Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác kênh hình để tạo hứng thú học tập môn Lịch sử ở học sinh - phần Lịch sử thế giới cận đại lớp 10 (Ban Cơ bản)
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là việc khai thác kênh hình trong giảng dạy Lịch sử sẽ có vai trò rất lớn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, để học sinh tìm tòi suy nghĩ để đưa ra nhận định về một vấn đề lịch sử. Và khi tăng “kênh hình” thì tất nhiên sẽ giảm bớt “kênh chữ”, học sinh sẽ thấy học Lịch sử không chỉ là ghi chép, “nhồi nhét” các sự kiện như ý kiến của một số người từ đó học sinh sẽ có hứng thú học tập và sẽ góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác kênh hình để tạo hứng thú học tập môn Lịch sử ở học sinh - phần Lịch sử thế giới cận đại lớp 10 (Ban Cơ bản)
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT THPT: Trung học Phổ thông THPTQG: Trung học Phổ thông Quốc gia NXB: Nhà xuất bản GDPT: Giáo dục Phổ thông
- MỤC LỤC
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu 1.1. Cơ sở lí luận Lịch sử là gì? Lịch sử là một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Theo giải thích đơn giản, lịch sử là những gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Với ý này, lịch sử bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính xác và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử được rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra. Tiến sĩ Sue Peabody (nhà sử học và giáo sư lịch sử Meyer tại Đại học bang Washington Vancouver) định nghĩa như sau: Lịch sử là một câu chuyện chúng ta nói chúng ta là ai… Hứng thú học tập là gì? Hứng thú là một thuộc tính tâm lí nhân cách của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M. Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo. Vai trò của môn Lịch sử: "Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau" (Cervantes tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà soạn kịch người Tây Ban Nha). Tôi đã từng đọc câu danh ngôn sau của Cicero người La Mã về môn Lịch sử như sau: “Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân”. Vậy môn Lịch sử có vai trò rất lớn trong việc giáo dục, giáo dưỡng học sinh, nó có vai trò rất lớn trong việc nuôi dưỡng tâm hồn của các em nhất là 5
- trong thời kì đất nước Việt Nam ta đang hội nhập với thế giới mỗi công dân, mỗi chủ nhân tương lai của đất nước cần hiểu rõ về cội nguồn dân tộc, hiểu biết về lịch sử nhân loại, có tinh thần dân tộc để vững bước vào tương lai, để hội nhập mà không bị “hoà tan”… Như vậy, việc dạy và học môn Lịch sử có vai trò rất quan trọng và thường xuyên phải đổi mới đặc biệt là khi chương trình giáo dục phổ thông mới sắp được triển khai. Chương trình giáo dục phổ thông mới chính thức được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố ngày 27/12/2018. Theo đó, nội dung giáo dục cấp THPT gồm 7 môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc (Ngữ văn; Toán; Ngoại ngữ 1; Giáo dục thể chất; Giáo dục quốc phòng và an ninh; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; Nội dung giáo dục của địa phương); 2 môn học tự chọn (Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2); 5 môn học lựa chọn từ 3 nhóm môn học (mỗi nhóm chọn ít nhất 1 môn học): Nhóm môn khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục kinh tế và pháp luật); Nhóm môn khoa học tự nhiên (Vật lí, Hoá học, Sinh học); Nhóm môn công nghệ và nghệ thuật (Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật). Chương trình GDPT mới đã đáp ứng nhiệm vụ nêu tại Nghị quyết số 29NQ/TW là "Xây dựng và chuẩn hóa nội dung GDPT theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn". Thực hiện mục tiêu "Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn", đối với mỗi môn học, việc lựa chọn, sắp xếp nội dung giáo dục bảo đảm sự tinh giản, gắn với thực tiễn, tạo thuận lợi cho việc thực thi các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Theo đó, chương trình giáo dục phổ thông mới có một số điểm kế thừa và nhiều điểm khác so với chương trình giáo dục hiện hành. Theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thông mới thì các môn học đều cần đổi mới, đổi mới trong chương trình, cách dạy, cách học… 6
- Như vậy, đổi mới trong giáo dục hiện nay là vấn đề đang được ngành giáo dục tiến hành và được coi là nhiệm vụ cấp thiết cho tất cả các môn học, điều này còn nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Tại kì họp Quốc hội khóa X năm 2000, đã thông qua nghị quyết số 40/2000/QH10 về vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông. Tiếp đó, ngày 11/6/2001 Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 14/2001/CT TTg về đổi mới giáo dục phổ thông nhằm thay đổi cách dạy và học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh. Nằm trong quĩ đạo đó, môn Lịch sử cũng không ngoại lệ. Việc dạy và học Lịch sử hiện nay rất cần phải đổi mới và theo tôi cần thực hiện ở nhiều khâu như: Nội dung chương trình, sách giáo khoa, cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh… Vậy thì đổi mới trong cách dạy Lịch sử như thế nào? Chúng ta đều biết rằng Lịch sử là môn học nghiên cứu về quá khứ vì vậy chúng ta hiện nay không thể trực tiếp nhìn thấy lịch sử hay chạm tay vào lịch sử, không thể làm thí nghiệm lịch sử trong phòng thí nghiệm… Vì vậy việc xây dựng hình ảnh, tạo biểu tượng lịch sử là rất cần thiết trong quá trình giảng dạy lịch sử để học sinh có thể tiếp thu bài nhanh, hiểu sâu sắc vấn đề thông qua việc phân tích, đánh giá một vấn đề lịch sử. Vậy để tạo được biểu tượng lịch sử cho học sinh, giáo viên cần phải sử dụng kênh hình (bản đồ, tranh ảnh) và phim tư liệu trong quá trình giảng dạy Lịch sử kết hợp với việc đặt các câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề để học sinh dễ học, dễ nhớ, hiểu bài sâu sắc từ đó học sinh sẽ có hứng thú học tập. 1.2. Cơ sở thực tiễn Thực tế đang cho thấy rằng, học sinh phổ thông ngày càng xa dời môn Lịch sử. Điều này được thể hiện rõ khi trong tháng 3/2014, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông: Sẽ thi 4 môn, trong đó môn Ngữ văn và môn Toán là bắt buộc, còn 2 môn còn lại là học sinh tự chọn. Thì đại đa số ở các trường có học sinh thi tốt nghiệp lớp 12 tỉ lệ chọn môn Lịch sử là rất ít hoặc không có học sinh nào chọn Lịch sử làm môn thi tốt nghiệp. 7
- Và kết quả thi THPT quốc gia năm 2015 môn Lịch sử cũng đáng báo động khi mà trong 3 môn thi tự luận khối C, Lịch Sử là môn thi có số lượng nhiều nhiều điểm 0 nhất (442). Đặc biệt từ kì thi THPT Quốc gia năm 2017 đã có thay đổi, môn Lịch sử đã trở thành môn thi bắt buộc trong tổ hợp các môn Khoa học Xã hội (Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân) nếu học sinh chọn thi nhóm các môn Khoa học Xã hội. Thế nhưng từ khi triển khai hình thức thi mới này, kết quả thi THPT Quốc gia môn Lịch sử vẫn đáng “báo động”, chúng ta có thể theo dõi phổ điểm THPTQG môn Lịch sử của ba kì thi THPTQG gần đây để thấy rõ hơn: Phổ điểm thi môn Lịch sử kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 Năm 2017, số thí sinh có điểm dưới trung bình là 315.957 thí sinh – chiếm 61,9%. Số thí sinh có điểm liệt (
- Phổ điểm thi môn Lịch sử kỳ thi THPT quốc gia năm 2018 (Link:https://vietnamnet.vn/vn/giaoduc/tuyensinh/hon70thisinhcodiem duoitrungbinhmonlichsukythithptquocgianam201949910.html#inner article) Năm 2018, điểm trung bình toàn quốc của môn Lịch sử là 3,79; thấp hơn hẳn so với mức điểm của năm 2017 là 4,6. Cụ thể, trong năm 2018, số thí sinh có điểm dưới trung bình là 468.628 thí sinh – chiếm 83,24%. Số thí sinh có điểm liệt (
- Phổ điểm thi môn Lịch sử kỳ thi THPT quốc gia năm 2019 (Nguồn:https://thanhnien.vn/giaoduc/70baithimonlichsucodiemduoi trungbinh103129.html) Trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2019, có gần 570.000 thí sinh dự thi môn Lịch sử. Theo thông tin VietNamNet có được, điểm trung bình của môn Lịch sử năm nay là 4,30 điểm. Số thí sinh có điểm dưới trung bình là 399.016 – chiếm 70,01%. Số thí sinh có điểm liệt (
- mình đầu tư và chú ý đến học các môn khoa học xã hội mà chú trọng học các môn khoa học tự nhiên vì suy nghĩ rằng để thi hoặc xét tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng hay Trung cấp vì học các ngành đó ra sau khi tốt nghiệp ra trường dễ xin việc làm và thu nhập cao. Ngoài ra, đa phần thí sinh dự thi môn Lịch sử chỉ dùng để xét tốt nghiệp. Do vậy, ngoài việc phải học thuộc lòng và ghi nhớ thì đây được xem là nguyên nhân chính khiến thí sinh không tập trung học để có điểm cao môn Lịch sử. Nguyên nhân nữa xuất phát từ chương trình sách giáo khoa Lịch sử hiện hành của chúng ta hiện nay viết theo kiểu biên niên các sự kiện làm cho việc học Lịch sử trở nên khô khan, nhàm chán, chương trình rất nặng nề, giáo viên không có nhiều thời gian để minh hoạ cho bài học bằng các câu chuyện lịch sử. Học sinh thấy “sợ” học Lịch sử vì phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện, ngày, tháng năm, địa điểm, nhân vật Lịch sử... Ngoài ra còn xuất phát từ cách dạy của giáo viên như trong quá trình giảng dạy cũng chỉ chú trọng đến thống kê các sự kiện, mốc thời gian trong bài giảng nên học sinh không hiểu bài sâu, thấy tiết học Lịch sử quá nặng nề, học sinh thụ động trong lĩnh hội kiến thức, từ đó học sinh không hứng thú với môn học. Hoặc có một phần không nhỏ một số giáo viên dạy Lịch sử chưa đủ tâm huyết với nghề nên chưa chú trọng đến việc đổi mới trong dạy học bộ môn Lịch sử… Để làm thay đổi cái nhìn, quan niệm, thái độ của mọi người, để khơi dậy hứng thú học tập Lịch sử ở học sinh thì việc đổi mới trong cách dạy Lịch sử hiện nay là rất cần thiết và để đáp ứng với Chương trình giáo dục phổ thông mới thì việc Đổi mới trong dạy và học Lịch sử càng cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả học tập bộ môn. Tuy nhiên việc nâng cao hiệu quả học tập bộ môn, cần sự quan tâm của các ngành, các cấp quản lý, của ngành giáo dục và của toàn xã hội. Đồng thời, với vị thế là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử tôi nghĩ rằng mỗi giáo viên chúng ta cần tích cực đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy Lịch sử để khơi dậy hứng thú học tập bộ môn ở học sinh. 11
- Bản thân tôi trong quá trình giảng dạy Lịch sử đã nhận thấy rằng sử dụng “kênh hình” trong giảng dạy Lịch sử sẽ góp phần đắc lực vào việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử. 12
- 1.3. Mục đích nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm Tôi chọn đề tài này vì thấy rằng việc khai thác kênh hình trong giảng dạy Lịch sử sẽ có vai trò rất lớn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, để học sinh tìm tòi suy nghĩ để đưa ra nhận định về một vấn đề lịch sử. Và khi tăng “kênh hình” thì tất nhiên sẽ giảm bớt “kênh chữ”, học sinh sẽ thấy học Lịch sử không chỉ là ghi chép, “nhồi nhét” các sự kiện như ý kiến của một số người từ đó học sinh sẽ có hứng thú học tập và sẽ góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. 2. Tên sáng kiến "Khai thác kênh hình để tạo hứng thú học tập môn Lịch sử ở học sinh phần Lịch sử thế giới cận đại lớp 10 (Ban Cơ bản)". 3. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Ngô Thị Hòa Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên trường THPT Hai Bà Trưng thành phố Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc. Số điện thoại: 0984453412 E_mail: ngothihoa.gvhaibatrung@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phục vụ việc giảng dạy môn Lịch sử lớp 10 “Phần ba. Lịch sử thế giới Cận đại” (Ban Cơ bản) ở trường Trung học Phổ thông. Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Đổi mới cách khai thác “kênh hình” để nâng cao hiệu quả việc dạy và học Lịch sử lớp 10 ở trường Trung học Phổ thông, tạo hứng thú học tập bộ môn Lịch sử ở học sinh. Đồng thời thông qua khai thác “kênh hình” học sinh còn được rèn luyện một số kỹ năng học tập bộ môn như: quan sát, miêu tả, phân tích, tổng hợp… từ đó học sinh đạt kết quả học tập tốt với bộ môn Lịch sử và có kiến thức tốt chuẩn bị tốt cho kì thi THPT Quốc gia. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu Sáng kiến của tôi đã được áp dụng thử nghiệm từ ngày 28/2/2019, tại trường THPT Hai Bà Trưng thành phố Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 13
- 7.1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Tôi đã từng đọc câu nói sau của Earle Lytton Bulwer Nam tước Lytton đời thứ nhất là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà soạn kịch, và nhà chính trị người Anh như sau: “mong muốn tự dạy bản thân”. Bản thân tôi rất tâm đắc với câu nói trên, vì yêu cầu về phương pháp giáo dục hiệu quả của người thầy. Liên hệ đến đề tài này của tôi, tôi thấy rằng việc giáo viên “khơi gợi” kiến thức khi sử dụng “kênh hình” trong giảng dạy Lịch sử là rất cần thiết, vì việc làm này sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm”. Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng hiện nay việc sử dụng “kênh hình” trong quá trình giảng dạy Lịch sử ở trường phổ thông còn rất hạn chế như: khai thác chưa có phương pháp, khai thác còn phiến diện, chưa lột tả hết được ý nghĩa của “kênh hình”… do vậy chưa phát huy được hết tác dụng của “kênh hình”. Với bản thân tôi, tôi đã và đang tìm hiểu cách khai thác kênh hình trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử nhưng cũng nhận thấy rằng việc làm này của mình chưa được bài bản, hệ thống. Vì vậy tôi đã chọn đề tài này để tìm hiểu và phần nào làm sâu sắc hơn hiểu biết của mình về “kênh hình” cũng như ứng dụng nó trong quá trình giảng dạy thực tế của mình. Những thuận lợi và khó khăn của bản thân tôi khi nghiên cứu vấn đề này tại nhà trường THPT Hai Bà Trưng: Thuận lợi: Bản thân có sức khỏe tốt, có thời gian nhất định trong giảng dạy và công tác; Được Ban Giám hiệu, tổ chuyên môn cùng đồng nghiệp trong đơn vị giúp đỡ, tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ. Khó khăn: Về đối tượng học sinh: Trường trung học phổ thông Hai Bà Trưng là nhà trường mới sáp nhập từ từ hai đơn vị nhà trường THPT Hai Bà Trưng và THPT Phúc Yên từ năm học 20172018, nên nhận thức của học sinh các lớp có sự phân hóa rõ nét. Bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Năng lực chuyên môn chưa sâu, phương pháp và kinh nghiệm giảng dạy và ứng xử sư phạm 14
- còn hạn chế… Do vậy cũng có ảnh hưởng đến việc Đổi mới phương pháp giảng dạy. 7.2. Một số lưu ý khi khai thác kênh hình trong giảng dạy môn Lịch sử ở trường phổ thông Kênh hình thường được ví như một “hình chiếu” có đầy đủ về nội dung kiến thức trong sách giáo khoa. Vì thế, nếu người dạy và người học biết khai thác triệt để lợi thế này thì hệ thống tranh ảnh, biểu đồ, bản đồ, phim tư liệu… có ý nghĩa rất quan trọng trong trong quá trình truyền thụ tri thức. Trước hết để khai thác kênh hình có hiệu quả, giáo viên cần nắm được các loại kênh hình bao gồm: Loại một: Lược đồ, biểu đồ, sơ đồ, đồ thị. Loại hai: Tranh ảnh (tranh ảnh, hình vẽ về một sự kiện hoặc chân dung nhân vật lịch sử). Loại ba: Phim tư liệu lịch sử. Phim tư liệu l ịch sử có thể là những thước phim tài liệu thực tế quí giá còn được lưu giữ lại hoặc là những thước phim tài liệu khoa học được xây dựng trên những hình ảnh có thật hoặc những biến cố của sự kiện, nhân vật lịch sử xảy ra tại thời điểm nhất định trong quá khứ. Nhưng phim tư liệu lịch sử hiện nay còn hạn chế nên không phải bài học nào cũng có phim tư liệu tương ứng. Do đó trong quá trình khai thác phim tư liệu trong giảng dạy chúng ta sẽ gặp khó khăn nhất định trong việc tìm kiếm những đoạn phim khoa học và phù hợp. Tiếp theo, giáo viên cần có sự tìm hiểu và chuẩn bị chu đáo về “kênh hình” trước khi tiến hành giảng dạy trên lớp như: Nắm được kiến thức cơ bản của “kênh hình” thông qua việc tìm đọc tài liệu tham khảo hoặc tìm hiểu trên mạng Internet; Xác định được mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình từ đó có sự định hướng trong quá trình học sinh học tập và tiếp thu tri thức để việc giảng dạy đạt hiệu quả.; Thiết kế các câu hỏi gợi mở hợp lý, trọng tâm. Ngoài những yêu cầu trên khi sử dụng kênh hình hoặc phim tư liệu trong giảng dạy, giáo viên cần lưu ý chúng phải được đưa ra đúng thời điểm và không đưa ra một lúc quá nhiều hình ảnh, dữ liệu để tránh sự phân tán của học sinh. Và trích dẫn các đoạn phim tư liệu cũng cần chọn lọc, phù hợp về kiến thức và thời gian của tiết học. 15
- Thứ hai là tổ chức cho học sinh khai thác kênh hình trong dạy học. Giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh những kỹ năng: Quan sát, nhận xét, mô tả, phân tích, nhận định, đánh giá… để hiểu bài sâu sắc. Các bước khai thác kênh hình: Thứ nhất là đối với tranh ảnh, lược đồ, biểu đồ, sơ đồ, đồ thị Lịch sử: Giáo viên nên sử dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ việc giảng dạy, đó là trình chiếu các loại “kênh hình” này trên máy chiếu. Nhưng nếu điều kiện không cho phép thì giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh, lược đồ biểu đồ, sơ đồ, đồ thị Lịch sử có sẵn trong thiết bị dạy học của nhà trường hoặc nếu không có sẵn thì giáo viên cần sưu tầm chúng với kích thước đảm bảo để học sinh cả lớp có thể quan sát được. Đối với lược đồ, biểu đồ, sơ đồ, đồ thị: Trước hết, giáo viên giới thiệu sơ lược các kí hiệu trên lược đồ, biểu đồ sau đó đặt các câu hỏi gợi mở liên quan đến kenh hình đó để học sinh suy nghĩ và tìm ra câu trả lời. Đối với tranh ảnh trong bài học, giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề. Học sinh sẽ quan sát kênh hình, suy nghĩ và phát biểu ý kiến, học sinh khác nhận xét, bổ sung. Cuối cùng giáo viên nhận xét, chốt ý. Thứ hai là đối với phim tư liệu: Có hai cách khai thác Cách một: Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi phim tư liệu trước; Sau đó đặt câu hỏi nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, trả lời; Giáo viên nhận xét, kết luận. Với cách thức này sẽ biến đoạn phim tư liệu thành một đơn vị kiến thức mà học sinh phải khai thác, lĩnh hội. Cách hai: Sau khi đã giảng dạy, diễn giải một vấn đề, giáo viên cho học sinh theo dõi đoạn phim tư liệu để học sinh có cái nhìn sâu sắc hơn, khắc sâu hơn vấn đề đó. Tức là đoạn phim được chiếu đó sẽ mang tính chất minh hoạ cho bài giảng là chính. Với nhận thức như vậy và kinh nghiệm của bản thân mặc dù còn chưa nhiều và chưa sâu nhưng ở đây tôi xin mạnh dạn trình bày một số ví dụ tiêu biểu mà bản thân đã thực hiện và đúc kết được trong quá trình giảng dạy như sau. 7.3. Một số ví dụ về việc khai thác kênh hình trong giảng dạy Lịch sử thế giới Cận đại, sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 (Ban Cơ bản) 7.3.1. Đối với lược đồ, biểu đồ 16
- * Khi giảng dạy bài 29 “Cách mạng Hà Lan và cách mạng tư sản Anh”, mục 2. “Cách mạng tư sản Anh”, sách giáo khoa có lược đồ: Hình 51. Lược đồ cuộc nội chiến ở Anh Mục đích khai thác: Học sinh thấy được so sánh lực lượng giữa quân đội nhà vua và Quốc hội. Hướng khai thác: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát các kí hiệu trên lược đồ và đặt câu hỏi gợi mở: Nguyên nhân nào dẫn đến cuộc nội chiến? Em đánh giá như thế nào về cuộc nội chiến? Phe nào chính nghĩa, phe nào phi nghĩa? Vì sao? Học sinh theo dõi lược đồ, sách giáo khoa, trả lời; Giáo viên nhận xét và chốt ý: Ở Anh, từ thế kỉ XII đã có Quốc hội. Song, từ đẩu thế kỉ XVII, các vua Anh không muốn thừa nhận sự tồn tại của quốc hội vì đã hạn chế phần nào sự chuyên quyền của vua. Năm 1640, vì cần tiền để đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Xcốt len nên Sáclơ I buộc phải triệu tập Quốc hội. Mâu thuẫn giữa vua và quốc hội không thể điều hoà đã dẫn tới cuộc nội chiến ngày 22 81642. Giai đoạn 1 của cuộc nội chiến (1642 1645): quân đội của quốc hội bị thất bại vì quân đội của nhà vua được trang bị tốt và thiện chiến hơn. Giai đoạn 2 của cuộc nội chiến (1645 1648): sau khi củng cố và tổ chức lại quân đội, lực lượng của quốc hội đứng đầu là Crôm oen đã giành thắng lợi ở trận quyết định Nêdơbi (miền Trung nước Anh). Vua Sáclơ I bị thất 17
- bại phải chạy lên phía bắc nước Anh và bị người Xcốtlen, đồng minh của quốc hội bắt giữ trao cho Quốc hội. Năm 1648, nội chiến kết thúc. Ngày 30 11649 vua Sáclơ I bị xử tử. * Hay khi giảng dạy bài 30 “Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ”: Khi dạy mục 1.“Sự phát triển của chủ nghĩa Tư bản ở Bắc Mỹ. Nguyên nhân bùng bổ chiến tranh” sẽ có lược đồ sau: Hình 53. Lược đồ 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ. Mục đích khai thác: Học sinh thấy được hình ảnh 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ lúc đó và có thể so sánh với diện tích nước Mĩ hiện tại. Hướng khai thác: Trước hết, giáo viên treo lược đồ lớn bằng giấy lên bảng hoặc chiếu lên máy chiếu, hướng dẫn học sinh quan sát lược đổ, giới hạn phạm vi 13 thuộc địa trên lược đồ (màu đen), yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa và trả lời các câu hỏi: Châu Mĩ được phát hiện khi nào? Do ai phát hiện ra? Các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ được thành lập khi nào? Đây là vùng đất có đặc điểm gì? Nền kinh tế Bắc Mĩ phát triển như thế nào? Tại sao nhân dân Bắc Mĩ lại đứng lên đấu tranh chống thực dân Anh? Các em hãy lấy một vài ví dụ để lí giải nguyên nhân dẫn tới chiến tranh 18
- Học sinh quan sát lược đồ, theo dõi nội dung sách giáo khoa, trao đổi và trả lời; Giáo viên nhận xét, kết luận kết hợp trình bày trên lược đồ: Lược đồ trong sách giáo khoa minh hoạ cho sự hình thành các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ vào thế kỉ XVIII. 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ lần lượt được hình thành từ năm 1603 đến năm 1732. Sự thực thì những kẻ đầu tiên nuôi tham vọng biến vùng đất bao la này thành thuộc địa không phải là thực dân Anh mà là thực dân Tây Ban Nha, Pháp và Hà Lan. Song ưu thế cơ bản của Anh trong quá trình thực dân hoá Bắc Mĩ là dựa trên một cơ sở vững chắc về công nghiệp và nông nghiệp hơn hẳn Pháp, Hà Lan và Tây Ban Nha, nhất là ở thế kỉ XVIII. Năm 1607, người Anh chính thức đặt chân đến Viếcginia (ở Giêm xtao) và bắt đầu khẩn thực vùng đất này. Từ bấy giờ đến hết thế kỉ XVII, họ đã thành lập được 12 thuộc địa. Thuộc địa thứ 13Gioócgia ra đời năm 1732 dưới triều vua Giocgiơ II. Về mặt địa lí, chính trị, cương giới của 13 thuộc địa: Bắc giáp Cana đa, Nam giáp Phloriđa (thuộc Tây Ban Nha); Đông là Đại Tây Dương, Tây là Ạlêganít. Căn cứ vào tình hình kinh tế, chính trị, tôn giáo, thành phần dân người ta chia 13 thuộc địa của Anh thành ba miền: Bắc, Trung, Nam. Những thuộc địa miền Bắc là: Maxachuxét (thủ phủ là cảng Bôxtơn) ; Niu Hămsai; Rốt Ailen; Cônếchticớt. Bốn thuộc địa này một tên chung là Niu Ingilân (nước Anh mới). Cần lưu ý rằng, danh từ Niu Ingilân không phải dùng để chỉ cho cả 13 thuộc địa của Anh. Đây là một bộ phận quan trọng của Hợp chủng quốc Mĩ sau này về kinh tế, chính trị và văn hoá. Bấy giờ, ở đây đã thành lập những trường trung học Havớt, Iêlơ, sau trở thành những trường đại học có tiếng ở Mĩ. Những thuộc địa miền Trung là: Niu Oóc, NiuGiơxi, Đơlaoa (ba thuộc địa này, thực dân Anh đã cướp của Hà Lan), và Penxinvania (thủ phủ là thành phố Philađenphia gồm 25000 dân). Những thuộc địa miền Trung giàu khoáng sản rất cần cho sự phát triển công nghiệp (sắt, than đá) và nhiều gỗ phục vụ cho công nghiệp đóng tàu. Những thuộc địa miền Nam là: Viếcginia, Mêrilen, Carôlinna Bắc, Carôlinna Nam và Gioócgia. Miền này rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, từ sản xuất lưong thực (lúa mì, lúa gạo) đến cây công nghiệp 19
- (thuốc lá, bông, chàm). Cư dân ở 13 thuộc địa, phần lớn là người Anh và con cháu của họ di cư sang. Họ đã tiêu diệt, dồn đuổi đến cùng người Inđian (da đỏ) về phía tây bằng những cuộc chiến tranh chinh phạt thực sự để chiếm lấy đất đai và đem nô lệ da đen châu Phi đến khai khẩn đồn điền ở đây… Hiện nay diện tích nước Mĩ đã mở rộng hơn rất nhiều và gồm 50 bang. Khi giảng dạy bài 31. “Cách mạng tư sản Pháp”, ở mục 1. “Cách mạng bùng nổ. Nền quân chủ lập hiến” thuộc phần II. “Tiến trình cách mạng”, sẽ có lược đồ sau: Mục đích khai thác: Học sinh nắm được diễn biến cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Hướng khai thác lược đồ: Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc các kí hiệu trên lược đồ, sau đó nêu câu hỏi: Nhận xét của em về phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp năm 1789? Học sinh theo dõi lược đồ, kết hợp với sách giáo khoa phát biểu. Giáo viên nhận xét, kết luận kết hợp trình bày trên lược đồ: Nhân dân nước Pháp khắp nơi nổi dậy, hình thành các trung tâm chống phong kiến ở thành thị (những nơi có lá cờ). Sau đó phong trào còn lan ra khắp 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác hình ảnh trực quan vận dụng vào giảng dạy tiết 3 - Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội - GDCD 12 THPT
23 p | 278 | 55
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác một số bài toán về mạch điện xoay chiều có R,L,C mắc nối tiếp vào dạy học
19 p | 149 | 33
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp nghệ thuật so sánh trong ca dao ở chương trình THPT
47 p | 127 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Soạn dạy bài Clo hóa học 10 ban cơ bản theo hướng phát triển năng lực học sinh
23 p | 55 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sáng tạo các bài toán mới từ khái niệm và bài tập cơ bản
20 p | 118 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác bất đẳng thức Cauchy bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 10
32 p | 36 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại và cách giải bài toán tìm giới hạn hàm số trong chương trình Toán lớp 11 THPT
27 p | 53 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa góp phần giáo dục di sản văn hóa
37 p | 53 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác ứng dụng một số tính chất hình học để giải quyết các bài toán tọa độ trong phẳng
50 p | 36 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác kênh hình sách giáo khoa Sinh học 12, biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan phục vụ ôn thi trung học phổ thông (THPT) quốc gia
17 p | 43 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác hai tính chất của hàm số trong chứng minh bất đẳng thức
30 p | 33 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm triển khai dạy bộ môn Yoga tại TTGDTXHN - Nghệ An
37 p | 19 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác phần mềm Wondershare QuizCreator và Google site giúp học sinh rèn luyện bài thi trắc nghiệm môn Toán
15 p | 54 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác thế mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin nhằm phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh
24 p | 35 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng đồ dùng dạy học tự làm để giảng dạy bộ môn GDQP-AN ở trường THPT
36 p | 41 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn