Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giúp học sinh có nền tảng lí luận văn học, có năng lực phân tích, để hiểu sâu sắc giá trị tác phẩm văn học nói chung và khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi tự sự nói riêng. Giúp các em có kĩ năng làm bài văn cảm thụ chi tiết, đáp ứng được yêu cầu của kì thi THPT quốc gia theo tinh thần đổi mới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Chi tiết nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm tự sự. Tài năng của nhà văn thường bộc lộ qua việc sử dụng chi tiết. Nhà văn có thể “bịa” ra cốt truyện nhưng chi tiết phải có từ đời sống, ở khả năng ghi nhận, từng trải của bản thân. Những tác phẩm văn xuôi tự sự được đưa vào giảng dạy trong chương trình THPT là những sáng tạo tinh thần độc đáo của người nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm mang sắc thái riêng như một kho báu vừa lộ thiên, vừa bí mật. Nhiệm vụ của người giáo viên là giúp học sinh biết cách mở và khám phá kho báu đó, nhất là phần chìm. “Một tác phẩm được ví như bóng đèn điện thì những chi tiết hay như những sợi dây tóc phát sáng” (Nguyễn Thanh Tú). Phải làm sao để dây tóc nghệ thuật ấy bật sáng. Nhưng bắt đầu từ đâu, như thế nào? thì đòi hỏi sự khéo léo tìm tòi, sáng tạo của người giáo viên. Trước đây, khi đọc hiểu văn bản văn học, chúng ta chỉ tìm hiểu khái quát đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, những lớp trầm tích ý nghĩa và nhiều phương diện nghệ thuật của tác phẩm chưa được phát lộ. Cùng với bước tiến của lý luận, khi phân tích tác phẩm tự sự hiện đại theo đặc trưng thể loại, chúng ta đã đi sâu tìm hiểu nhân vật, tình huống truyện, kết cấu, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ… mà chưa chú ý đúng mức đến chi tiết nghệ thuật. Vì vậy, bài giảng nhiều khi rơi vào khô khan, thiếu sinh động, hấp dẫn. Đối với giáo viên, việc giảng dạy tác phẩm tự sự chưa thực sự có nhiều cải tiến, đổi mới phương pháp. Khi khai thác tác phẩm còn lúng túng, bởi phải chạy đua với lượng thời gian quy định. Mặt khác, theo thói quen của nhiều người, trong tác phẩm tự sự chỉ quan tâm đến cốt truyện, nhân vật, tình huống và những đề kiểm tra của học sinh cũng thường xoay quanh các vấn đề trên, đó cũng là nguyên nhân làm cho bài viết của học sinh trở nên ít mới mẻ và sâu sắc. Trong khi đó các chi tiết trong mỗi tác phẩm 1
- mới thực sự là tế bào, là mạch máu tạo nên sức sống và vẻ đẹp của từng thiên truyện. Vậy làm sao để giáo viên và học sinh cùng khai thác được hết vẻ đẹp của thiên truyện? Từ những trăn trở đó, người viết lựa chọn hướng nghiên cứu vấn đề khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, tác phẩm tự sự trong chương trình phổ thông khá nhiều, lượng chi tiết nghệ thuật khá lớn. Mặt khác hai năm trở lại đây, Bộ GD & ĐT đã định hướng thi THPT Quốc gia tập trung ở lớp 12. Vì vậy, trong phạm vi sáng kiến này, người viết chỉ giới hạn Khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12. 2. Tên sáng kiến: Khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12 3. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Trần Thị Diễm Hằng Địa chỉ: Trường THPT Hai Bà Trưng, P. Hùng Vương, TP Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: diemhanghbt@gmail.com 4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến Tác giả: Trần Thị Diễm HằngTrTrtRẦN ThỊ Diễm Hằngần Thị Diễm Hằng . Chức vụ: Giáo viên trường THPT Hai Bà Trưng. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn ngữ văn THPT(trọng tâm: Ngữ văn 12) Vấn đề mà sáng kiến giải quyết là Khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12 Xác lập các hoạt động, các bước dạy và làm kiểu bài nghị luận về chi tiết trong tác phẩm tự sự. Giúp học sinh có nền tảng lí luận văn học, có năng lực phân tích, để hiểu sâu sắc giá trị tác phẩm văn học nói chung và khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi tự sự nói riêng. 2
- Giúp các em có kĩ năng làm bài văn cảm thụ chi tiết, đáp ứng được yêu cầu của kì thi THPT quốc gia theo tinh thần đổi mới. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử Năm học 2018 2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu 7.1.1. Cơ sở lí luận Xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo: “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa , hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Để thực hiện thắng lợi quan điểm đó, Bộ GD & ĐT đã có nhiều chủ trương, biện pháp, chỉ đạo các Sở, ban, ngành, các nhà trường tích cực, chủ động nghiên cứu, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giảng dạy để: “Mỗi học sinh không phải là cái hũ để chúng ta đổ đầy nước, mà mỗi học sinh là một bó đuốc mà ta phải thắp cho sáng rực”. Dạy văn cũng không nằm ngoài qui luật của việc dạy học nói chung đó. Nó nhất thiết phải đổi mới theo hướng phát huy được tính chủ động, tự giác, sáng tạo, đem lại niềm say mê với môn học của học sinh. Mặt khác, với đặc trưng của bộ môn, tiếp nhận và cảm thụ văn bản văn học là điều vô cùng quan trọng với người học văn cũng như người dạy văn. Bởi lẽ tác phẩm văn chương giống như “tảng băng trôi”, phần nổi thì ít mà phần chìm thì nhiều. Mỗi người học văn như một người thợ mỏ, đào từng lớp quặng ẩn sâu dưới từng vỉa đá cứng và thô nhám để tìm ra “hợp chất Radium” cho riêng mình. Trong đó, việc khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự là một thao tác vô cùng cần thiết. Ai đó đã ví mỗi chi tiết nghệ thuật như một viên gạch nhỏ góp xây nên tòa thành vĩ đại, lộng lẫy của ngôn từ – những tác phẩm văn học. Phân tích, cảm nhận về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự, vì thế, đã trở thành một việc làm cần thiết, thậm chí là một thử thách với nhiều giáo viên và học 3
- sinh. Chính ở đây người viết, người nói có thể chứng minh khả năng phát hiện, cảm thụ văn chương, bộc lộ tư duy sáng tạo. Khi con đường dạy, học văn đang có nguy cơ đứng trước lối mòn, sự khuôn sáo thì việc đào sâu vào những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự là một thoa tác cần thực hiện trong mỗi giờ giảng văn. Ở đó, mỗi khám phá lại giúp ta mở thêm ra thế giới văn chương đa hình muôn sắc. Xuất phát từ sự trăn trở ấy, sáng kiến kinh nghiệm hướng tới giải quyết thực trạng việc học văn thụ động của học sinh hiện nay. Đây là một hướng tiếp nhận tác phẩm xuất phát từ đặc trưng thể loại vì vậy sẽ cung cấp kĩ năng để học sinh tiếp cận nhiều tác phẩm khác cùng thể loại trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông. 7.1.2. Cơ sử thực tiễn Nhà văn M.Gorki từng nói: "Văn học là nhân học". Vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn hứng thú với môn văn. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm, trả các bài kiểm tra của học sinh, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện của tâm lý chán học văn. Vì không có hứng thú học văn nên hầu hết học sinh không đọc trước tác phẩm ở nhà, hoặc chỉ đọc qua loa, dẫn đến việc không nhớ các chi tiết nghệ thuật nên chưa nắm được cái “cốt”, cái “thần” của tác phẩm. Đồng thời, học sinh cũng không biết cách khai thác chi tiết nghệ tuật trong tác phẩm tự sự khi tiếp cận kiểu bài này. Cụ thể, học sinh thường rơi vào cảm nhận chung chung, xa rời văn bản và những chi tiết cụ thể, đặc sắc của tác phẩm. Hay vẫn còn có em thuật lại hoặc tóm tắt tác phẩm, thậm chí có trường hợp hiểu sai lệch ý đồ của nhà văn. Có lẽ nguyên nhân là do học sinh chưa được trang bị đầy đủ kiến thức lí thuyết cơ bản về chi tiết nghệ thuật từ các bài học lí luận văn học. Về phía giáo viên, hầu hết ai cũng thấy thời lượng dành cho tác phẩm tự sự ít, trong khi đó các tác phẩm tự sự thường có dung lượng khá dài, không có 4
- thời gian đọc hết ở trên lớp, không thể nhớ hết chi tiết đặc sắc trong tác phẩm. Mặt khác, trong quá trình phân tích tác phẩm, giáo viên còn phân tích chung chung chưa đi sâu và chi tiết, hoặc chỉ phân tích ý nghĩa của chi tiết, chưa đưa ra trình tự khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Vì vây, khi giáo viên ra đề về khai thác chi tiết trong tác phẩm tự sự, học sinh thường lúng lúng. Về kì thi THPT quốc gia, trong năm học 2018 2019, sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành đề minh họa môn Ngữ văn, chúng ta đều nhận thấy ở phần câu hỏi làm văn (câu 5,0 điểm) đã có sự thay đổi so với những năm trước. Kiến thức đã đi vào chiều sâu khi yêu cầu học sinh khai thác, cảm nhận được vẻ đẹp, ý nghĩa của những chi tiết nghệ thuật đặc sắc từ đó để làm nổi bật những khía cạnh nội dung của tác phẩm. Năm học 20192020, theo thông tin mới nhất của Bộ GD & ĐT chưa có đề minh họa, mà vẫn dựa trên tinh thần đề minh họa và đề thi năm học 20182019. Vì vậy, việc hướng dẫn cho học sinh phát hiện và phân tích các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó không chỉ giúp học sinh tìm được một con đường đi hiệu quả, để khám phá thế giới nghệ thuật phong phú trong tác phẩm mà còn làm tốt bài thi THPT quốc gia đang đến gần. Chọn đề tài khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12 là một hướng đi mới trong nỗ lực đổi mới căn bản và toàn diện theo yêu cầu của hội nghị Trung ương 8 khóa IX và cũng là của nền giáo dục nước nhà. Đồng thời, người thực hiện sáng kiến kinh nghiệm còn muốn hướng tới việc hình thành, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cần thiết trong học văn nói riêng và trong cuộc sống nói chung. Đó là kĩ năng tiếp cận vấn đề trên nền tảng kiến thức lí luận, hình thành thói quen tư duy sáng tạo, tích cực, chủ động trong học tập tạo tiền đề kiến thức để học sinh giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn. Từ đó, hướng học sinh tới những giá trị sâu rộng hơn, phục vụ thiết thực, hữu ích đối với việc hình thành năng lực, phẩm chất người học trong yêu cầu về công dân thời đại mới. 5
- 7.2. Các biện pháp giải quyết vấn đề 7.2.1. Khái niệm chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Chi tiết là một từ ngữ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày. Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội Hà Nội,1988) thì chi tiết là: Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi tiết). Như vậy trong đời sống hàng ngày từ “chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Trong văn học, thì “Chi tiết là những biểu hiện cụ thể, lắm khi nhỏ nhặt, nhưng lại cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng, đồng thời cũng thể hiện sự quan sát và nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Do đó, chi tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn, thú vị vừa bộc lộ ý nghĩa của chúng” (Ngữ văn 11 Nâng cao – Nxb Giáo dục, 2011, tr.197). Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000) thì chi tiết nghệ thuật được hiểu là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”. Ở đây cần phân biệt hai thuật ngữ: Chi tiết thuộc về nghệ thuật và chi tiết có tính nghệ thuật: Chi tiết thuộc về nghệ thuật: Những chi tiết có mặt trong tác phẩm nghệ thuật song chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lý, chẳng hạn như các chi tiết về kinh tế, vật giá trong tiểu thuyết Của Banzac. Chi tiết có tính nghệ thuật: Tính nghệ thuật ở khả năng nói được nhiều điều, ở sức chứa lớn, ở khả năng tác động và khơi gợi ở độc giả những suy ngẫm, những xúc cảm đầy tính nghệ thuật như chiết tiết bát cháo hành trong truyện ngắn “Chí phèo” của Nam Cao, chi tiết nồi chè khoán trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, hay chi tiết tiếng sáo đêm xuân trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài… Chi tiết có tính nghệ thuật thể hiện tập trung cho cấu tứ của tác giả, thường được tác giả nhấn mạnh, tô đậm lại bằng 6
- nhiều biện pháp khác nhau… Hiển nhiên khi đến với tác phẩm tự sự chúng ta dành sự quan tâm đặc biệt cho chi tiết có tính nghệ thuật. Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn. 7.2.2. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự 7.2.2.1. Chi tiết nghệ thuật góp phần tạo dựng và thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện Tác phẩm nghệ thuật là một chỉnh thể thống nhất và chi tiết chính là một yếu tố gần như nhỏ nhất trong các yếu tố cấu thành tác phẩm. Heghen gọi các chi tiết trong tác phẩm là những “con mắt” bởi qua nó, ta không chỉ thấy được thế giới tinh thần, mà còn thấy được “một tâm hồn tự do trong cái vô hạn của nó” ở tác giả. Đối với nhà văn, việc tạo nên cốt truyện là yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo. Làm nên cốt truyện là các sự kiện. Làm nên sự kiện là các chi tiết. Chi tiết nghệ thuật “đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí”. Bằng việc sắp xếp các chi tiết theo trình tự như đã có, các chi tiết giúp nhà văn tạo dựng, triển khai cốt truyện, dẫn dắt câu chuyện từ bắt đầu đến kết thúc mà không có một chỗ nào cong vênh, không một chi tiết rườm rà hay một chi tiết thừa, chi tiết ở vị trí nào sẽ vào vị trí đó không thể thay thế. Giá trị của chi tiết nghệ thuật sẽ luôn luôn tỷ lệ thuận với giá trị tác phẩm. Một truyện ngắn, một tiểu thuyết… càng có nhiều chi tiết đắt càng neo đậu vững chắc trong lòng độc giả. Ví dụ: Trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, để tạo dựng và thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện tác giả đã lựa chọn rất nhiều những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, như chi tiết Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, rồi cùng APhủ trốn khỏi Hồng Ngài. Nếu Mị không chạy theo APhủ chắc chắn Mị 7
- phải chết và như vậy câu chuyện sẽ kết thúc. Điều này đồng nghĩa với ý đồ tư tưởng là ca ngợi công lao trời biển của Đảng mà Tô Hoài muốn gửi gắm vào tác phẩm sẽ không thành. Như vậy chi tiết có vai trò quan trọng cho sự phát triển của cốt truyện. 7.2.2.2. Chi tiết nghệ thuật góp phần xây dựng, khắc họa hình tượng nhân vật Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm tự sự, là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực và “gửi gắm tư tưởng tình cảm, quan niệm của mình về cuộc đời”. Nhân vật là “con đẻ tinh thần của nhà văn”. Hình tượng nhân vật trở nên sinh động, gợi cảm nhờ chi tiết. Heghen xem chi tiết như “những con mắt mở những cửa sổ” để người ta nhìn vào “linh hồn” của tác phẩm – nhân vật. Những đường nét dần hình thành một bức họa, những chi tiết dần dựng dậy sống động một hoặc một vài bức chân dung. “Chi tiết cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng. Do đó chi tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn, thú vị, vừa bộc lộ ý nghĩa.” Nhờ các chi tiết mà hình tượng nhân vật hiện lên cụ thể, rõ nét như những con người thật ngoài đời từ ngoại hình, dáng vẻ đến số phận, tính cách, tâm hồn. Có chi tiết diễn tả một nỗi đau tinh thần rõ nét như hình ảnh “một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt” (“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu). Có chi tiết gợi lên số phận đầy bất hạnh, cuộc sống tối tăm, khổ cực, sống mà như đã chết “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, chỉ có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” (“Vợ chồng A Phủ” Tô Hoài)… Đọc truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, người đọc đặc biệt ấn tượng về nhân vật người “Vợ nhặt” mà tác giả dồn bao nhiêu tinh hoa và tinh huyết để xây dựng nên. Thị là nạn nhân khốn khổ nhất của nạn đói. Thân phận bất 8
- hạnh đó được gợi lên từ một loạt các chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Chi tiết về tên gọi, người đàn bà này thậm chí cái tên riêng cũng không có, nhà văn gọi thị là “thị” hoặc “người đàn bà”. Không phải nhà văn không thể đặt cho nhân vật một cái tên, mà dụng ý rằng: đằng sau cuộc đời của chị còn thấp thoáng bóng dáng của bao người phụ nữ khốn cùng khác. Thương cảm hơn cả là chi tiết về ngoại hình. Cái đói đã tàn phá dung nhan của thị, có mấy ngày không gặp mà Tràng thấy thị gầy guộc “trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ có hai con mắt”, xấu xí, rách rưới “quần áo tả tơi như tổ đỉa”. Nạn đói giống như một cơn lũ lớn đã cuốn phăng đi tất cả, không chỉ đe dọa, cướp đi cuộc sống về mặt sinh học, mà nó còn làm cho tính cách của thị cũng thay đổi. Cái nữ tính, tính người, nhân phẩm của thị có nguy cơ bị mai một. Biết bao trăn trở, xót xa của nhà văn được dồn tụ trong những chi tiết miêu tả về lời nói và hành động của thị lúc này. Thị trở nên trơ tráo ăn nói “chao chát, chỏng lỏn”, mất hết ý tứ và lòng tự trọng. Tiếng nói khẩn thiết nhất của cô vợ nhặt lúc này là phải duy trì được sự sống. Cô như người sắp chết đuối đang nguy khốn giữa dòng nước xoáy khủng khiếp, cô đang cố gắng túm lấy bất cứ cái gì có thể bấu víu để tồn tại. Câu hò trở thành cái cớ để thị bám vào Tràng. Rồi “thị cong cớn … Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. “Thị” không còn biêt xấu hổ khi trách móc một người không quen biết : “Thị sầm sập chạy đến … sưng sỉa nói … Điêu … Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mắt mặt”. Rồi Thị còn trắng trợn “gạ ăn”: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Khi Tràng tỏ ra ga lăng “đấy muốn ăn gì thì ăn”, thì lập tức “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên… Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã làm cho con người trở nên thảm hại, đáng thương và cũng đáng được cảm thông và cha sẻ. Những điều đáng quý đã làm nên chất thơ cho hiện thực cay đắng này đó là, sau khi nguy cơ chết đói đã qua, cô gái đã trở lại với con người thật của mình, và nữ tính cũng hồi sinh, cô chợt e lệ và xấu hổ. Chi tiết cô ăn xong thị “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: hà, ngon !” là chi tiết thể hiện nữ 9
- tính của người vợ nhặt. Đó là cách cô gái đánh trống lảng về ngượng và che giấu sự xấu hổ bên trong. Đặc biệt trên đường về nhà chồng người vợ đã thay đổi hẳn, trở thành một cô dâu rất đáng yêu, không còn chao chát, chỏng lỏn nữa. Điều đó được thể hiện rõ nét qua những chi tiết về dáng vẻ, lời nói của thị: vì xấu hổ nên nói chuyện trống không với chồng, bước chân “rón rén”, “e thẹn”, “ngượng nghịu, chân nọ bước díu và cả chân kia”, “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”, đúng là dáng vẻ của một cô dâu đầy nữ tính. Tấm lòng nhân đạo của Kim Lân thể hiện qua cách ông đã miêu tả rất tỉ mỉ, chi tiết dáng vẻ của người đàn bà trên đường về nhà chồng, từ dáng đi e thẹn cho đến nỗi hờn tủi cho thân phận mình. Khi về đến nhà, thị “ngượng nghịu” , “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa,. Người đàn bà đã thực sự trở thành một người vợ “hiền hậu đúng mực” đảm đang, tảo tần, chịu khó. “Thị” đã đem đến cho ngôi nhà của Tràng một sinh khí mới, một nhịp sống mới. Trong bữa cơm đầu tiên, thị đã “điềm nhiên và vào miệng càm đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Đây là chi tiết thể hiện sự ý tứ và thái độ đồng cảm, chia sẻ với gia đình nhà chồng của người vợ nhặt. Thông qua một loạt các chi tiết biết nói, nhà văn muốn nhắn gửi tới chúng ta một điều : Hóa ra chính cái đói đã đẻ ra sự liều lĩnh, táo bạo, thô thiển, trắng trợn, nhưng nó không thể làm mất đi bản chất hiền hậu, tốt đẹp trong tâm hồn con người. Nạn đói đã làm mất đi phần nào tư cách ấy, biến dạng một phần tâm hồn cô, nhưng cuối cùng cô vẫn vươn lên giữ vững tư cách con người. Dù bị đẩy đến đường cùng, “thị” vẫn khao khát được sống, khao khát hạnh phúc. Hành động theo Tràng về làm vợ của người đàn bà, chứng tỏ “thị” luôn tìm mọi cách để vượt lên cái đói, tìm đến sự sống, kể cả phải hành động liều lĩnh. Nhà Văn đã mở ra con đường sống cho những kiếp đời khổ cực. Nhân vật vợ Tràng để thể hiện niềm tin bền vững của Kim Lân vào bản chất tốt đẹp của người lao động. 10
- Như vậy, chi tiết nghệ thuật không bao giờ đứng ngoài, đứng độc lập với tính cách, tâm hồn của nhân vật. Nhân vật này phân biệt với nhân vật khác cũng là bởi những chi tiết. Khi phân tích một nhân vật, chúng ta phải tuân thủ tính hệ thống của các chi tiết nghệ thuật làm nên hình tượng đó. Nhưng mặt khác, giáo viên cũng cần định hướng cho học sinh phát hiện và xoáy sâu vào những chi tiết độc đáo, là điểm sáng mà nhà văn đã dụng công khi xây dựng hình tượng. Có thể khẳng định không thể có nhân vật nếu không có những chi tiết nghệ thuật. Mặt khác, lựa chọn những chi tiết đắt giá sẽ quyết định thành công của tác phẩm, bởi chúng được chưng cất lên từ tấm lòng và tài năng của người cầm bút. 7.2.2.3. Chi tiết nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm Chủ đề tư tưởng, những thông điệp trong tác phẩm thường là khoảng trống, điểm trắng mà nhà văn để chi tiết nghệ thuật tự nói. Chi tiết là điểm sáng nhất trong tác phẩm tự sự, nó giúp nhà văn thể hiện ý đồ nghệ thuật mà mình muốn biểu đạt. Chi tiết cũng là là cơ sở để từ đó độc giả tiếp nhận, giải mã được thế giới nghệ thuật, ý đồ sáng tạo của tác giả. Nhà văn muốn tạo được sức sống cho tác phẩm của mình phải chọn chi tiết cô đọng, ngắn gọn nhưng lại chứa đựng tầng sâu khôn cùng mà dường như khơi mãi cũng không hết ý nghĩa. Qua chi tiết chúng ta lắng nghe được điều nhà văn nhắn nhủ… Lẽ đương nhiên chi tiết trong một tác phẩm dù phong phú, đa dạng đến mấy đi chăng nữa cũng phải tập trung làm sáng lên chủ đề tư tưởng. Chi tiết dù hay đến cỡ nào đi chăng nữa mà không phục vụ chủ đề cũng trở nên vô ích. Bởi nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh “ở truyện ngắn, mỗi chi tiết có vị trí quan trọng như một chữ trong bài thơ tứ tuyệt, trong đó có những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, chi tiết anh cu Tràng mua hai 11
- hào dầu cũng là chi tiết chứa đầy sức nặng. Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì không có gì đáng nói, nhưng trong thời buổi đói khát, người chết như ngả rạ, một bữa ăn no chỉ tính bằng xu, mà anh dám bỏ hai hào để mua dầu, đủ để thấy sự thấu hiểu, trân trọng của Kim Lân với những người dân nghèo lớn đến chừng nào. Hay chi tiết bát bánh đúc cũng là một chi tiết đặc sắc qua đó người đọc thấy được số phận thảm thương, tội nghiệp của người được ăn thị và vẻ đẹp của tình người hào hiệp ở người cho ăn Tràng. Chi tiết nhỏ nhưng lại có vai trò lớn để soi sáng chủ đề của tác phẩm: phản ánh số phận của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời còn làm sáng lên vẻ đẹp trong tâm hồn của người lao động trước Cách mạng. Kết thúc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu là chi tiết về tấm ảnh của nghệ sĩ Phùng được chọn trong bộ lịch năm ấy. Đó là một bức ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, Phùng vẫn thấy hiện lên cái “màu hồng hồng của ánh sương mai”, nhìn lâu hơn là hình ảnh “người đàn bà đang bước ra khỏi tấm ảnh với những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”… Không khó khăn mấy, người đọc cũng nhận thấy ở đây dường như có hai bức ảnh trong một khuân hình. Một bức ảnh thuần nghệ thuật dành cho những nhà sành nghệ thuật: Một bức ảnh mang vẻ đẹp toàn mĩ, vốn là một cảnh đắt trời cho, kết tinh công phu và sự may mắn của người nghệ sĩ sau hàng tuần mai phục, Phùng đã chộp được. Đằng sau bức ảnh nghệ thuật đó là một bức ảnh cuộc sống hiện thực trần trụi, lam lũ mà trung tâm là hình ảnh người đàn bà vùng biển cao lớn với dáng người thô kệch…bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông. Một hình ảnh không còn thơ nữa mà rất đời. Nhưng không phải ai cũng nhìn thấy. Phải nhìn bằng trải nghiệm, không chỉ nhìn mà còn phải sống trong cuộc đời, đau đáu nỗi đau của người đàn bà hàng chài, lắng nghe câu chuyện của chị như nghệ sĩ Phùng. Dùng nghệ thuật tương phản kết hợp với một chút phi lí(bức ảnh 12
- đen trắng lại nhìn ra màu hồng) Nguyễn Minh Châu đã truyền tải nhiều thông điệp thể hiện chủ đề của tác phẩm mà nhà văn muốn gửi tới người đọc. Thứ nhất: Nghệ thuật phải cất lên từ cuộc sống nhưng giữa cái đẹp của nghệ thuật và cuộc sống luôn có khoảng cách. Đôi khi đằng sau cái đẹp mơ màng và tư tưởng như hoàn bích kia lại chứa đựng trong đó những hiện thực cuộc sống còn đầy khiếm khuyết, nhức nhối. Không cẩn thận cái đẹp thuần túy nghệ thuật lại trở thành cái đẹp giả dối…Thứ hai, cần phải nhìn thẳng vào cuộc đời dù nó không thơ mộng như chúng ta nghĩ. Thứ ba, cần kéo khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống, muốn phản ánh trung thực cuộc sống người nghệ sĩ phải đi đến cuộc đời, cúi xuống thật gần những số phận cá nhân vốn nhiều bi kịch, lắng nghe câu chuyện của họ… Như vậy, chính những chi tiết nghệ thuật có dung lượng lớn về ý nghĩa đã tạo cho tác phẩm “những điều chưa nói hết”. Cái tài của người viết truyện ngắn là phải tạo được những chi tiết đắt giá để kí thác những tâm niệm của mình đối với cuộc đời và con người. Đó đều là những chi tiết có sức chứa lớn về nội dung, tư tưởng của tác phẩm. 7.2.2.4. Chi tiết nghệ thuật góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà văn. Chi tiết được tạo thành phải qua quá trình thai nghén của nhà văn. Để làm nên một chi tiết nhỏ đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm xúc và tài năng nghệ thuật chân chính. Thực tế đã chứng minh những bậc thầy về truyện ngắn bao giờ cũng là những bậc thầy về chi tiết và nói như Macxim Gorki “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Nhà văn có khả năng tạo ra những chi tiết nhỏ có giá trị góp phần đắc lực trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Do vậy, để tạo nên những chi tiết đắc địa đòi hỏi nhà văn phải có đủ ba yếu tố: tài, tâm và tầm. Một chi tiết hay không phải chỉ hay ở xác chữ mà là cái “đẹp” trong hồn văn. Đó phải là sự trăn trở không ngừng của nhà văn trước cuộc đời, là tư tưởng, tình cảm của tác giả, là vốn sống, vốn văn hóa… Có thể thấy, chi tiết nghệ thuật không chỉ thể hiện tư tưởng mà còn in 13
- dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn, khẳng định tầm nhìn của mình. Xây dựng chi tiết nghệ thuật không phải là điều dễ dàng, để chi tiết tồn tại theo thời gian còn là điều rất khó. Bởi mỗi chi tiết nghệ thuật là một sáng tạo riêng của nhà văn nhưng đồng thời cũng kết tinh từ những gì thu lượm được trong đời sống sâu và rộng của người viết. Như giọt nước kết tinh cái mặn mòi của biển, chi tiết đồng thời cho thấy vốn sống của người cầm bút: liệu anh đã thực sự sống hết mình, sống sâu sắc “mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”? Do đó, nhà văn chắc chăn phải dụng công, dụng tâm lắm nhà văn mới làm nên một đứa con tinh thần trường cửu với thời gian. Rõ ràng, chi tiết nghệ thuật không chỉ thể hiện tư tưởng của tác phẩm mà còn góp phần làm nên phong cách nhà văn, in đậm dấu ấn tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Xây dựng chi tiết nhỏ không phải là điều dễ dàng, để chi tiết tồn tại theo thời gian còn là điều rất khó. Chi tiết nhỏ nhưng làm nên nhà văn lớn là vì thế. Khi nghiên cứu chi tiết người đọc sẽ hiểu đúng và hay hơn về tác phẩm, đồng thời nhận ra phong cách nghệ thuật, thấy được tài năng của nhà văn: tài quan sát, tưởng tượng, hư cấu, tài sáng tạo hình ảnh, tài miêu tả, kiến tạo câu văn… Tóm lại, chi tiết nghệ thuật làm nên sự sống cho tác phẩm. Đối với chủ thể sáng tạo chi tiết nghệ thuật giúp nhà văn nói điều muốn nói, bộc lộ những tình cảm ấp ủ trong lòng… Chi tiết nghệ thuật ghi nhận sáng tạo của người cầm bút. Còn đối với chủ thể tiếp nhận chi tiết nghệ thuật giúp soi đường chỉ lối… 7.2.3. Phát hiện và khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự 7.2.3.1. Các bước phát hiện các chi tiết nghệ thuật Bước 1: Đọc kĩ văn bản để nắm cốt truyện, ý đồ sáng tạo của nhà văn cùng với tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Bước 2: Phát hiện những chi tiết nghệ thuật quan trọng có vai trò: thúc đẩy cốt truyện; thể hiện phẩm chất, số phận của nhân vật; thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm…. Mỗi nhà văn đều có cách xây dựng chi tiết 14
- trong tác phẩm tự sự của mình khác nhau, song có thể nhận thấy một vài biểu hiện cơ bản thường được sử dụng trong tác phẩm, như sau: + Tần số xuất hiện nhiều lần, liên tục hoặc ngắt quãng: ví dụ như chi tiết “tiếng sáo” trong đêm tình mùa xuân (“Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài), chi tiết “cuốn sổ gia đình” (“Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi)… + Lặp đi lặp lại ở những vị trí đặc biệt, đáng chú ý (mở, kết): rừng xà nu bị tàn phá song vẫn sinh sôi nảy nở ở phần mở đầu và kết thúc truyện “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành)… + Xuất hiện trong những thời điểm, thời gian đặc biệt trong cuộc đời của nhân vật hoặc trong diễn biến cốt truyện. Như chi tiết “Mị cắt dây trói cứu A Phủ” (“Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài), hay chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm trong buổi sáng trước hôm đi tòng quân, sau khi đã làm cơm cúng má (“Những đứa con trong gia đình”– Nguyễn Thi)… Loại chi tiết này xuất hiện nhiều trong các tác phẩm tự sự. + Có thể không xuất hiện nhiều lần, nhưng có mối liên hệ gắn kết với nhân vật trong nhiều thời điểm khác nhau trong cuộc đời của nhân vật, như chi tiết bàn tay Tnú trong “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành), chi tiết “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ (“Vợ chồng A Phủ” Tô Hoài)… + Có những chi tiết nhỏ, nhiều khi không mang những dấu hiệu cụ thể trên, song vẫn có thể là những chi tiết nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng, tuy không dễ nhận biết, nhưng cần được phát hiện nhờ sự nhạy cảm, tinh tế của từng người đọc. Ví dụ lời nói của bà cụ Tứ: “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” khi đón nàng dâu mới trong “Vợ nhặt” (Kim Lân), hay lời độc thoại trong tâm tưởng của Việt khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm: “…chừng nào độc lập chúng con lại đưa má về” (“Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi)… 7.2.3.2. Khai thác chi tiết trong tác phẩm tự sự 15
- Khi khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự giáo viên cần lưu ý học sinh tìm hiểu theo các bước sau : Bước 1: Tìm hiểu từ ngữ : Có những từ khó đã có chú thích, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho HS nhắc lại. Khai thác nghĩa tường minh (nghĩa đen), nghĩa hàm ẩn (nghĩa bóng). Đồng thời ta cần khai thác thủ pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng. Ví dụ: Khi khai thác chi tiết cây xà nu (“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành) ở đầu tác phẩm, trước hết chúng ta hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa tả thực. Cây xà nu là một cây họ thông, lá xanh ngắt, nhựa thơm mọc rất nhiều ở Tây Nguyên. Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa tả thực, giáo viên đi sâu vào khai thác các chi tiết để làm nổi bật nghĩa tượng trưng. Nguyễn Trung Thành rất tài tình khi sử dụng thủ pháp nhân hóa trong suốt trang văn để đặc tả cây xà nu. Đó là các chi tiết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương”, “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn” đã thể hiện sự cùng chung gian khổ, cùng chung số phận với con người Tây Nguyên bất khuất. Những chi tiết “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy ”, “Cũng có ít loài cây ham ánh sáng mặt trời đến thế” đã tượng trưng cho niềm khao khát tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chống Mỹ xâm lược. Chi tiết “Có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã” đã thể hiện sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động huỷ diệt của kẻ thù, cũng đồng thời là biểu trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến một, mất một còn với bè lũ cướp nước và bán nước. 16
- Bước 2: Tìm hiểu mối liên hệ về ý nghĩa của chi tiết với chủ đề của tác phẩm: Ví dụ: Chi tiết lá cờ đỏ bay phấp phới trong đầu Tràng ở cuối truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân) gắn với ý nghĩa sự chiến thắng của ánh sáng bóng tối, của sự sống cái chết. Nó là biểu tượng của cách mạng, của con đường tương lai tươi sáng mà nhà văn bằng tấm lòng nhân đạo cao cả đã soi đường chỉ lối cho nhân vật của mình. Những con người như bà cụ Tứ, đặc biệt là đôi vợ chồng trẻ với tình yêu thương đùm bọc, với sức sống mãnh liệt và niềm tin vào ngày mai tốt đẹp sẽ rất dễ dàng bắt gặp ánh sáng cách mạng của Đảng. Với ý nghĩa đó, “Vợ nhặt” có thể coi là bài ca ca ngợi sự sống, đã thể hiện niềm tin bất diệt của Kim Lân vào con người, đặc biệt là người lao động. Bước 3: Mở rộng ý nghĩa của chi tiết trong tương quan với chi tiết khác: Chi tiết về giọt nước mắt và nụ cười của người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, mặc dù bị chồng đánh dã man chị không hề chạy trốn, kêu van, khóc lóc, nhưng khi đứa con chứng kiến được toàn bộ tấn bi kịch gia đình, chị đã không cầm nổi những giọt nước mắt đau đớn. Bên cạnh chi tiết buồn về thân phận của người đàn bà, trong cả thiên truyện chỉ duy nhất một lần nhà văn miêu tả nụ cười của chị: “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười” khi chị kể về những giây phút vợ chồng con cái được hòa thuận vui vẻ, là “lúc ngồi nhìn đàn con… được ăn no”. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc rất đời thường, bình dị mà đáng thương, đáng trân trọng. Chị đã phải đánh đổi hạnh phúc ấy bằng bao nỗi đau khổ. Sự yên lành no ấm của đàn con chính là mục đích sống, là nguồn sống của chị – người đàn bà luôn sống cho con. Đó chính là sức mạnh tinh thần kì diệu đã giúp chị vượt qua bao đắng cay của cuộc đời, để giữ lửa cho gia đình bé nhỏ của mình. Trong con người chị, có sự kết tinh vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam 17
- với trái tim chứa chan tình cảm vị tha, thánh thiện, lấy niềm vui, hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính mình. Chỉ có tác giả là người thấu hiểu, người đàn bà làng chài mới là vẻ đẹp đích thực của “Chiếc thuyền ngoài xa”, đẹp trong đau khổ, nhọc nhằn và nhục nhằn – một vẻ đẹp hình như chưa từng thấy trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Bước 4: Tìm hiểu chi tiết xuất hiện trong những hoàn cảnh khác nhau để thấy được sự chuyển biến, thay đổi trong tính cách của nhân vật: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân hai lần miêu tả cung cách ăn uống của người vợ nhặt. Chiều hôm trước, khi được Tràng đồng ý đãi bánh đúc ở ngoài chợ: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” và sáng hôm sau, khi nhận bát “chè khoán” từ mẹ chồng: “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.” Như vậy, từ chỗ thô thiển, trơ trẽn, khao khát được sống, được tồn tại nên thị đã bất chấp tất cả. Chính cái đói đã che lấp phần tốt đẹp vốn có của “thị”. Để rồi, khi được Tràng và bà cụ Tứ cưu mang, người vợ nhặt đã thay đổi về tâm lý, suy nghĩ tích cực, có cái nhìn và ứng xử nhân văn hướng đến cuộc sống tốt đẹp. Qua hai chi tiết, Kim Lân đã bộc lộ sự đồng cảm sâu sắc với số phận và vẻ đẹp của tình người trong nạn đói. Chi tiết nghệ thuật không tách rời các yếu tố nghệ thuật khác, vì vậy khi tìm hiểu chi tiết, vẫn cần phải đặt chi tiết trong chỉnh thể, trong sự liên kết cả về mặt nội dung và hình thức với các yếu tố đó. Dựa vào nội dung diễn biến của sự việc, hành động trong chi tiết, dựa vào cách miêu tả, khắc họa, ngôn ngữ tái hiện của tác giả, tìm ra ý nghĩa của chi tiết, đặt trong mối liên hệ với các yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với chi tiết. Chú ý không chỉ phát hiện ý nghĩa của chi tiết về mặt nội dung mà còn cả về mặt nghệ thuật của nó trong việc thể hiện nhân vật, tư tưởng, chủ đề… của tác phẩm. Trên đây là những bước cơ bản khi khai thác chi tiết trong văn xuôi tự sự. Song thực tế giảng dạy không nên câu nệ theo đầy đủ các các bước, thao 18
- tác trên vì nó còn phụ thuộc vào thời gian cho một bài giảng, phụ thuộc vào mức độ đậm nhạt trong từng chi tiết. Phải biến phương pháp thành sự thuần thục nghề nghiệp. Trước một tác phẩm nên chọn chi tiết nào để khai thác có hiệu quả. 7.2.4. Cách làm các dạng đề thi về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự Ngữ văn 12 7.2.4.1. Dạng đề cảm nhận về chi tiết nghệ thuật trong một tác phẩm tự sự, từ đó nhận xét về một vấn đề nào đó. a) Phương pháp làm bài Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm. Giới thiệu chi tiết nghệ thuật đặc sắc cần phân tích. Từ đó nêu nhận xét theo yêu cầu của đề. Thân bài: * Khái quát về chi tiết và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự. * Phân tích ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết và vị trí của chi tiết trong tác phẩm. Đặc điểm và tần số xuất hiện của chi tiết. Ý nghĩa của chi tiết. + Về nội dung: . Thể hiện số phận, tính cách, phẩm chất nhân vật, thể hiện chủ đề, tư tưởng của nhà văn. . Giá trị tư tưởng: giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm + Về nghệ thuật: ngôn ngữ, giọng điệu khi kể về chi tiết, chi tiết góp phần thúc đẩy cốt truyện, thể hiện tính cách nhân vật và tiếng nói nghệ thuật độc đáo của nhà văn… Đánh giá chung về vai trò, ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật. * Nhận xét: theo yêu cầu của từng đề cụ thể 19
- Kết bài: Khẳng định vai trò của chi tiết trong tác phẩm. Khẳng định sức sống của chi tiết nghệ thuật. b. Đề minh họa Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ Văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018), giữa đêm mùa đông, nhân vật Mị đã nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Hãy phân tích ý nghĩa hình ảnh dòng nước mắt trên của A Phủ. Từ đó nhận xét về tư tưởng của nhà văn. Hướng dẫn làm bài: Mở bài: Giới thiệu tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” Giới thiệu chi tiết nghệ thuật “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Từ đó nhận xét, tư tưởng của Tô Hoài được thể hiện rõ nét trong chi tiết này. Thân bài: * Khái quát về chi tiết và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự. Chi tiết là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Chi tiết có vai trò vô cùng quan trọng trong tác phẩm tự sự, đặc biệt góp phần xây dựng, khắc họa hình tượng nhân vật. * Phân tích ý nghĩa của chi tiết dòng nước mắt của A Phủ Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết dòng nước mắt của A Phủ: + Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài, còn Mị sau bao năm bị đọa đày cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác hình ảnh trực quan vận dụng vào giảng dạy tiết 3 - Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội - GDCD 12 THPT
23 p | 278 | 55
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác một số bài toán về mạch điện xoay chiều có R,L,C mắc nối tiếp vào dạy học
19 p | 149 | 33
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp nghệ thuật so sánh trong ca dao ở chương trình THPT
47 p | 127 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Soạn dạy bài Clo hóa học 10 ban cơ bản theo hướng phát triển năng lực học sinh
23 p | 55 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sáng tạo các bài toán mới từ khái niệm và bài tập cơ bản
20 p | 118 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác bất đẳng thức Cauchy bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 10
32 p | 36 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại và cách giải bài toán tìm giới hạn hàm số trong chương trình Toán lớp 11 THPT
27 p | 53 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa
37 p | 53 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác ứng dụng một số tính chất hình học để giải quyết các bài toán tọa độ trong phẳng
50 p | 36 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác kênh hình sách giáo khoa Sinh học 12, biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan phục vụ ôn thi trung học phổ thông (THPT) quốc gia
17 p | 43 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác hai tính chất của hàm số trong chứng minh bất đẳng thức
30 p | 33 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm triển khai dạy bộ môn Yoga tại TTGDTXHN - Nghệ An
37 p | 19 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác phần mềm Wondershare QuizCreator và Google site giúp học sinh rèn luyện bài thi trắc nghiệm môn Toán
15 p | 54 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác thế mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin nhằm phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh
24 p | 35 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng đồ dùng dạy học tự làm để giảng dạy bộ môn GDQP-AN ở trường THPT
36 p | 41 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn