intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng và dạy học địa lí ở trường trung học phổ thông Con Cuông

Chia sẻ: Bananalachuoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:52

30
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu sử dụng hiệu quả các phần mềm, từ đó tìm ra con đường đơn giản và hiệu quả nhất mà bất cứ GV nào khi đã có kiến thức và phương tiện đều có thể ứng dụng CNTT vào TKBG và giảng dạy môn địa lí. Xây dựng một số bài giảng có ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí ở trường THPT hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng và dạy học địa lí ở trường trung học phổ thông Con Cuông

  1. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lí do chọn đề tài Trong thời đại 4.0, công nghệ thông tin (CNTT) đã trở thành một phần thiết yếu của cuộc sống. Việc ứng dụng CNTT rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã cho thấy vai trò to lớn và những tác dụng kỳ diệu của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục ở các nước có nền giáo dục phát triển. Có thể nói CNTT là một lĩnh vực đột phá có vai trò lớn trong việc thúc đẩy phát triển KTXH, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT có tác dụng làm thay đổi mạnh mẽ phương pháp, phương thức dạy – học nhất là từ khi nền giáo dục của nước ta bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của CNTT. Và có lẽ chính vì vậy mà trong những năm gần đây việc ứng dụng CNTT vào dạy – học đã và đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ ở các trường học, cấp học. Nghị quyết Trung ương II khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học, áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. “Đổi mới phương pháp GD&ĐT khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học…”. Một trong những biện pháp quan trọng là chúng ta cần phải nhanh chóng ứng dụng những thành tựu của CNTT để biên soạn bài giảng điện tử áp dụng trong dạy và học ở Việt Nam nhằm tích cực hóa quá trình học tập của HS. Việc sử dụng có tính sư phạm những thành quả của CNTT vào dạy học đã tạo nên những thay đổi lớn đến hiệu quả của quá trình dạy học, đến hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện dạy học. Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT vào dạy học ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các môn khoa học xã hội, trong đó có môn địa lí. Đề cập đến ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung và dạy học môn địa lí nói riêng cũng đã có một số không ít tác giả đề cập đến, song nội dung còn ở mức độ khái quát hóa, tính ứng dụng chưa thực sự cao. Là một GV địa lí, bản thân tôi luôn trăn trở với suy nghĩ làm thế nào để giờ dạy của mình thu hút được sự chú ý của học sinh, làm thế nào để tiết học sinh động, hấp dẫn,… Và việc khai thác và ứng dụng CNTT vào một số bài dạy đã giúp tôi tháo gỡ được phần nào những băn khoăn này. Tuy vậy, trên thực tế, bản thân tôi cũng như nhiều GV nói chung, GV địa lí nói riêng, việc ứng dụng CNTT vào dạy học bộ môn chưa thường xuyên và hiệu quả do những điều kiện khách quan và chủ quan. Nhằm để cả GV và HS thấy được tầm quan trọng và những lợi ích rõ rệt từ việc ứng dụng CNTT vào dạy học địa lí, tôi đã chọn đề tài “ Khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng và dạy học địa lí ở trường trung học phổ thông Con Cuông” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Hi vọng sẽ giúp cho các đồng nghiệp có thêm một kênh thông tin để tiếp cận, nghiên cứu và ứng dụng vào việc dạy học của mình. 1
  2. 1.2. Lịch sử nghiên cứu Việc ứng dụng các thành tựu của lĩnh vực CNTT và dạy học không còn là vấn đề mới mẻ trên thế giới. Vai trò, vị trí quan trọng của CNTT cũng đã được khẳng định qua thực tiễn. Trên thế giới nhất là những nước có CNTT phát triển, người ta đã thực hiện thành công hàng loạt dự án, các chương trình để đưa các ứng dụng CNTT vào dạy học.Vì vậy, việc ứng dụng CNTT vào dạy học (nói chung) và TKBG (nói riêng) cũng đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên thế giới nhất là ở những khu vực và quốc gia có nền kinh tế phát triển như: Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, NICs. . . Ở Việt Nam nhận rõ vai trò của CNTT đối với đời sống xã hội, Đảng - Nhà nước đã có những chính sách phát triển CNTT từ những năm 1993 và phát triển công nghệ phần mềm từ năm 2000. Do đó, CNTT đã được áp dụng có hiệu quả vào nhiều lĩnh vực của sản xuất, dịch vụ và đời sống xã hội. Tuy nhiên trong giáo dục thì gần đây mới được chú ý vì thế còn nhiều hạn chế. Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển của đất nước, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả Giáo dục, thời gian gần đây có nhiều nhà khoa học giáo dục đã tiến hành nghiên cứu vấn đề này. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan tới việc ứng dụng CNTT và các phần mềm tin học trong TKBG có thể kể đến: - “Phần mềm PC- Fact với giảng dạy địa lí”. PGS Nguyễn Dược biên soạn. Nxb Giáo Dục, 1998. - “Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy”- Kỷ yếu Hội thảo Khoa học công nghệ Bộ GD - ĐT, 2001. - “Khai thác phần mềm PC – Fact trong dạy học Địa lí”. Hội thảo Khoa học ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong Giáo dục phổ thông. Bộ GD - ĐT, 2001. - “Khai thác chương trình PC – Fact, Encarta World 2000 và Power Point để thiết kế và xây dựng bài giảng địa lí ”, PGS .TS Nguyễn Trọng Phúc. Hội thảo khoa học “ Sử dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy học” ĐHSP Hà Nội, 2002. - “Thiết kế bài giảng địa lí ở trường phổ thông”, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Nxb ĐHSP Hà Nội, 2004. - “Thiết kế, xây dựng hệ thống bài giảng điện tử Địa lí kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam”, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, hội thảo Khoa học “Nâng cao chất lượng dạy và học trong chương trình phổ thông nhờ sự hỗ trợ của thiết bị và phần mềm dạy học”. ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh, 2005. 2
  3. Ngoài ra, còn rất nhiều các đề tài nghiên cứu của các tác giả khác. Qua các đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục, chúng ta thấy rằng việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã đem lại kết quả khả quan, phát huy được vai trò chủ động của HS trong học tập, HS say mê và hứng thú hơn với việc học tập môn Địa lí. Các công trình nghiên cứu trên đây đã giúp cho chúng tôi về cơ sở lý luận, những định hướng, những gợi ý để xây dựng và thực hiện đề tài trên cơ sở kế thừa và phát triển ngày càng tốt hơn. Kết quả nghiên cứu của các tác giả là hết sức to lớn. Song những vấn đề đó được đề cập ở phạm vi rộng lớn và mang tính bao quát. Vì thế vấn đề ứng dụng CNTT vào TKBG và dạy học địa lí nói chung và ở trường THPT nói riêng chưa cụ thể hóa. Kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học, để giúp giáo viên địa lí có thêm nguồn tài liệu đúc rút kinh nghiệm và kĩ năng giảng dạy, để tích cực hóa hoạt động nhận thức cho HS, giúp HS phát triển các năng lực toàn diện, tôi đã chọn đề tài “ Khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng và dạy học địa lí ở trường trung học phổ thông Con Cuông”. 1.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 1.3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu sử dụng hiệu quả các phần mềm, từ đó tìm ra con đường đơn giản và hiệu quả nhất mà bất cứ GV nào khi đã có kiến thức và phương tiện đều có thể ứng dụng CNTT vào TKBG và giảng dạy môn địa lí. - Xây dựng một số bài giảng có ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí ở trường THPT hiện nay. - Nhằm năng cao khả năng sử dụng các thiết bị dạy học phục vụ cho một tiết học có hiệu quả của GV địa lí. - Giúp HS có khả năng tiếp nhận kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức trên cơ sở những tri thức giáo viên đã nghiên cứu, truyền tải thông qua các thiết bị dạy học trong một tiết học. 1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục tiêu trên, đề tài cần giải quyết các vấn đề sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí ở trường THPT. - Nghiên cứu những kỹ thuật cần thiết về CNTT để thiết kế một số dạng bài giảng trong chương trình địa lí THPT. - Đưa ra quy trình TKBG địa lí có ứng dụng CNTT. 3
  4. - Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi của vấn đề nghiên cứu. - Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và đưa ra những giải pháp cụ thể để việc ứng dụng CNTT vào dạy học địa lí ở trường THPT đạt hiệu quả. 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.4.1. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ SKKN này, tác giả chỉ bước đầu nghiên cứu việc ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí ở trường THPT Con Cuông. 1.4.2. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng mà đề tài hướng tới nghiên cứu và áp dụng thực nghiệm là HS trường THPT Con Cuông. 1.4.3 Giá trị sử dụng của đề tài - Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên dạy địa lí THPT. - Dùng cho học sinh tự nghiên cứu, học tập môn địa lí THPT có hiệu quả hơn. 1.5. Phương pháp nghiên cứu 1.5.1. Phương pháp thu thập tài liệu Căn cứ vào mục đích nhiệm vụ của đề tài, tôi đã tiến hành thu thập, phân tích tài liệu từ các nguồn khác nhau: Sách báo, tạp chí chuyên ngành, luận văn, các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, các phần mềm nghiên cứu ứng dụng vào học tập có nội dung liên quan. Để TKBG đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục, tôi còn chú ý nghiên cứu SGK hiện hành làm tài lệu chuẩn cho nội dung thiết kế của bài học. Ngoài ra tôi còn tiến hành nghiên cứu thêm những tài liệu tham khảo khác trong chương trình phân ban và giáo trình đại học. Đồng thời còn chú trọng thu thập các tài liệu có liên quan đến PPDH, các tài liệu “Lý luận dạy học đại cương”, “Lý luận dạy học địa lí”, “Tâm lí học sư phạm”, “Tâm lí học lứa tuổi”,… để việc TKBG đạt hiệu quả cao nhất. 1.5.2. Phương pháp điều tra, quan sát, tổng kết kinh nghiệm - Tìm hiểu thực tế việc dạy học địa lí nói và TKBG địa lí THPT, đặc biệt là những chương trình có sử dụng CNTT trong dạy học. - Dự giờ một số tiết dạy có sử dụng CNTT, từ đó rút ra kinh nghiệm và bổ sung những vấn đề có liên quan vào đề tài nghiên cứu. Việc áp dụng các phương pháp, phương tiện dạy học cho phù hợp với khả năng học sinh là một quá trình thử nghiệm lâu dài, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm của GV. Để việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy địa lí ở trường phổ thông đạt hiệu 4
  5. quả tốt cần hiểu kĩ về thái độ của GV và HS, tình hình thực tế của các trường mà nhất là học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước trong lĩnh vực này để rút ra những bài học kinh nghiệm. 1.5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Tiến hành ứng dụng CNTT để TKBG và thực hiện các giờ dạy ở trường THPT Con Cuông. Sử dụng phiếu thăm dò để kiểm tra kết quả từ phía HS và lấy ý kiến của GV nhằm đánh giá mức độ khả thi của đề tài. Kiểm tra tính thực tiễn của việc ứng dụng CNTT vào TKBG có thể sử dụng được thường xuyên hay không, đồng thời thấy được những thiếu sót và chưa hợp lí để từ đó có những phương hướng điều chỉnh cho hợp lí làm tăng tính khả thi của đề tài. 1.5.4. Phương pháp toán thống kê Được dùng trong việc xử lý kết quả số liệu thống kê sau khi tiến hành điều tra, thực nghiệm sư phạm. 1.6. Đóng góp của đề tài - Đề tài nghiên cứu, tổng hợp, hệ thống hoá và làm sáng tỏ cũng như tiếp thu những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc TKBG và giảng dạy địa lí ở trường THPT. - Qua nghiên cứu, điều tra thực tế đã bước đầu đánh giá được thực trạng việc ứng dụng CNTT trong TKBG địa lí ở một số trường THPT nói chung và trường THPT Con Cuông nói riêng. - Đưa ra những nguyên tắc, quy trình cụ thể về ứng dụng CNTT trong TKBG địa lí ở trường THPT - Ứng dụng CNTT trong TKBG địa lí THPT nhằm góp phần đổi mới PPDH và nâng cao hiệu quả trong dạy học địa lí ở trường THPT hiện nay. 5
  6. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở khoa học 2.1.1. Cơ sở lí luận 2.1.1.1. Lí luận chung về công nghệ thông tin Công nghệ Thông tin (Information Technology hay là IT) là một nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: "Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội". Các lĩnh vực chính của CNTT bao gồm quá trình tiếp thu, xử lý, lưu trữ và phổ biến hóa âm thanh,phim ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và truyền thông. 2.1.1.2. Lí luận về ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học a. Thế nào là ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học? Ứng dụng CNTT trong dạy học có nghĩa là sử dụng các lĩnh vực của CNTT phục vụ cho quá trình dạy và học. b. Ứng dụng CNTT vào dạy học như thế nào? Sử dụng máy tính, các phần mềm chuyên dụng và các công cụ tìm kiếm để tìm kiếm thông tin, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, các dữ liệu cần thiết, ... phục vụ cho việc dạy và học, thiết kế bài dạy và tổ chức tiết dạy trên lớp bằng các phần mềm chuyên biệt và các phương tiện kĩ thuật hiện đại ( Máy tính, máy chiếu, bảng thông minh...). Ngoài ra, còn có chương trình dạy học trực tuyến trên Internet. c. Sự cần thiết phải ứng dụng CNTT vào dạy học địa lí ở trường THPT CNTT được đánh giá không những là động lực chính cho sự phát triển của mỗi quốc gia mà còn là yếu tố quan trọng trong việc phát triển Giáo dục trong thế kỉ XXI. Ứng dụng CNTT là quá trình khai thác các phương tiện thông tin và truyền thông phục vụ trong giáo dục. Việc ứng dụng này đã và đang được tiến hành ở nhiều quốc gia trên thế giới. 6
  7. Sự phát triển mạnh mẽ của CNTT có ảnh hưởng tới chất lượng của lực lượng lao động tương lai. Người lao động tương lai sẽ cần phải có những kĩ năng và kĩ năng về công nghệ nhằm đáp ứng với những thay đổi đa dạng để hoàn thành tốt công việc hơn là những kĩ năng cụ thể trong những công việc nhất định. Như vậy, quá trình dạy và học phải đổi mới để đáp ứng những yêu cầu thay đổi không ngừng của xã hội. Trong giáo dục, từ những ngày đầu tiên khi máy tính bắt đầu sử dụng trong hoạt động dạy và học, nó đã hứa hẹn những thành công trong việc giúp đỡ GV truyền tải kiến thức và phát triển kĩ năng cho người học. “Môi trường giàu công nghệ” khoa học công nghệ đã làm thay đổi cách dạy và học cũng như đặt ra những vấn đề liên quan tới khả năng phân tích và sử dụng thông tin của GV trong môi trường tràn ngập nguồn thông tin trên Internet. Bên cạnh những lợi ích cho người dạy, CNTT cũng đem lại nhiều lợi ích cho người học khi được vận dụng hiệu quả vào quá trình dạy học. - CNTT giúp tăng cường hứng thú học tập của người học - CNTT giúp người học đáp ứng được nhu cầu của cá nhân - CNTT giúp người học phát triển đa trí tuệ - CNTT giúp khuyến khích học tập kiến tạo - CNTT là công cụ dạy học Cùng với những thuận lợi cho người học, CNTT còn được coi là công cụ dạy học cho GV và các nhà giáo dục. CNTT phát triển đã cung cấp nhiều phương tiện cho các hoạt động giảng dạy. Việc sử dụng CNTT trong dạy học có thể được thấy qua hình ảnh của việc sử dụng máy tính cá nhân như một công cụ trợ giảng, người dạy sử dụng máy tính để hỏi HS và yêu cầu các em gửi lại phản hồi. Hình thức này sau đó được phát triển thành một công cụ dạy học mới gọi là Web CT. Web CT cung cấp phương tiện, môi trường giao tiếp trực tuyến cho người dạy và người học. Ngoài ra còn sử dụng các phần mềm giáo dục có tính tương tác có thể cung cấp một môi trường có tính khám phá cho người học. Người dạy có thể sử dụng World Wide Web như một nguồn tài liệu trực tuyến phong phú để người học có thể tự họ thực hiện các công việc nghiên cứu, tìm kiếm. Bên cạnh đó có không ít những thách thức đối với việc sử dụng CNTT trong lớp học: - Giáo viên dạy các môn khoa học nói chung, khoa học địa lí nói riêng khi sử dụng CNTT trong giảng dạy thường thiếu thời gian tìm hiểu và TKBG có sự hỗ trợ của máy tính cũng như thiếu tài chính để mua các phần mềm giáo dục cần thiết. Bên cạnh đó, sự phân công chưa hợp lí về thời gian và trang thiết bị cũng là một trong những khó khăn chung trong quá trình ứng dụng CNTT trong dạy học. 7
  8. - Kĩ năng của người GV viên chưa phải là điều kiện duy nhất để giải quyết tất cả những khó khăn mà quá trình ứng dụng CNTT trong dạy học đang gặp phải. Thành công của việc ứng dụng CNTT trong lớp học phụ thuộc nhiều vào thái độ của giáo viên đối với việc sử dụng PPDH mới. Hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy không chỉ phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất mà còn dựa trên kĩ năng cần thiết của người GV. Quá trình này cũng phụ thuộc nhiều vào niềm tin của người GV về khả năng cũng như mức độ CNTT có thể được sử dụng trong lớp học. Vì vậy, ở Việt Nam những năm gần đây, kế hoạch đầu tiên được thông qua nhằm mục đích ứng dụng CNTT trong giáo dục chính là chương trình quốc gia của Bộ GD - ĐT về CNTT: - Xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ GD-ĐT. - Phát triển nguồn năng lực có kĩ năng sử dụng CNTT. - Sử dụng CNTT để nâng cao chất lượng dạy và học. - Sử dụng CNTT để cải cách quản lí giáo dục. Quá trình ứng dụng CNTT vào dạy học có hiệu quả hơn khi: Hỗ trợ, động viên kịp thời để GV có hứng thú và kĩ năng cần thiết cho việc đưa PPDH mới vào thực tế tuy nhiên người GV cần phải thông hiểu tiếng Anh để có thể khai thác được các phần mềm dạy học được thuận lợi. Hiện nay, có những khó khăn khi ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy: - Thiếu phần mềm dạy học bằng tiếng Việt. - Tình trạng sử dụng chưa hiệu quả các thiết bị CNTT của các trường. - Đội ngũ GV có thể sử dụng CNTT một cách hiệu quả còn ít. - Thiếu thốn trang thiết bị và các phần mềm dạy học. Chương trình địa lí THPT bao gồm các kiến thức về tự nhiên, dân cư, KTXH đại cương, các khu vực, các nước trên thế giới và Việt Nam. Riêng cơ sở dữ liệu của kiến thức địa lí KTXH luôn luôn có sự thay đổi hàng ngày, hàng giờ, nếu không bắt kịp sự biến đổi đó thì các kiến thức trở thành cũ, lạc hậu và đôi khi không còn đúng, không phù hợp với thực tiễn. Vì thế đòi hỏi người học và người dạy cần cập nhật thông tin thường thường xuyên, nắm bắt sự thay đổi và biết đánh giá vấn đề một cách đúng đắn. Công nghệ thông tin có thể đáp ứng được điều này. Với những nguyên nhân khách quan và chủ quan trên nên khả năng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và trong dạy học địa lí nói riêng hiện nay còn nhiều hạn chế. 8
  9. 2.1.2. Cơ sở thực tiễn 2.1.2.1. Đặc điểm của học sinh THPT Lứa tuổi HS THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Cảm giác và tri giác của các em đã đạt tới mức độ của người lớn. Quá trình quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ. Khả năng quan sát một phẩm chất cá nhân cũng bắt đầu phát triển ở các em. Tuy nhiên, sự quan sát ở các em thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định, trong khi quan sát một đối tượng vẫn còn mang tính đại khái, phiến diện đưa ra kết luận vội vàng không có cơ sở thực tế. Hoạt động tư duy của HS THPT phát triển mạnh. Các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợ, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Nhìn chung tư duy của HS THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số HS vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy GV cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một cách tích cực độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Việc phát triển khả năng nhận thức của HS trong dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Qua kết quả nghiên cứu tâm - sinh lí của HS trong những năm gần đây cho ta thấy, thanh thiếu niên (đặc biệt là HS bậc THTP) có những thay đổi trong sự phát triển tâm - sinh lí, đó là sự thay đổi có gia tốc. Trong điều kiện phát triển các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, HS được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống, hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi trước đây mấy chục năm. ngoài khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá ngày càng được phát triển, HS không thích chấp nhận một cách đơn giản những áp đặt của GV. Các em thích tranh luận, bày tỏ những ý kiến riêng biệt của cá nhân mình về những vấn đề lí thuyết và thực tiễn. Đây là những thuận lợi cơ bản trong việc thực hiện đổi mới PPDH địa lí nói chung và TKBG địa lí nói riêng. Theo PPDH truyền thống thường coi quá trình dạy học là quá trình truyền thụ tri thức thông qua người thầy nên người thầy giữ vai trò chủ động, HS bị động tiếp thu kiến thức theo kiểu đọc - chép (ghi nhớ - tái hiện). Hiện nay việc lĩnh hội tri thức của HS chỉ có thể hiệu quả khi GV biết tổ chức quá trình dạy học tích cực với HS có vai trò là trung tâm, GV chỉ là người điều khiển, hướng dẫn HS lĩnh hội tri thức. HS phải tích cực hoạt động tư duy một cách độc lập, có sáng tạo. Ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí sẽ làm cho HS đón nhận một cách thích thú và chấp nhận sự mới mẻ này. 9
  10. 2.1.2.2. Thực tiễn ứng dụng CNTT vào dạy học ở nước ta. a. Căn cứ vào tình hình thực tế về vấn đề ứng dụng CNTT trong dạy học Trên thế giới, việc ứng dụng CNTT vào dạy học được thực hiện từ rất sớm nhằm tối ưu hóa các phương pháp dạy học tích cực, phát huy vai trò chủ thể của người học. Các hệ thống thông tin, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, các đồ họa, ... được các thiết bị đa phương tiện truyền tải đến người học, tạo nên tính trực quan sinh động và tạo hứng thú cho người học. Ở Việt Nam, việc ứng dụng CNTT vào dạy học mới được quan tâm trong những năm gần đây nhưng đã được GV và HS hưởng ứng nhiệt tình, nhất là đội ngũ GV trẻ, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, nâng cao chất lượng dạy học. Công nghệ thông tin được ứng dụng trong tất cả các môn học từ tự nhiên đến xã hội. b. Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo - Chỉ thị 58-CT/UW của Bộ Chính Trị ngày 07 tháng 10 năm 2000 về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa. Ở nước ta, vấn đề ứng dụng CNTT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của Chính phủ về chương trình quốc gia đưa công nghệ thông tin (CNTT) vào giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010,… - Trong “Chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo đến năm 2010” của Bộ GD&ĐT đã yêu cầu ngành giáo dục phải từng bước phát triển giáo dục dựa trên CNTT, vì “CNTT và đa phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lý hệ thống giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học” - Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục. Nhận thức rõ vai trò của CNTT trong phát triển nền Giáo dục của đất nước trong thời kì CNH-HĐH Nghị quyết TW 4, ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã nhấn mạnh: Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những chương trình của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho Giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển KT-XH. Nhìn lại những năm vừa qua, chúng ta thấy nội dung giáo dục ít gắn với nhu cầu của cuộc sống hàng ngày và lại được giảng dạy bằng một phương pháp lạc hậu: Thầy đọc - trò ghi. Do đó, sản phẩm giáo dục con người thường thiếu 10
  11. sự năng động, sáng tạo, lúng túng, bỡ ngỡ, thậm chí bất lực trước những đòi hỏi của cuộc sống vốn đa dạng và luôn luôn biến động. Để hoà đồng với nhịp độ phát triển chung của các nước trên thế giới trong những thập kỉ 90 của thế kỉ XX trở lại đây, Bộ GD&ĐT đã có những cố gắng trong việc tăng cường trang thiết bị cho các trường phổ thông, cung cấp thêm máy vi tính, mở rộng phổ cập, nâng cao trình độ tin học cho GV. Trong khoảng hơn 15 năm qua việc trang bị máy vi tính, nâng cao trình độ giảng dạy và ứng dụng tin học đã có những bước tiến khá tốt, những phần mềm dạy học đã được thử nghiệm. Ngoài ra chúng ta cũng đã khuyến khích những người nghiên cứu, các giảng viên của các trường đại học và GV ở các trường phổ thông biên tập, thiết kế, xây dựng các sản phẩm và phần mềm phục vụ cho dạy học ở từng bộ môn nói chung và địa lí nói riêng. Song các sản phẩm và các phần mềm còn quá ít ỏi, ứng dụng chủ yếu mang tính thử nghiệm. Đối với môn địa lí, việc đổi mới phương pháp, phương tiện dạy học đang từng bước được cải tiến. Đại bộ phận GV đã thấy được vai trò quan của việc ứng dụng CNTT và khai thác các phần mềm địa lí để phục vụ dạy học. Tuy nhiên trình độ tin học của đa phần GV còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, việc ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí nói riêng và các môn học khác nói chung vẫn còn những hạn chế. 2.1.2.3. Vai trò, hiện trạng của việc ứng dụng CNTT trong TKBG địa lí Chúng ta đang sống trong thời kì phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và CNTT. Những thành tựu của nó đã đẩy nhanh tốc độ phát triển của xã hội, tác động và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống. Trong sự phát triển đó giáo dục cũng có sự thay đổi lớn lao, vai trò và vị thế ngày càng trở nên to lớn và quan trọng. Khoa học kĩ thuật đã tạo ra mộtnguồn tri thức khổng lồ đòi hỏi phải lĩnh hội sâu rộng trong đời sống - đó chính là nhiệm vụ đặt ra cho ngành Giáo dục. Đồng thời để đáp ứng kịp thời sự phát triển đó giáo dục cần phải tạo ra một nguồn nhân lực có trình độ tương xứng. Mối quan hệ đó đẩy giáo dục phát triển lên một tầm cao mới - một nền Giáo dục hiện đại - Giáo dục gắn với CNTT... Do đó hiện nay trong việc dạy học và TKBG, CNTT đóng vai trò quan trọng với những tính năng ưu việt. Chúng ta biết rằng để tiến hành thành công bài học trên lớp thì GV phải có một bản TKBG (giáo án) thật tốt. Ở đó bao gồm toàn bộ ý tưởng thể hiện nội dung, phương pháp, cách tổ chức dạy học cũng như các tình huống hoạt động học tập mà chuẩn bị cho người học. Để làm tốt việc ứng dung CNTT trong TKBG thì GV phải có đầy đủ những tư liệu cần thiết phục vụ cho bài học. Tất cả đều được vi tính hoá để có thể sử dụng hiệu quả. Chính vì vậy, CNTT không chỉ là phương tiện dạy học hữu ích mà chính là thư viện thu nhỏ phục vụ cho dạy- học. Khả năng lưu trữ thông tin với khối lượng lớn, cho phép GV có thể tự thành lập cho mình ngân hàng thông tin để sử dụng khi TKBG: Các loại bản đồ, 11
  12. tranh ảnh, các số liệu thống kê, video, ... trong quá trình dạy học của mình GV có thể tích luỹ và các phương tiện CNTT là nơi lưu giữ được nhiều nhất, tốt nhất. Đó là kho tư liệu quý giá phục vụ tốt cho việc TKBG điện tử. Nếu máy vi tính được nối mạng thì việc TKBG rất thuận lợi, nhất là trong điều kiện HS được học trên máy vi tính. Ở đó GV có thể cập nhật một khối lượng thông tin vô cùng phong phú phù hợp với nội dụng bài dạy, cũng như hướng dẫn cho HS có thể khai thác trực tiếp tri thức. Các chương trình ứng dụng của CNTT cho phép GV có thể xử lí số liệu một cách đơn giản, hướng dẫn HS làm các bài thực hành về biểu đồ nhanh chóng, tiện lợi (Excel). Đồng thời với các phần mềm tin học có nội dung địa lí giúp cho việc khai thác xây dựng bản đồ địa lí phù hợp với từng nội dung dạy học (MapInfo), đây chính là tiện ích quan trọng đối với dạy học Địa lí nói chung và TKBG nói riêng. CNTT còn cho phép GV thể hiện bài giảng trên lớp một cách đơn giản, dễ hiểu, có sức hấp dẫn lớn đối với người học; cho phép thay đổi, sửa chữa bản thiết kế một cách dễ dàng, cũng như có thể sử dụng nhiều tình huống học tập với các nội dung dạy học phù hợp với các đối tượng HS khác nhau. Một trong những lợi thế to lớn của CNTT đối với TKBG địa lí là tính trực quan, khoa học rất cao, vừa có thể cụ thể cụ thể hoá (bằng các hình ảnh, video) vừa có thể khái quát hóa (bản đồ, sơ dồ, mô hình, ...) giúp cho việc tư duy của HS một cách tốt nhất. Các phương tiện thiết bị kĩ thuật giúp cho bài giảng được linh hoạt, sinh động. Nội dung bài học có thể có thể chủ yếu ở nhiều dạng: Vừa chi tiết, khái quát,vừa đầy đủ lại hiện đại với nhiều hệ thống kênh hình, kênh chữ cũng như âm thanh, phim ảnh, ... Do đó có thể nói CNTT góp phần to lớn làm hoàn thiện, hiện đại hoá việc TKBG của GV, góp phần nâng cao hiệu dạy học. Mặt khác các phương tiện, thiết bị kĩ thuật của CNTT cho phép người GV có thể tiết kiệm được nhiều thời gian ở trên lớp, HS có nhiều thời gian để học tập, nghiên cứu hơn. Quá trình trao đổi diễn ra nhiều hơn, qua đó làm tăng khả năng tiếp thu kiến thức của HS. Như vậy, từ những vai trò to lớn ấy của CNTT đối với việc dạy học và TKBG, chúng ta thấy rằng cần thiết phải ứng dụng CNTT để nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả dạy học. Về phía HS: Hầu hết HS đều chưa có tính tích cực, chủ động trong giờ học Địa lí bởi vì đa số các em đều cho rằng "Địa lí là môn học phụ". Do đó, trong giờ học trên lớp, các em chưa tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài mà chủ yếu thụ động ngồi ghi bài. Vấn đề tự học ở nhà, làm bài tập hay việc học với bản đồ, lược đồ, biểu đồ còn rất ít nếu không nói đến việc tự tham khảo tài liệu khác để bổ sung kiến thức. Bên cạnh đó, nội dung học hiện nay chủ yếu của HS là học theo vở ghi bài ở trên lớp và SGK, nên kết quả học tập của HS chưa đạt ở mức cao. Về phía GV: Việc sử dụng các phương pháp giảng dạy của GV và TKBG địa lí hiện nay vẫn theo kiểu truyền thống là chủ yếu, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong đổi mới PPDH như sử dụng một số PPDH tích cực song phần lớn GV vẫn 12
  13. TKBG theo cấu trúc nội dung trình bày sẵn trong SGK và giảng dạy theo phương pháp thuyết trình là chính. Học sinh dựa vào kiến thức đã biết và kiến thức có trong SGK để trả lời câu hỏi, sau đó GV nhận xét lại nội dung câu trả lời của HS rồi tiếp tục trình bày nội dung bài giảng. Còn TKBG theo phương pháp dạy học tích cực thì hầu như rất ít (đặc biệt là ứng dụng CNTT trong TKBG ). Vì vậy, làm cho HS tiếp thu tri thức một cách thụ động, không khí lớp học luôn gò bó, nặng nề. Hơn nữa, thực tiễn việc TKBG của một số GV còn thiếu sự hướng dẫn của lý thuyết nghiệp vụ, do đó thiếu chủ động sáng tạo, thậm trí còn sa vào tình trạng rập khuôn, bắt chước. Mặc dù nắm khá chắc chuyên môn, nhiều GV có thâm niên công tác và rất quen thiết kế những bài theo kiểu mới "Phù hợp với xu hướng phát triển của lý luận dạy học và tiến bộ của khoa học kĩ thuật". Sở dĩ còn có những tồn tại như trên là do những nguyên nhân sau: - Hiện nay, quan niệm của HS về vị trí, chức năng của môn địa lí ở nhà trường phổ thông là môn học phụ. Do đó, điều này cũng phần nào làm cho GV chưa mạnh dạn đổi mới PPDH theo hướng tích cực. - Điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho việc dạy học địa lí ở một số trường phổ thông còn thiếu (nhất là các trường ở nông thôn và miền núi). Trình độ tin học của GV còn hạn chế, kinh phí cho việc mua sắm trang thiết bị còn hạn hẹp nên việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy địa lí ở nhà trường phổ thông chưa phổ biến. - Các hoạt động chỉ đạo, nghiên cứu, bồi dưỡng GV, thanh tra,... chỉ chú ý đến sự đầy đủ, chính xác trong việc truyền thụ kiến thức của giáo viên, nội dung SGK, hay việc kiểm tra còn nặng về hình thức đánh giá khả năng ghi nhớ, tái hiện kiến thức mà ít quan tâm đến hoạt động của HS. - Những thông tin cần thiết về việc nghiên cứu, đổi mới các PPDH, những quy trình cụ thể cho việc áp dụng các PPDH và TKBG cho GV đang còn thiếu. Qua một số vấn đề cơ bản mang tính lý luận và thực tiễn của quá trình Dạy - Học môn địa lí ở trường THPT trong đó có việc ứng dụng CNTT trong TKBG mà chúng ta đã nhận thức được: Thực trạng và sự cần thiết phải đổi mới việc TKBG trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới sẽ gặp nhiều khó khăn và thử thách trong hoàn cảnh chúng ta đang thiếu khá nhiều về phương tiện dạy học cả truyền thống và hiện đại. Cần tác động trên một vài yếu tố như: Năng lực chuyên môn của GV, trình độ nhận thức và kĩ năng học tập bộ môn của HS, linh hoạt trong quá trình TKBG, thực hiện bài giảng tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể của chương trình, nội dung, môi trường nhà trường, chúng ta có thể đạt được những hiệu quả nhất định. Cần tiến hành thay thế các PPDH truyền thống bằng các PPDH tích cực, cũng như việc thay thế TKBG truyền thống bằng việc TKBG có ứng dụng CNTT. 13
  14. 2.1.2.4. Thực trạng về ứng dụng CNTT trong dạy học địa lí ở trường THPT Con Cuông Năm học 2020 – 2021 trường THPT Con Cuông có 4 giáo viên dạy địa lí, toàn trường có 3 phòng máy chuyên biệt với 48 máy tính; bên cạnh đó, từ năm học 2019 – 2020, tất cả các lớp học của trường đều được trang bị tivi màn hình lớn và có cài đặt mạng nên việc ứng dụng CNTT vào dạy học thuận tiện hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trình độ tin học của đội ngũ GV trong nhà trường còn hạn chế và không đồng đều; các GV lớn tuổi chỉ mới tiếp cận sử dụng CNTT, tự nghiên cứu học tập sử dụng máy vi tính chứ chưa được đào tạo cơ bản nên còn hạn chế về một số những kỹ năng cơ bản như kỹ năng soạn thảo; kỹ năng tổng hợp tính toán; kỹ năng khai thác nguồn tư liệu trên mạng; kỹ năng sử dụng máy móc thiết bị…do vậy ngại tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, ngại đổi mới trong ứng dụng CNTT trong công tác quản lý và giảng dạy, điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trìnhdạy học vẫn chưa phát huy hiệu quả; một số GV trẻ sử dụng thành thạo thiết bị CNTT nhưng do thiếu kinh nghiệm giảng dạy nên chưa tạo được sự đổi mới phương pháp dạy học. Việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH trong đội ngũ GV nói chung và GV địa lí nói riêng chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng lạm dụng CNTT trong các tiết dạy trên lớp, đưa tiết dạy thành tiết trình chiếu kiến thức trên màn hình; một số GV khi thiết kế bài giảng bằng PowerPoint đã sử dụng những hình ảnh, font chữ, màu chữ lòe loẹt, hoặc những hiệu ứng không hợp lý làm cho HS chú ý nhiều vào hiệu ứng mà sao lãng nội dung bài học. Công việc ứng dụng CNTT chưa thực sự là đam mê thường xuyên của đội ngũ GV, nhiều khi làm theo phong trào, chỉ thực hiện khi tham gia các cuộc thi “thiết kế bài giảng, thiết kế giáo án điện tử” và các tiết Hội giảng, thi GV dạy giỏi. Đối với HS, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, thói quen học kiểu “ đọc - chép”, “ghi - chép” và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì GV viết, trình bày trên bảng, chưa có thói quen chủ động trong việc tổng hợp kiến thức thông qua bài giảng, do vậy phần nào ảnh hưởng đến việc ứng dụng CNTT trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy của GV. 2.2. Ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng và dạy học địa lí THPT 2.2.1. Nguyên tắc và qui trình thiết kế bài giảng địa lí có ứng dụng công nghệ thông tin 2.2.1.1. Nguyên tắc thiết kế bài giảng địa lí có ứng dụng công nghệ thông tin Khoa học kĩ thuật phát triển, đặc biệt là sự đời của máy tính đã góp phần tạo ra sự thay đổi lớn lao của xã hội. Đối với ngành giáo dục, việc đưa máy tính và ứng dụng tin học vào giảng dạy là một điều kiện thiết yếu để hiện đại hoá giáo dục, đáp ứng việc thực hiện những yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ mà ngành giáo dục đặt 14
  15. ra. Đối với môn địa lí trong nhà trường phổ thông, việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và TKBG sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho việc dạy và học. Chương trình địa lí THPT có nhiều loại bài giảng khác nhau (Bài giảng kiến thức mới, bài thực hành, bài ôn tập,... ) nhưng để ứng dụng CNTT vào TKBG một cách có hiệu quả thì cần phải tuân theo những nguyên tắc sau: - Phải đảm bảo đầy đủ nội dung cơ bản của bài học theo đúng quy định của Bộ GD& ĐT. - Người GV phải nắm vững những điều kiện dạy học và trình độ học vấn của HS. Có như vậy mới có thể đưa ra những phương pháp phù hợp giúp HS đạt được những yêu cầu của bài theo mục tiêu đề ra. - Bản TKBG phải được tiến hành trên cơ sở những định hướng mục tiêu giáo dục chung của đất nước. Đồng thời phải thể hiện được sự đổi mới trong PPDH để có thể phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, khơi gợi ở các em sự ham học, tình yêu quê hương đất nước và học tập, phấn đấu vì sự phồn vinh của Tổ quốc. - Chọn và trình bày kiến thức một cách ngắn gọn: Các kiến thức cơ bản của bài khi đưa vào máy tính (Microsoft PowerPoint) phải được trình bày một cách gắn gọn, dễ hiểu. Chú ý sử dụng sơ đồ, bảng biểu, các mũi tên chỉ mối liên hệ các ô chữ nhỏ để trình bày kiến thức, tránh viết dài dòng. Đồng thời phải lưu ý bố cục làm nổi bật tính trực quan, dễ đọc, gây ấn tượng. - Sắp xếp các ô trình diễn (Slide) một cách khoa học: Các ô trình diễn tiếp nối ở Microsoft Power Point phải thể hiện logic cấu trúc bài dạy học, do đó phải bao gồm cả kênh chữ lẫn kênh hình, cả câu hỏi và nhiệm vụ giao cho HS lẫn các đoạn kết luận, giải thích gắn gọn. Việc sắp xếp các thành phần này như thế nào là do ý tưởng về PPDH của GV. Tuy nhiên để phát huy tính tích cực học tập của HS cần tránh trình chiếu “ một chiều” các kiến thức. Cần phải thiết kế bài dạy theo một cấu trúc nội dung hợp lí xen với các câu hỏi, nhiệm vụ một cách thích hợp để tạo điều kiện hướng dẫn HS làm việc với biểu đồ, bảng số liệu, tranh ảnh, hình vẽ, từ đó các em rèn luyện được kĩ năng quan sát, phân tích, tổng hợp, khái quát... - Giới hạn mở rộng phần minh hoạ: Các hình ảnh (bản đồ, Biểu đồ, tranh ảnh, ...) và các kiến thức khác kết nối với bài học chủ yếu có tác dụng bổ sung, mở rộng, đi sâu hoặc minh hoạ các kiến thức cơ bản của bài. GV cần lưu ý phạm vi mở rộng, đi sâu đến đâu cũng cần phải tránh làm loãng trọng tâm của bài học và phân tán sự chú ý của HS vào kênh chính của bài học. - Kết hợp linh hoạt các PPDH, hình thức tổ chức dạy học với sử dụng Microsoft Power Point. 15
  16. Trình diễn Microsoft Power Point có tác dụng tốt do vậy cần phải sử dụng Power Point kết hợp với bài giảng, trình bày, đặt câu hỏi, ... hướng dẫn cụ thể của GV. Đồng thời trong bài dạy không phải chỉ sử dụng Power Point từ đầu đến cuối giờ học mà có thể xen kẽ với các phương tiện dạy học khác như: Phiếu học tập, Átlat địa lí, SGK, mẫu vật, ... để HS trình bày kết quả làm việc của mình trước lớp một cách thuận lợi. Các hoạt động của HS với Power Point như cá nhân, theo nhóm nhỏ, nhóm cặp đôi, trò chơi học tập cũng cần được sử dụng một cách linh hoạt. 2.2.1.2. Qui trình thiết kế bài giảng địa lí có ứng dụng CNTT Trong chương trình địa lí THPT có rất nhiều nội dung được thể hiện, tuỳ vào từng nội dung mà có kiểu bài giảng khác nhau. Đó là bài giảng kiến thức mới, bài thực hành, bài ôn tập, bài kiểm tra, ... Dù là kiểu bài giảng nào thì khi thiết kế có sử dụng CNTT cơ bản cũng phải theo quy trình sau đây: a. Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài dạy Tìm hiểu nội dung bài dạy là công việc đầu tiên và hết sức quan trọng đối với người giáo viên khi TKBG. Để có một giờ dạy thành công người GV cần tìm ra các phương pháp dạy phù hợp, xác định rõ kiến thức cơ bản, dung lượng của nó cũng như những yêu cầu về phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng cho HS. Có như vậy ta mới phát hiện ra những phương án dạy học phù hợp với từng nội dung, từng yêu cầu của bài học với những nội dung khác nhau: - Tên bài dạy. - Thời lượng. - Kiến thức cơ bản. - Yêu cầu về rèn luyện kĩ năng. - Thái độ, tình cảm. - Phương pháp. b. Bước 2: Thu thập tài liệu bổ sung, mở rộng kiến thức Sau khi tìm hiểu nội dung yêu cầu của bài học để có thể làm cho HS nắm bắt được kiến thức dễ dàng, đồng thời mở rộng, nâng cao, đào sâu nội dung dạy học thì người GV cần phải sưu tầm thêm tài liệu, tư liệu, bổ sung thêm kiến thức từ sách báo, đĩa mềm tra cứu, mạng Internet... phù hợp với nội dung bài giảng và trình độ của HS. Như vậy, GV không chỉ làm phong phú hơn nội dung dạy học, mở rộng kiến thức và với các kiến thức ngoài SGK hết sức hữu ích, hợp lí, góp phần nâng cao niềm đam mê học tập của HS, đồng thời tạo ra hứng thú để các em tự tìm tòi khám phá các kiến thức mới ngoài giờ học trên lớp. 16
  17. c. Bước 3: Xây dựng kịch bản cho việc thiết kế bài giảng trên máy Đây là một khâu quan trọng trong việc thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT. Trong phần kịch bản này, GV có thể thực hiện toàn bộ các ý tưởng của mình, trong đó: Dự kiến việc thể hiện nội dung bài giảng bằng các khái niệm, các sự vật - hiện tượng, quy luật hay các phần tiểu kết, hệ thống hoá, khái quát hoá một nội dung, một vấn đề khoa học bằng ngôn ngữ và hình ảnh (Chữ, số liệu, biểu đồ. lược đồ, bản đồ, hình vẽ, video...) tiếp nối nhau theo một quy trình chặt chẽ có lôgic, phù hợp với nội dung khoa học, trình độ nhận thức của học sinh và lí luận dạy học bộ môn. Như vậy, xây dựng kịch bản cần thiết thực hiện hai công việc: công việc đầu tiên là xây dựng kịch bản văn học, sau đó mới tiến hành xây dựng kịch bản hình ảnh, âm thanh,… - Ý tưởng thiết kế: Khi đã nắm được nội dung kiến thức cơ bản cần truyền đạt và thu thập đủ tài liệu cần thiết cùng những kiến thức minh hoạ cho bài dạy. Người GV tiến hành xây dựng kịch bản, trong đó thể hiện: + Kết hợp được các PPDH nhằm phát huy được tính tích cực của HS. + Kết hợp được ngôn ngữ của máy tính với phương pháp của người GV + Tạo được tính linh hoạt của bản thiết kế thể hiện bài giảng trên máy vi tính. - Viết kịch bản: Trong TKBG người GV phải dự kiến được những nội dung kiến thức cơ bản, hình ảnh, video clip... Số lượng các Slide chính, phụ cần thiết cho toàn bộ bài giảng. d. Bước 4: Thể hiện kịch bản trên máy Đây là bước làm ra sản phẩm của kịch bản được viết, thể hiện ý đồ của toàn bộ kịch bản đã viết ra. Song có một điều đáng chú ý: Bài giảng được thiết kế bằng CNTT cũng là một phương tiện dạy học. Do vậy, nó vẫn phải đảm bảo những tính chất cơ bản cần có, đó là tính khoa học, tính sư phạm, tính thẩm mỹ như bất cứ một phương tiện dạy học địa lí nào khác. - Để TKBG bằng CNTT người GV cần phải có các phương tiện sử dụng cần thiết như: Máy tính (có nối mạng), các phần mềm và đĩa CD có nội dung liên quan. e. Bước 5: Điều chỉnh kịch bản, lưu và sử dụng Sau đó có thể ghi vào USB, đĩa CD hoặc gửi lên mail cá nhân để tiện lợi cho việc bảo quản cũng như sử dụng. 2.2.2. Tổng quan về một số phần mềm hỗ trợ TKBG địa lí 2.2.2.1. Bộ Microsoft Office 17
  18. Microsoft Office là một phần mềm bao gồm các chương trình ứng dụng có thể sử dụng một cách riêng lẻ và được thiết kế theo nhóm. Các chương trình ứng dụng có thể được sử dụng để tạo trao đổi thông tin và quản lí các dự án. Phần mềm Microsoft Office này được đóng gói trong một tập hợp bao gồm các thành phần khác nhau( Word, Excel, Access, Power point, Outlook Express, Fontpage). Trong đó 4 phần chính của bộ Microsoft Office này là: - Microsoft Word: Công cụ soạn thảo văn bản - Microsoft Excel: Bảng tính điện tử - Microsoft Access: Hệ quản trị cơ sở dữ liệu - Microsoft Power Point: Công cụ trình chiếu Tất cả các thành phần này đều có tiện ích trong các công đoạn của TKBG như: Soạn thảo, tính toán, xử lí số liệu, xây dựng biểu đồ, quản lí số liệu, trình diễn bài giảng. 2.2.2.2. Hệ thống thông tin Địa lí GIS (Geographic Information System) Hệ thống thông tin Địa lí GIS ra đời đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX và ngày càng phát triển trên nền tảng của công nghệ máy tính, phân tích dữ liệu không gian và quản lí dữ liệu. GIS là một tổ hợp bao gồm phần cứng, phần mềm máy tính, dữ liệu và được con người thiết kế nhằm nắm bắt, lưu trữ, cập nhật thông tin, điều khiển, phân tích, kiết xuất tất cả các dạng thông tin có liên quan đến địa lí. Vì vậy, GIS đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của khoa học địa lí: - Tích hợp thông tin không gian và các loại thông tin khác về không gian trong cùng một hệ thống đơn giản. Nó đưa ra một khuôn mẫu nhất quán để phân tích thông tin địa lí. - Cho phép trình bày và tính toán các kiến thức địa lí theo một cách mới, hấp dẫn. - Cho phép nối các hoạt động có sự khác nhau về kiến thức địa lí. - Nhập dữ liệu từ những nguồn dữ liệu khác nhau, lưu trữ và duy trì thông tin, thao tác trên dữ liệu, tìm kiếm, tính toán, lập mô hình ứng dụng, trình diễn sản phẩm với những dạng khác nhau như bảng biểu, hình ảnh video, ảnh số, bản đồ số, … Với những ưu điểm trên của GIS, GV địa lí có rất nhiều thuận lợi để khai thác các thông tin địa lí trong quá trình TKBG và giảng dạy. 2.2.2.3. Chương trình MapInfo MapInfo Là một chương trình phần mềm để xây dựng các hệ thống thông tin địa lí. Các thông tin trong Mapinfo được tổ chức theo từng bảng (Table), mỗi một Table là một tập hợp các File về thông tin đồ hoạ hoặc phi đồ hoạ chứa các bản ghi dữ liệu mà hệ thống tạo ra. Tổ chức thông tin theo các lớp đối tượng là một tập hợp 18
  19. các đối tượng bản đồ thuần nhất, thể hiện quản lí các đối tượng địa lí trong không gian theo một chủ đề cụ thể, phục vụ một mục đích nhất định trong hệ thống. Với cách tổ chức thông tin theo từng lớp đối tượng như vậy đã giúp cho phần mềm MapInfo xây dựng thành các khối thông tin độc lập cho từng mảnh bản đồ máy tính. Vì vậy, GV có thể sử dụng nghiên cứu hoặc xây dựng các bản đồ, kiết xuất các bản đồ để phục vụ công tác giảng dạy nói chung và TKBG nói riêng. 2.2.2.4. Các phần mềm tra cứu a. Encarta Wold Atlat: Là phần mềm có nhiều nội dung về địa lí. Thông qua các phần mềm này có thể khai thác nhiều nội dung kiến thức về các nền KT-XH, văn hoá nghệ thuật, tôn giáo, .... Đồng thời nó còn chứa một kho dữ liệu ảnh phong phú về các nước trên thế giới, các đoạn video clip có thể sao chép một cách dễ dàng. Phần mềm này cho phép GV và HS khai thác được hệ thống dữ liệu của các quốc gia trên thế giới để nghiên cứu về đặc điểm tự nhiên, KT- XH cũng như sự phát triển của từng quốc gia theo chương trình học tập. b. Fc Fact: Là một phần mềm địa lí có nhiều tư liệu quý và cần thiết đối với GV địa lí. Phần mềm dễ sử dụng không đòi hỏi người sử dụng phải biết nhiều tiếng Anh và sử dụng những lệnh phức tạp. Trong phần mềm này, GV có thể khai thác nhiều loại bản đồ phục vụ cho giảng dạy như: Các loại bản đồ hành chính, tự nhiên, KT-XH, dân số hay bản đồ để trống của từng quốc gia, khu vực và phạm vi toàn thế giới. Ngoài ra, phần mềm còn cung cấp các tri thức địa lí phong phú ở nhiều lĩnh vực cả tự nhiên, KT-XH (các tháp tuổi dân số, biểu đồ số liệu dân số, kinh tế của tất cả các nước trên thế giới, các tư liệu tóm tắt về lịch sử, hành chính, chính trị, bảng danh mục gần 10000 địa danh trên thế giới về núi, sông, biển, hồ...sơ đồ chỉ vị trí của khoảng 4500 thành phố trên thế giới, quốc kì, quốc ca các nước...). 2.2.2.5. Internet Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật đã tác động tới tất cả các lĩnh vực của nền KT-XH, làm cho khối lượng kiến thức của các ngành khoa học tăng lên nhanh chóng trong đó có cả khoa học địa lí. Sự bùng nổ thông tin trên toàn thế giới hiện nay đã dẫn đến nguồn tri thức ngày càng đa dạng và vô cùng phong phú. Chúng ta có thể lấy được nguồn tư liệu cần thiết từ bất cứ đâu và từ nhiều phương tiện khác nhau, đặc biệt là từ Internet. Internet là một kho lưu trữ khổng lồ về thông tin, truy cập cũng rất dễ dàng và thuận tiện. Sự phát triển của CNTT nói chung và mạng Interet trên phạm vi toàn cầu nói riêng đã tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi đối với ngành GD - ĐT. Có thể nói việc sử dụng Internet đã tạo ra nhiều cơ hội có ý nghĩa to lớn trong việc dạy học địa lí nói chung và việc thiết kế bài giảng địa lí nói riêng. Với ưu thế của một nguồn thông tin khổng lồ, cập nhật, phong phú về mọi thể loại, 19
  20. Internet góp phần phát triển mọi năng lực, tri thức phục vụ cho việc giảng dạy của GV và học tập của HS. + GV có thể khai thác từ Internet một khối lượng thông tin phong phú dưới dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh...để phục vụ cho việc TKBG hoặc dạy học. + Nhờ Internet GV có thể tiếp cận với các nguồn tư liệu về Địa lí KT- XH thế giới, trong nước, thuận tiện hơn cho việc TKBG, soạn thảo các phiếu học tập cho HS. + Với nguồn tri thức phong phú đa dạng từ Internet, GV có thể tìm được những thông tin bổ sung có giá trị để giúp HS có thể hiểu bài một cách sâu sắc hơn, hoàn thành các bài tập ở nhà, các báo cáo... Sử dụng Internet như là một công cụ dạy học hiện đại (ở những nơi có điều kiện) thì chính Internet góp phần thể hiện sự phong phú trong việc đổi mới phương pháp theo hướng tích cực, hiện đại hoá người học - tức là dạy học bộ môn địa lí theo hướng thầy thiết kế - trò thi công. Rõ ràng việc thiết kế bài giảng có sử dụng Internet đòi hỏi nhiều công phu của người thầy, đồng thời lại có thể phát huy được trí tuệ của nhiều HS trong quá trình học tập. Lớp học sẽ được tổ chức thành nhóm với các máy vi tính được nối mạng nội bộ và Internet, HS sẽ thực hiện một nhiệm vụ học tập trong một khoảng thời gian nhất định với sự giúp đỡ của GV. GV phải có các phần TKBG linh hoạt để hỗ trợ cho HS đồng thời giúp đỡ HS tìm kiếm, lựa chọn đánh giá thông tin và kết quả học tập. Như vậy, sẽ tạo cơ hội cho HS vừa làm việc độc lập, vừa hợp tác, do đó kết quả của việc dạy học sẽ cao hơn rất nhiều. GV có thể lấy thông tin từ Internet nhằm bổ trợ, cập nhật nội dung kiến thức SGK (vì tính chất của SGK là luôn lỗi thời so với thời điểm dạy học). Có thể tìm kiếm ở Internet các bản đồ, hình ảnh phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho bài học. Một ưu thế trong TKBG có sử dụng Internet là khi máy tính nối mạng thì ngay trong quá trình dạy học GV có thể khai thác thông tin trực tiếp, nói đúng hơn là TKBG dạng mở phục vụ cho bài học. Trong việc học tập của HS, với cách TKBG của GV có sử dụng Internet thì HS có thể tìm thêm, tự nghiên cứu sâu hơn vấn đề mà GV đặt ra trong bài học, hoặc ở SGK chưa thể hiện rõ ngay trên lớp hoặc về nhà. Như vậy, TKBG có sử dụng Internet còn góp phần nâng cao năng lực về mọi mặt cho GV cũng như phát huy năng lực trí tuệ, kỹ năng của HS. Tóm lại, Internet là một công cụ đặc biệt đối với việc dạy học nói chung và dạy học địa lí nói riêng, là nguồn tư liệu vô cùng quan trọng đối với việc TKBG theo quan điểm dạy học mới tích cực. Vì thế, cần phải đẩy mạnh việc tăng cường những kỹ năng dạy học và làm việc với máy vi tính nối mạng Internet cho GV và HS cũng như đầu tư thêm về cơ sở vật chất kỹ thuật cho các trường học. Điều đó sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao kỹ năng dạy học của GV và khả năng tự học của HS cũng như hứng thú với bộ môn địa lí. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2