểm tra miệng trong dạy và học. Tuy nhiên, sẽ dựa vào đặc thù của từng phân môn mà GV có cách thức áp dụng kiểm tra miệng khác nhau, đối với các giờ đọc văn trong Ngữ văn 12 cũng vậy. Trong chương trình Ngữ văn 12 tập 1 và tập 2 hầu hết các văn bản đọc văn có dung lượng kiến thức rất lớn. Cụ thể về thơ, có một số bài lên tới 90 câu như: Việt Bắc (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)... Văn bản truyện ngắn trung bình đều chiếm từ 10 trang trở lên như: truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) dài 10 trang từ tr4 - tr14, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) lên tới 11 trang từ tr70 – tr 81... Chính vì số lượng kiến thức nhiều như vậy, nên quá trình kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn trong chương trình Ngữ văn 12 gặp nhiều trở ngại. Cùng với lượng thời gian cho phép nên đa số, nội dung kiểm tra miệng chỉ mới chạm đến những phần cơ bản nhất của văn bản như: tóm tắt, đọc một số đoạn thơ... Và chủ đạo GV vẫn thường yêu cầu HS ghi nhớ, tái hiện kiến thức nhận biết từ các văn bản đã học ở tiết trước. Và dĩ nhiên sẽ không đủ thời gian để GV và HS chạm đến vùng kiến thức thông hiểu và vận dụng. Cũng do đó, số lượng HS kiểm tra miệng trong những giờ học này cũng rất ít, hấu hết cũng chỉ đạt mức 1-2 HS tùy theo yêu cầu của GV và từng bài học riêng. Như vậy, nhìn chung kiểm tra miệng trong các giờ dạy đọc văn nói riêng và dạy học nói chung còn có những khó khăn khi thực hiện. Vì thế, mỗi GV khi thực hiện cần cẩn thận chú ý, linh hoạt vận dụng để hoạt động được diễn ra đúng yêu cầu và đạt hiệu quả cao. 1.3. Ý nghĩa của việc kiểm tra miệng ở giờ đọc văn trong Ngữ văn 12 Hoạt động kiểm tra miệng từ xưa đến nay vẫn giữ vai trò vô cùng quan trọng và luôn được người dạy lẫn người học quan tâm trong quá trình giáo dục. Bởi lẽ, đây là phương pháp nhanh nhất và hiệu quả nhất để GV có thể nhận được những thông tin kiến thức, năng lực... từ phía HS. Đây là lúc GV xác minh tình trạng học tâp của các em như thể nào, để bản thân có sự điều chỉnh thích hợp trong lựa chọn 10
  11. phương pháp dạy học. Đồng thời, những phút giây ngắn ngủi này, thật sự rất bổ ích đối với các em HS. Người ta thương nói: “áp lực tạo nên kim cương” quả đúng không sai. Có sự kiểm tra, đôn đốc thường xuyên từ phía GV giúp các em rèn luyện tính tự lập, chăm chỉ, chủ động trong học tập. Về lâu dài, HS luôn trong tâm thể chuẩn bị bài mới, học thuộc bài cũ, làm bài tập về nhà một cách liên tục. Có sự chăm chỉ đó, chắc chắc các em sẽ tiến bộ rõ rệt trong quá trình học tập của mình. Ngoài ra, kiểm tra miệng, hiện nay được áp dụng rất đa dạng cách cách thức, vì thế, đó cũng chính là lúc bản thân các em HS được học tập nhiều kiến thức và rèn luyện nhiều kĩ năng. Chúng ta có thể kể đến như: kĩ năng trình bày một vấn đề, kĩ năng diễn đạt, làm chủ bản thân, tự tin...Nhận thức rõ được ý nghĩa của kiểm tra miệng trong dạy và học, vì thế, hoạt động này ngày càng được quan tâm và chú trọng đổi mới trong cách thức hoạt động. Hoạt động kiểm tra miệng ở các giờ dạy học đọc văn Ngữ văn 12 cũng có những ý nghĩa chung như tất cả các giờ học khác. Đây là kênh thông tin để GV nắm bắt năng lực, tình trạng của HS, cũng là lúc các em có cơ hội được củng cố kiến thức của tiết học trước... Tuy nhiên, ở những tiết học này, kiểm tra miệng còn đem lại một số tác dụng đặc biệt khác. Trước hết, kiểm tra miệng góp phần quan trọng trong việc tạo tâm lí cho HS để chuẩn bị bước vào nội dung tiếp theo của văn bản đó hoặc kiến thức của văn bản mới. Nếu hoạt động kiểm tra diễn ra suôn sẻ, các em sẽ luôn cảm thấy thoải mái, thú vị, kích thích sự mày mò tìm hiểu ở những phút tiếp theo của giờ học và ngược lại. Đối với dạy học văn bản tạo được hứng thú cho HS ngay từ những phút học đầu là một trong những thành công của người dạy. Đồng thời, kiểm tra miệng ở các giờ dạy này còn vừa củng cố kiến thức của tiết trước và khơi gợi nội dung ở tiết sau. Điều này chỉ đạt được khi bài học đó kéo dài nhiều tiết học. Đặc điểm này rất phù hợp với tất cả các giờ dạy học đọc văn Ngữ văn 12, trung bình mỗi văn bản sẽ chiếm tới 3-5 tiết dạy. Từ những nhận thức trên, tôi nhận thấy rằng kiểm tra miệng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học nói chung và các giờ dạy đọc văn ở chương trình Ngữ văn 12 nói riêng. Tuy nhiên, để hoạt động này được thực hiện có hiệu quả, rất cần thiết sự chuẩn bị cẩn thận của GV, sự đồng thuận hợp tác tích cực học tập từ HS. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng đề tài Hoạt động kiểm tra miệng trong dạy học Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5 đã và đang được GV thực hiện đều đặn trong quá trình dạy học của mình. Thông thường, môn Ngữ văn sẽ có bốn cột điểm thường xuyên và cột điểm thứ nhất vẫn luôn được ưu tiên dành cho hoạt động này. Còn ba cột điểm còn lại sẽ linh động các hình thức kiểm tra viết hay kiểm tra thực hành. Vì vậy, nhìn chung kiểm tra miệng vẫn được GV thực hiện đều đặn và HS cũng quen với việc học bài cũ trước khi đến lớp. 11
  12. Tuy nhiên, khi bàn về hoạt động kiểm tra miệng qua các giờ đọc văn trong chương trình Ngữ văn 12 tại trường THPT Nghi Lộc 5 có những điểm tích cực nhưng cũng tồn tại không ít hạn chế nhất định. Đầu tiên, có thể nhắc đến những bất lợi về số lượng trong kiểm tra miệng qua các giờ dạy học đọc văn. Như đã nói ở phần trên, các văn bản của chương trình Ngữ văn 12 có dung lượng rất dài trong khi thời gian kiểm tra thì có hạn. Vì thế, mỗi tiết học GV chỉ có thể kiểm tra giao động từ 1 đến 2 HS. Chính điều này, ở lớp có sĩ số trên 40 HS thì mỗi học kì trung bình các em chỉ thực hiện kiểm tra miệng 1 đến 2 lần. Thậm chí, có không ít trường hợp HS “đối phó” chỉ học thuộc một “bài tủ” duy nhất, xung phong lấy điểm miệng và sau đó nghiễm nhiên, tự đắc không phải học và không cần lên bảng nữa. Với số lượng và số lần HS được kiểm tra ít ỏi như thế, sẽ không tạo được tính nhất quán học tập đều đặn của HS. Điểm thứ hai, hạn chế trong kiểm tra miệng ở các giờ đọc văn là chưa mang lại chất lượng. Do gánh nặng về kiến thức nên một số GV áp dụng cách thức “cày ngày cày đêm” rèn dũa các em học tập với một “tinh thần thép”. Nên khát vọng đó được chuyển hóa thành hình thức kiểm tra đọc thuộc lòng. Hơn nữa, những yêu cầu kiểm tra của GV cũng lặp đi lặp lại, chỉ đủ chạm đến kiến thức nhận biết một cách sơ lược nhất, chưa khơi gợi được vùng kiến thức thông hiểu và vận dụng trong mỗi văn bản. Ở bất cứ văn bản nào cũng lặp đi lặp lại việc tái hiện kiến thức như: đọc thuộc bài thơ, tóm tắt tác phẩm, nêu giá trị của tác phẩm...Những lúc ấy, HS hình dung như một cỗ máy chỉ biết “copy” và “paste” trên bục giảng khi kiểm tra miệng. Ở một số trường hợp khác, các em rất ngần ngại để có thể đọc thuộc cả một văn bản thơ dài như thế, nên số điểm đạt được rơi vào ngưỡng 5-6 khá nhiều. Và cũng phải kể đến không ít HS xin “nợ” để về học thuộc tiếp để “trả nợ” GV. Với hình thức kiểm tra đơn điệu trên, số lượng HS đạt điểm 9-10 ít dần, thay vào đó là điểm 5-6 gia tăng và “sổ nợ” của GV nhiều lên một cách bất thường. Khảo sát ở các lớp tôi dạy trong năm học 2021-2022 trung bình có: 40% thường xuyên học bài cũ, 45% học để đối phó và 15% hầu như không học bài cũ. Những hạn chế trên, đã thúc đẩy tôi áp dụng đa dạng hình thức kiểm tra miệng trong các giờ đọc văn tại trường THPT Nghi Lộc 5. II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Yêu cầu khi thực hiện đa dạng hình thức kiểm tra miệng Kiểm tra miệng dù chỉ là hoạt động nhỏ, chiếm rất ít thời gian nhưng lại có vai trò rất lớn tạo nên sự thành công của tiết dạy và cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá đúng năng lực của HS. Để hoạt động kiểm tra miệng thực hiện có hiệu quả GV cần xác định được những yêu cầu sau: Thứ nhất, một hoạt động kiểm tra miệng cần được thiết kế ngắn gọn, trong dung lượng thời gian phù hợp. Các yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của HS phải rõ ràng, tường minh để các em nắm bắt nhanh và thực hiện trong một khoảng thời gian cho phép. 12
  13. Thứ hai, hoạt động kiểm tra miệng phải liên quan đến nội dung, nghệ thuật, giá trị của bài học. Việc thiết kế các yêu cầu của kiểm tra miệng cũng cần phải chạm đến những yêu cầu cần đạt của HS sau khi học xong văn bản. Thứ ba, khi thiết kế hoạt động động kiểm tra miệng, GV cần chú ý đến đối tượng HS. Với mỗi đối tượng, GV phải thiết kế yêu cầu hoạt động khác nhau. Khi thiết kế, GV cần đa dạng hóa các phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học. Ở mỗi lớp, mỗi tiết học GV có thể xây dựng kịch bản và dàn dựng nội dung khác nhau để phù hợp đối tượng cũng như tránh đơn điệu, tẻ nhạt, “làm mới” chính mình. Cuối cùng, việc đánh giá HS một cách khách quan cũng là một vấn đề quan trọng đối với GV. Sau khi HS tham gia hoạt động kiểm tra miệng ngoài những lời nhận xét thì chủ yếu điều các em quan tâm nhất vẫn là điểm số. Trường hợp, các em hoàn thành xong được yêu cầu thì GV cần có sự đánh giá toàn diện phù hợp với từng cá nhân và công bố điểm công khai trước lớp. Ngược lại, có một số đối tượng HS không thực hiện được yêu cầu thì GV cần tạo ra những “cánh cửa” khác để các em giữ được tâm thế của mình để vào tiết học. Căn cứ vào từng đối tượng HS mà GV lựa chọn những cơ hội cho học trò của mình như: thay đổi yêu cầu dễ nhất, cho HS lực chọn phạm vi kiến thức nắm được... Khi thực hiện hoạt động kiểm tra miệng GV đảm bảo những yêu cầu trên thì sẽ thực hiện hoạt động này có hiệu quả hơn. 2. Quy trình thiết kế hoạt động kiểm tra miệng trong các giờ dạy văn bản Bước 1. Xác định mục tiêu của hoạt động GV cần xác định rõ các mục tiêu của hoạt động kiểm tra miệng bao gồm kiến thức, năng lực, phẩm chất hình thành ở HS trong quá trình dạy học Về kiến thức: Cần xác định rõ được mục tiêu cần đạt của từng văn bản. Từ đây, GV đặt ra những yêu cầu nhằm củng cố kiến thức trọng tâm của văn bản cho HS. Mỗi văn bản thường cung cấp kiến thức về tác giả, tác phẩm, nội dung, nghệ thuật và giá trị của tác phẩm. Đặc biệt, văn bản còn gửi gắm đến những bài học, thông điệp có ý nghĩa trong đời sống. Tùy theo đối tượng HS khác nhau, GV có những lựa chọn củng cố kiến thức cơ bản hay chuyên sâu hơn. Về năng lực: Thông qua hoạt động kiểm tra miệng, các em sẽ được hình thành những năng lực cụ thể nào? Không nhất thiết một hoạt động kiểm tra miệng phải hình thành cho học sinh hết tất cả các năng lực đó, có khi chỉ là một năng lực. Khi thiết kế phần mục tiêu của năng lực hình thành trong hoạt động kiểm tra miệng, GV cần tránh đi một cách chung chung mà cần cụ thể năng lực nào được hình thành, trong hoạt động hay nội dung nào. 13
  14. Về phẩm chất: Kiểm tra miệng là hoạt động đầu tiên và thường xuyên trong mỗi giờ dạy tác động đến tâm tư, tình cảm của các em học sinh, hình thành những phẩm chất tốt đẹp. GV cần chỉ rõ những phẩm chất nào được hình thành trong quá trình tổ chức hoạt động kiểm tra miệng. Bước 2. Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện hỗ trợ và các yêu cầu cần chuẩn bị của GV và HS Dựa vào mục tiêu đã xác định, GV lựa chọn nội dung và các hình thức kiểm tra miệng phù hợp để tổ chức có hiệu quả. Đối với mỗi hình thức, mỗi bài học cụ thể, GV dự kiến được cần những phương tiện hỗ trợ nào (máy tính, tivi, máy chiếu, tranh ảnh...) GV và HS cần chuẩn bị những gì để thực hiện tốt hoạt động kiểm tra miệng. Bước 3. Thiết kế phần tổ chức thực hiện *Chuyển giao nhiệm vụ (Nội dung): Giáo viên cần trình bày cụ thể, rõ ràng nội dung cho từng hình thức khi kiểm tra miệng. Trước hết, các nội dung thực hiện nhất thiết phải liên quan đến nội dung của bài học, tùy theo đối tượng HS mà tăng khó. Mỗi hình thức tổ chức GV chọn sẽ có một nội dung tương ứng. Đặc biệt là phần chuyển giao nhiệm vụ của GV cần được thiết kế cụ thể yêu cầu, nhiệm vụ rõ ràng để tất cả học sinh trong lớp đều hiểu, thực hiện và hoàn thành kiến thức của bài học. * Thực hiện nhiệm vụ (Sản phẩm): Phần thực hiện nhiệm vụ GV cần trình bày cụ thể kết quả HS thực hiện hoạt động: đáp án của câu hỏi, bài tập, phiếu học tập; kết quả hoạt động trải nghiệm...Những kết quả này có thể chỉ là sự dự đoán của GV, trong đó GV có thể dự kiến những khó khăn HS gặp phải để tìm hướng khắc phục. * Báo cáo, thảo luận, dự kiến sản phẩm: GV cần trình bày cụ thể giải pháp sư phạm trong việc lựa chọn kiểm tra một vài học sinh hay nhóm học sinh trong từng hình thức thực hiện. Đối với những hoạt động làm việc theo nhóm, GV không cần thiết phải gọi tất cả các nhóm mà có thể chỉ chọn một số nhóm trình bày/ báo cáo. GV có thể để HS tranh luận, bổ sung và nhận xét trước, còn bản thân có thể khơi gợi những tình huống có vấn đề để khắc sâu kiến thức của văn bản. Còn đối với trường hợp kiểm tra theo nhóm nhưng làm việc độc lập, bên cạnh kết quả chung GV có thể đặt một số câu hỏi hoặc tình huống có vấn đề để kiểm tra kiến thức nâng cao của HS. * Kết luận, nhận định: Trước hết, GV cần đánh giá được sản phẩm của HS. Phân tích cụ thể về sản phẩm học tập mà HS phải hoàn thành theo yêu cầu. Khi đánh giá, GV cần đánh giá cụ thể ưu điểm, nhược điểm, mức độ hoàn thành của HS một cách cụ thể, tránh chung chung. Phần kết luận, bên cạnh những nhận xét luôn kèm theo những điểm số cụ thể, công khai trước lớp. Ở những văn bản nhiều tiết dạy thì GV có thể lấy nội dung kiểm tra miệng để chuyển vào nội dung bài học 14
  15. của tiết sau. Thậm chí, tùy theo một số trường hợp cũng có thể kết nối dẫn từ kiến thức của văn bản này sang phần mở đầu của văn bản khác trong cùng một chủ để. 3. Một số biện pháp đa dạng hình thức kiểm tra miệng trong các giờ đọc văn Biện pháp 1: Kiểm tra miệng sử dụng phiếu trả lời trắc nghiệm kết hợp với chấm chéo trong lớp Hiện nay, tất cả HS không xa lạ với việc sử dụng phiếu trả lời trắc nghiệm trong giờ học thông thường hay bất cứ kì thi nào. Nó được hiểu là biểu mẫu dùng để làm bài thi trắc nghiệm với phần thông tin bao gồm thông tin thí sinh, phần đáp án là thứ tự các câu hỏi với các ô lựa chọn A, B, C, D dành cho thí sinh. Hình thức này thường quy chuẩn đầy đủ khi áp dụng trong các kì thi, nhưng GV cũng có thể tối giản hóa khi sử dụng trong các tiết học để phù hợp với mục đích kiểm tra thông thường. Hình thức dùng phiếu trắc nghiệm được đa số GV sử dụng thường xuyên trong quá trình dạy và học ở tất cả các phân môn. Hơn nữa việc vận dụng khá đơn giản, HS chỉ cần đọc kĩ câu hỏi và tô đậm vào đáp án mình xác định đúng và quá trình chấm điểm cũng rất nhanh gọn và hầu như ít sai sót. Cách thức kiểm tra này giúp GV đánh giá nhanh, chính xác kiến thức học của HS ở văn bản trước. Tùy theo nội dung bài học và số lượng câu hỏi mà GV lựa chọn số HS tham gia. Khi sử dụng phiếu trả lời trắc nghiệm để kiểm tra miệng GV có mời tối thiểu là 4-5 HS và tối đa là cả lớp cùng thực hiện. Điều này đồng nghĩa với việc xóa đi hạn chế kiểm tra số lượng HS ít trong hình thức kiểm tra miệng truyền thống. Hơn nữa, cách thức này còn mang tính khách quan rõ nét. Đó là việc HS chính là những “thí sinh” nhưng cũng là những “giảm khảo” đánh giá bài làm của nhau. Đáp án “rõ mồn một” qua từng nét tô đậm và số điểm hiện lên qua từng các câu trả lời đúng. Vì lí do này, nên sẽ không còn hiện tượng HS phàn nàn, kêu ca GV chấm “đắt” hay “rẻ”, “thiên vị” hay “trù dập”... Đặc biệt, những nội dung yêu cầu của GV không chỉ dừng lại ở lượng kiến thức nhận biết mà được mở rộng chạm đến vùng thông hiểu, vận dụng của văn bản. Có như vậy, các em sẽ chủ động ôn tập kiến thức các văn bản một cách toàn diện, cẩn trọng chứ không có hiện tượng “học tủ” một nội dung như: chỉ đọc thuộc thơ, tóm tắt truyện... như trước nữa. Ở hình thức kiểm tra miệng sử dụng phiếu trả lời trắc nghiệm kết hợp với chấm chéo trong lớp có thể được áp dụng được tất cả các văn bản trong chương trình Ngữ văn 12. Tuy nhiên, khi áp dụng cách thức này GV và HS cần lưu ý. Đối với GV cần có sự chuẩn bị cẩn thận, chu đáo, nhất là ở phần câu hỏi. Số lượng câu vừa phải, yêu cầu đáp án rõ ràng, sắp xếp tăng dần theo độ khó của vấn đề. Ở những câu hỏi thông hiểu, vận dụng giám khảo có thể hỏi sâu: “Vì sao ... chọn đáp án đó?” để tránh trường hợp một số em đoán mò. Về phía HS phải chú ý đọc kĩ câu hỏi, lựa chọn, tô đậm hoặc khoanh tròn đáp án đúng theo đúng thời gian quy định. 15
  16. 3.1. Biện pháp 2: Kiểm tra miệng bằng hình thức nhập thân vào văn bản Để hiểu được nội dung và ý nghĩa của văn bản có rất nhiều hướng tiếp cận khác nhau, nhưng tất yếu không thể bỏ qua bước đọc, nhận diện văn bản qua tầng lớp ngôn ngữ. Vì thế, GV thường gọi tên hoạt động này là “đọc - hiểu văn bản”. Và cũng từ đây, nội dung tóm tắt văn bản tự sự, đọc thuộc bài thơ là những yêu cầu quen thuộc trong hoạt động kiểm tra miệng của GV. Đặc biệt, để HS ghi nhớ văn bản một cách dễ dàng, linh động và sâu sắc hơn thì hiệu quả nhất là phương pháp nhập thân vào văn bản. Hiểu đơn giản, đây là hoạt động các em HS hóa thân vào chính nhân vật trong tác phẩm để kể lại câu chuyện hay giãi bày tâm sự. Thông thường hình thức này sẽ hiện diện rõ yêu cầu của GV qua câu hỏi trực tiếp như: “Anh/chị hãy hóa thân thành nhân vật... để tóm tắt tác phẩm...” hay “Hãy biến mình thành nhân vật...trong bài thơ... để thể hiện tâm trạng ...?” Ở mỗi văn bản khác nhau GV sẽ có sự linh động để đề ra nhiệm vụ khác nhau cho HS. Trong công trình nghiên cứu này, tôi xin nêu lên hai cách thức áp dụng hình thức nhập thân vào văn bản là tóm tắt truyện và ngâm thơ để ghi nhớ và phân tích tác phẩm. Nhập thân vào nhân vật để tóm tắt truyện Như tôi đã nhắc đến ở nội dung phần trên, dung lượng các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn 12 hầu hết khá dài. Từ thực tế đó, hoạt động ghi nhớ, tóm tắt văn bản truyện cũng không phải là điều dễ dàng đối với HS. Vì thế, để HS nhập thân vào một nhân vật trong tác phẩm kể lại câu chuyện là một hình thức sáng tạo mới. Nó giúp các em phát huy được năng lực tưởng tượng, cảm thụ của bản thân dựa trên văn bản gốc. Lúc ấy, việc tóm tắt một câu chuyện trong tác phẩm truyện không còn đơn thuần là kể lại những sự kiện, cốt truyện theo một motip rập khuôn nữa mà các em có thể có những cách thể hiện đa dạng dựa trên văn bản. Bởi lẽ, khi hóa thân vào nhân vật là lúc HS được “sống” cùng câu chuyện, cảm nhận những sự kiện, tình tiết của truyện bằng chính tâm hồn của mình và có cách kể lại bằng giọng điệu riêng của mình. Nhờ điểu này, mà việc tóm tắt văn bản truyện hóc búa được dần gỡ bỏ trong nhận thức của các em. Hơn nữa, những phút giây kiểm tra miệng dưới hình thức này cũng là lúc bản thân các em được rèn luyện nhiều kĩ năng khác như: kể chuyện, thái độ bình tĩnh, tự tin, xử lí vấn đề...Đặc biệt, cách thức nhập thân vào nhân vật để tóm tắt truyện có sức lay động mạnh, cảm xúc trong các em dần được khơi gợi, tạo tiền đề cho sự thấu cảm đến nhân vật nói riêng và những tư tưởng của nhà văn nói chung. Với nhiều ý nghĩa tích cực như trên, hình thức kiểm tra miệng này đã được tôi áp dụng rất thành công trong hoạt động kiểm tra miệng tại trường THPT Nghi Lộc 5. Với hình thức kiểm tra miêng bằng nhập thân vào nhân vật để tóm tắt truyện có thể áp dụng cho những văn bản truyện, chẳng hạn như: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)... Tuy nhiên, khi thực hiện cách thức này GV cũng cần chú ý. Trước hết GV luôn có sự định hướng 16
  17. cụ thể, việc tóm tắt văn bản phải luôn ngắn gọn, trung thành nội dung của văn bản gốc. Đặc biệt, không cứng nhắc là nhập thân vào một nhân vật (nhân vật chính) duy nhất để lặp lại yêu cầu với nhiều HS. Mà GV sẽ dựa theo đối tượng HS để có những yêu cầu khác nhau. Ở HS trung bình nên chọn hình thức HS xưng tôi và kể lại tác phẩm truyện, còn ở HS khá, giỏi có thể yêu câu kể những sự việc, tiểu tiết nhỏ hơn và có tính chọn lọc sự kiện. Nhập thân vào nhân vật trữ tình/tác giả để ghi nhớ, bộc lộ tâm trạng Các văn bản thơ trong chương trình Ngữ văn 12 cũng giống như truyện có dung lượng khá dài, một số bài lên tới 90 câu thơ. Do đó, để HS ghi nhớ toàn bộ những bài thơ đó quả thực rất khó khăn. Thay vì ép buộc các em học thuộc một cách mệt mỏi, nặng nề thì GV có thể để HS nhập thân vào nhân vật trữ tình hoặc tác giả để ghi nhớ và bộc lộ tâm trạng trong một đọan thơ hay một bài thơ. Như vậy, việc ghi nhớ thơ nay đã không còn là “máy móc”, “đọc vẹt” nữa, mà các em tự học thuộc bài thơ theo phương thức riêng, xúc cảm riêng của mình. Đặc biệt, khi hóa thân vào nhân vật trữ tình hay tác giả là lúc các em đặt mình vào nhân vật, có những cảm xúc nhất định trước diễn biến của sự việc. Nhờ những rung động đơn giản ban đầu này giúp các em dần thấu hiểu và đồng cảm với nhân vật, tạo điều kiện thuận lợi để đi đến đánh giá nhân vật một cách khách quan, toàn diện. Và dĩ nhiên đối với tác giả cũng vậy. Những văn bản thơ trong chương trình Ngữ văn 12 có thể thực hiện hình thức kiểm tra này như: Tây Tiến (Quang Dũng), Việt Bắc (Tố Hữu), Sóng (Xuân Quỳnh)... Tuy nhiên, khi thực hiện cách thức này GV cũng cần chú ý. Trước hết GV luôn có sự định hướng cụ thể, hình thức ghi nhớ bài thơ đa dạng chứ không máy móc (có thể đọc thông thường, chuyển thể sang lời bài hát, đọc rap, ngâm thơ...). Đặc biệt, không cứng nhắc là nhập thân vào nhân vật trữ tình hay tác giả để ghi nhớ thơ một cách “đơn điệu” mà xen lẫn với từng văn bản sẽ kèm theo những yêu cầu cảm nhận về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ. Hơn nữa, những yêu cầu kiểm tra miệng không được lặp lại với nhiều HS trong lớp. Mà GV sẽ dựa theo đối tượng HS để có những yêu cầu khác nhau. Ở HS trung bình nên chọn hình thức HS nhập thân vào văn bản, ghi nhớ thơ ở một số đoạn bất kì và có những câu hỏi nhận biết, còn với những HS khá, giỏi có thể đọc thơ xong, cảm nhận yêu câu kể những sự việc, tiểu tiết nhỏ hơn và có tính chọn lọc sự kiện. 3.2. Biện pháp 3: Kiểm tra miệng bằng hình thức đóng vai thành tác giả để trả lời phỏng vấn Trong chương trình Ngữ văn 11 HS đã được tiếp cận, làm quen và thực hành qua 2 tiết học: Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn. Vì thế, khi áp dụng cách thức này vào hoạt động kiểm tra miệng các em không còn bỡ ngỡ, lạ lẫm nữa. Trong báo 17
  18. chí, phỏng vấn là một cuộc đối thoại có chủ đích, đây là một dạng bài viết theo dạng phóng viên hỏi và nhân vật được phỏng vấn trả lời. Phỏng vấn thường được dùng trong hai trường hợp: thể hiện chân dung nhân vật hoặc cung cấp thông tin về lĩnh vực mà người được phỏng vấn là chuyên gia hoặc có trách nhiệm trả lời. Trong phạm vi nghiên cứu bài viết này, chúng ta hiểu phỏng vấn theo một phương pháp dạy học. Phỏng vấn là một phương pháp thu thập thông tin dựa trên cơ sở quá trình giao tiếp bằng lời nói có tính đến mục đích đặt ra của bài học. Trong cuộc phỏng vấn, người phỏng vấn nêu những câu hỏi theo một chương trình câu hỏi đã được định sẵn dựa trên yêu cầu của từng nội dung văn bản. Để có thể áp dụng phương pháp này phù hợp với khung giờ cho phép của kiểm tra miệng thì hoạt động phỏng vấn được diễn ra linh hoạt và đơn giản. Hoạt động thực hiện theo hình thức cá nhân, gồm một phóng viên và một người phỏng vấn đóng vai là tác giả cùng nhau bàn về một vấn đề, khía cạnh nào đó của văn bản. Còn các thành viên còn lại trong lớp cùng nhau hóa thân thành “độc giả” – “khán giả” để đặt những câu hỏi, thắc mắc cho tác giả. Khi bàn về tác dụng của phương pháp phỏng vấn ở quy mô nhỏ (cá nhân) hay lớn (nhóm), chúng đều đem đến những ý nghĩa bổ ích cho cả GV lẫn HS. Trước hết, phỏng vấn tạo được sự hứng thú từ phía HS, từ đó khơi gợi các em tính chủ động, sáng tạo và lĩnh hội kiến thức tường tận, sâu sắc qua từng câu hỏi, vấn đề của văn bản. Đồng thời, những HS tham gia lúc này cũng có thể xem là “diễn viên tài năng” đang tạo bầu không khí vui vẻ cho lớp học. Đúng với phương châm: “vừa học vừa chơi”, nhưng rất hiệu quả. Đặc biệt, khi tham gia phỏng vấn HS tự ghi nhớ nội dung bài học và rèn luyện được nhiều kỹ năng sống bổ ích như: giao tiếp, tự tin, xử lí các tình huống có vấn đề, tư duy sáng tạo... Còn về phía GV, đây cũng là “cơ hội vàng” cho “ban giám khảo” đánh giá năng lực HS một cách toàn diện. Như vậy, nhìn chung khi áp dụng phương pháp phỏng vấn sẽ có tác động sâu sắc tới suy nghĩ và hành động của người dạy lẫn người học. Hơn nữa, các văn bản Ngữ văn 12 luôn gợi mở nhiều tình huống có vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh và tính cấp thiết rõ nét, vì thế phỏng vấn tác giả để giải quyết những thắc mắc của nhiều người là một điều vô cùng lí thú. Khi áp dụng hình thức kiểm tra miệng bằng hình thức phỏng vấn, GV có thể áp dụng vào tất cả các văn bản, nhưng thích hợp nhất là những tác phẩm mang tính triết lí như: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Hồn Trương Ba da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)... Để phương pháp phỏng vấn tác giả đạt hiệu quả trong hoạt động kiểm tra miệng, GV và HS cần lưu ý. Trước hết, GV cần có sự lựa chọn sắp xếp các gói câu hỏi phù hợp, những yêu cầu được tăng cấp dần theo dạng câu hỏi nhận biết, thông hiểu và vận dụng để việc nghiên cứu văn bản mang tính chiều sâu hấp dẫn. Cũng trong quá trình chuẩn bị HS không chỉ tìm hiểu kĩ những nội dung câu hỏi đã được GV cung cấp trước mà cần chủ động nghiên cứu ở những nội dung 18
  19. liên quan vì có thể đó là những thắc mắc, băn khoăn của độc giả. Đặc biệt, khi thực hiện hoạt động này HS nhập vai vào tác giả và phóng viên một cách tự nhiên. Câu hỏi và câu trả lời đảm bảo tính ngắn gọn, rõ ràng. Thậm chí, phóng viên linh động có thể hỏi thêm một số câu hỏi bên lề ngoài những câu hỏi trọng tâm của GV yêu cầu trong gói câu hỏi, nhằm tạo không khí vui vẻ cho buổi phỏng vấn. Về phía độc giả, cần chăm chú lắng nghe cuộc hội thoại trên và chuẩn bị sẵn những băn khoăn của mình dành cho tác giả. Nếu tác giả trả lời đúng nội dung của độc giả thì sẽ kết thúc buổi phỏng vấn, nếu ngược lại thì GV lúc này là người “điều tiết” hoạt động cho phù hợp với thời lượng. Có thể GV sẽ là người gợi ý trước hay để độc giả bày tỏ quan điểm và dĩ nhiên cũng có thể để ngỏ câu hỏi đó cho những độc giả khác, sau đó GV chốt lại vấn đề, thực hiện tiếp hoạt động dạy học tiếp theo. Cuối cùng, khi thực hiện phương pháp này, GV rất cần sự linh động trong đánh giá, ghi nhận nhận sự tham gia của nhóm phỏng vấn chứ không chỉ 2 thành viên tham gia trực tiếp. Bên cạnh đó, GV cũng có thể đánh giá cho điểm những độc giả có những câu hỏi và câu trả lời chính xác, hấp dẫn. 3.3. Biện pháp 4: Kiểm tra miệng bằng hình thức sân khấu hóa một tình tiết trong tác phẩm Ngay trong chương trình Ngữ văn lớp 10 ở chủ đề văn học dân gian, các em đã được thực hành giải pháp sân khấu hóa tác phẩm văn học, vì thế khi áp dụng hình thức này HS khá quen thuộc. Sân khấu hoá tác phẩm văn học là chuyển tác phẩm văn học thành kịch bản và biểu diễn trên sân khấu dưới các hình thức khác nhau. Nói cách khác, tác phẩm văn học được chuyển thể từ câu chuyện trên trang giấy sang hình thức một kịch bản văn học (biên kịch). Tuy nhiên, với dung lượng thời gian cho phép nên GV có thể linh động chọn một số tình tiết tiêu biểu trong tác phẩm để sân khấu hóa chứ không nhất thiết là toàn bộ tác phẩm. Trong quá trình dạy học, khi nhắc đến phương pháp sân khấu hóa tác phẩm, hầu hết tất cả các HS đều tỏ ra thích thú và hướng ứng nhiệt tình. Bởi lẽ, các em phấn khởi khi nhận những nhiệm vụ ở những tư cách “mới” nào là nhà quay phim, biên kịch, diễn viên... Khi trải nghiệm thực tế hoạt động này các em được bồi dưỡng thêm tình yêu và sự ham thích tìm hiểu tác phẩm văn học, cải thiện kết quả học tập… đồng thời góp phần phát triển năng lực sáng tạo, hợp tác, làm việc nhóm, năng lực ngôn ngữ,… Bên cạnh đó, những tình tiết được GV lựa chọn để sân khấu hóa luôn gắn liền theo nội dung quan trọng của văn bản, một lần nữa các em được khắc sâu kiến thức của văn bản. Vì thế, đây cũng là một cách thức tiếp cận tác phẩm văn học rất hiệu quả. Với hình thức kiểm tra miệng bằng hoạt động sân khấu hóa một tình tiết trong tác phẩm có thể được áp dụng ở các văn bản truyện và kịch như: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Hồn Trương Ba da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)...Để thực hiện tốt hoạt động này, cả 19
  20. người dạy lẫn người học cần chú ý. Trước hết, GV cần lựa chọn những tình tiết có tính chất quan trọng trong nội dung bài học, nhằm thực hiện mục đích khắc sâu kiến thức hay mở rộng vận dụng kiến thức. Trong trường hợp đã có sẵn kịch bản văn học thì việc sân khấu hoá tập trung vào yêu cầu lựa chọn cảnh, màn diễn và luyện tập thực hành để biểu diễn trên sân khấu. Việc hướng dẫn cho HS thực hiện hoạt động này cũng cần được GV phổ biến cẩn trọng, vừa đảm bảo nội dung và thời lượng thực hiện. Sản phẩm thu nhận được cần giữ nguyên nội dung và tư tưởng của tác phẩm văn học (quan trọng nhất, vì kịch bản sân khấu không được cải biên tác phẩm thành một sản phẩm khác, xa lạ, không đúng với nội dung chính và tư tưởng của tác phẩm gốc). Tuy nhiên HS có thể sáng tạo nhưng không làm mất đi tinh thần cơ bản của tình tiết đó. Bên cạnh đó, người dạy cũng cần dự định các tình huống dự phòng trước những sản phẩm của HS chưa đáp ứng đúng yêu cầu. Còn về phía HS, khi trải nhiệm sân khấu hóa có thể linh động, diễn trực tiếp hoặc video. Luôn biết phát huy tính sáng tạo trong việc chuyển thể từ ngôn ngữ văn bản viết sang ngôn ngữ sân khấu; từ kịch bản văn học đến đạo diễn, thể hiện kịch bản trên sân khấu thông qua hoạt động biểu diễn của diễn viên. Nhưng đặc biệt chú ý việc sáng tạo tình tiết văn bản luôn dựa trên nội dung của văn bản và sự đổi khác mang tính văn minh tính thẩm mĩ, tính giáo dục và phù hợp với tâm lý lứa tuổi. 3.4. Biện pháp 5: Kiểm tra miệng bằng sản phẩm: video, bài hát, sơ đồ Hiện nay, đánh giá HS qua các sản phẩm học tập không còn quá xa lạ với GV lẫn HS. Đặc biệt, với thời đại công nghệ số, hình thức kiểm tra này lại được thêm phần “ưa chuộng” trong quá trình giáo dục. Trong đó, chúng ta có thể kể đến các sản phẩm quen thuộc như: video, bài hát, tranh ảnh, sơ đồ tư duy, bảng biểu... Đối với hoạt động kiểm tra miệng trong các giờ đọc văn nói riêng và dạy học môn Ngữ văn nói chung các sản phẩm nêu trên được GV lựa chọn áp dụng khá đông đảo. Hiểu một cách đơn giản là HS sẽ hoàn thành các sản phẩm trên dựa theo yêu cầu của GV. Sản phẩm video là sự kết hợp âm thanh, hình ảnh nhằm đề cập đến một khía cạnh của nội dung văn bản. Sản phẩm bài hát là cách thức HS chuyển thể từ lời thơ thành bài hát hay đọc rap. Còn sơ đồ tư duy có khái niệm phức tạp hơn, xây dựng “sơ đồ tư duy hay Mind Map là một kỹ thuật học tập sử dụng phương pháp tiếp cận phi tuyến tính khuyến khích người học suy nghĩ và khám phá các khái niệm bằng cách sử dụng các mối quan hệ không gian và thị giác”. [14] Hiểu đơn giản là HS sẽ sắp xếp nội dung cơ bản của văn bản theo một sơ đồ mang tính khoa học, logic. Mỗi sản phẩm học tập đều đem đến những ý nghĩa riêng cho HS trong quá trình học tập. Khi vận dụng kiểm tra miệng bằng hình thức nạp sản phẩm video, bài hát, sơ đồ tư duy GV đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ HS. Trước hết, các hình thức kiểm tra này tạo được sự hứng thú học tập bài cũ của các em. Như chúng ta đã biết nội dung của các văn bản Ngữ văn 12 có dung lượng rất lớn, đồng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2