intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Grap trong việc hình thành kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:46

8
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Sử dụng Grap trong việc hình thành kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT" được hoàn thành với mục tiêu nhằm giúp học sinh vận dụng sơ đồ tư duy Graph hình thành các kĩ năng, kĩ xảo để viết được một đoạn văn nghị luận xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới, kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục & Đào tạo cho học sinh cấp THPT nói chung và học sinh lớp 12 ôn thi THPTQG.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Grap trong việc hình thành kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI TRƯỜNG THPT THANH OAI A SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG GRAP TRONG VIỆC HÌNH THÀNH KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH THPT Lĩnh vực/ Môn: Phương pháp dạy học Ngữ Văn Cấp học: Trung học phổ thông Tác giả: Hà Thị Hương Đơn vị công tác: Trường THPT Thanh Oai A Chức vụ: Giáo viên Ngữ Văn NĂM HỌC: 2022-2023
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI TRƯỜNG THPT THANH OAI A SƠ YẾU LÍ LỊCH Họ và tên: Hà Thị Hương Ngày sinh: 30/08/1987 Năm vào ngành: 01/10/2010 Đơn vị công tác: Trường THPT Thanh Oai A Chức vụ: Giáo viên Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Bộ môn giảng dạy: Ngữ Văn Năm học: 2022 - 2023
  3. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài 1. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật hiện đại đã dẫn đến nhiều những tri thức, những kĩ năng và nhiều lĩnh vực ứng dụng công nghệ mới cho mọi ngành khoa học. Trước những thay đổi cấp thiết ấy, nếu con người không tiếp cận được những tri thức mới, những hiểu biết mới thì họ sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu với thời cuộc dẫn tới xu hướng bị đào thải. Những thành quả của các cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện đến tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội, đặc biệt trong đó có giáo dục. Sự ra đời của lí thuyết đồ thị Graph cũng là một trong những thành tựu khoa học kĩ thuật trong đổi mới phương pháp dạy và học của giáo viên và học sinh hiện nay trong nhà trường. 2. Ngày nay khi có nhiều ngành khoa học có xu hướng phân nhỏ thành nhiều bộ phận, thành nhiều lĩnh vực để nghiên cứu chuyên sâu thì đồng thời với quá trình đó, giáo dục cũng có sự ảnh hưởng sâu sắc và có sự chuyển biến rộng rãi. Trong lĩnh vực giáo dục, sự xâm nhập của nhiều ngành khoa học khác nhau được coi là việc tích hợp liên môn giữa các ngành khoa học với nội dung, đơn vị kiến thức cần đạt được. Đặc biệt nó lại càng quan trọng trong việc hình thành các phương pháp dạy học khác nhau. Việc chuyển hóa các phương pháp khoa học thành phương pháp dạy học, thông qua xử lí sư phạm là một trong nhiều hướng của chiến lược đổi mới toàn diện và hiện đại hóa các phương pháp dạy học. 3. Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là một trong những yêu cầu cấp thiết và mạnh mẽ trong thời đại ngày nay khi mà cả thế giới đang trong quá trình hội nhập và phát triển mạnh mẽ việc ứng dụng các kĩ thuật khoa học tiên tiến vào khoa học giáo dục toàn cầu. Trong Nghị quyết BCH Trung Ương Đảng lần thứ II – khóa VIII đã chỉ rõ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp Giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên.” Vì vậy đổi mới phương pháp dạy và học trong nhà trường, nhất là trong nhà trường phổ thông hiện nay càng là vấn đề trọng tâm nâng cao chất lượng đội ngũ dạy và học trong ngành Giáo dục nước nhà. 4. Môn Ngữ văn là một bộ môn quan trọng và mang tính đặc thù riêng trong chương trình Giáo dục Trung học Phổ thông hiện nay. Chúng ta đều biết rằng môn Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong việc đào tạo con người, bồi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh. Nhà văn Nga lỗi lạc M.Gorki đã từng viết : “Văn học là nhân học”. Giáo sư Hà Minh Đức từng khẳng định “Văn học
  4. không chỉ là một nguồn tri thức mà còn là nguồn năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức cho con người trong cuộc sống”. Điều này đã được thực tế chứng minh từ ngàn năm về trước. Từ tầm quan trọng của văn học đối với việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, mỗi giáo viên dạy văn không chỉ xác định cho mình một nhiệm vụ đơn giản là cung cấp cho học sinh một lượng tri thức nhất định, mà quan trọng hơn là người giáo viên thông qua các bài giảng của mình làm cho học trò “tự cảm thấy môn văn thật sự cần thiết cho sự khôn lớn tinh thần” (Nghĩ từ công việc dạy văn (Trang 185) – Đỗ Kim Hồi – NXBGD) của các em, làm cho các em thấy được thấm vào từng trang văn là tâm hồn, là trí tuệ, là những nghĩ suy, trăn trở, là tâm sự của nhà văn trước cuộc đời, là tấc lòng mà nhà văn muốn gửi gắm đến các thế hệ độc giả của mình. Xuất phát từ điều đó, mỗi giáo viên phải biết phát huy tối đa sức mạnh của mỗi giờ dạy văn của mình, để mỗi giờ văn trôi qua trong niềm vui, sự hứng khởi và thích thú của học trò và học sinh thật sự cảm thấy khôn lớn sau mỗi giờ dạy văn. Vậy làm thế nào để đạt hiệu quả cao trong mỗi giờ dạy văn? Đây cũng là điều trăn trở của biết bao thầy cô giáo trong sự nghiệp trồng người của chính mình. 5. Theo xu hướng đổi mới hiện nay, văn học phải gắn liền với cuộc sống tức là học Văn phải giúp các em ứng dụng trực tiếp vào cuộc sống hiện tại và lâu dài. Và điều đó, phân môn Làm văn đảm nhiệm một phần không nhỏ trong việc hướng các em đến với những vấn đề xã hội, tìm tòi nghiên cứu và giải quyết các vấn đề ấy. Thật vậy, phân môn Làm văn có mối quan hệ chặt chẽ với Văn học và Tiếng việt để tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh đạt được mục tiêu cuối cùng của bộ môn Ngữ văn ở nhà trường THPT. Trong nhà trường, ở tất cả các cấp học, phân môn Làm Văn luôn giữ một vai trò quan trọng trong việc rèn luyện, bồi dưỡng các kĩ năng tạo lập ra văn bản, kĩ năng giao tiếp cho học sinh – một trong những kĩ năng cơ bản của bộ môn Ngữ văn. Theo yêu cầu kiểm tra đánh giá định kì và hình thức thi cử hiện nay, phân môn Làm văn có tác dụng đặc biệt quan trọng đối với kết quả học tập của học sinh, chiếm tỉ lệ 7-8 / 10 điểm trong kì thi THPTQG cho học sinh khối 12. Đưa kiểu bài Nghị luận xã hội trở thành một nội dung trong các bài thi ở các khối lớp là một chủ trương đúng đắn của việc đổi mới phương pháp học và dạy Văn hiện nay. Học Văn, các em không chỉ biết có tác phẩm, giá trị tư tưởng của tác phẩm, cái hay cái đẹp của ngôn từ, tài năng nghệ thuật độc đáo của nhà văn mà còn giúp các em biết những vấn đề của cuộc sống, những vấn đề diễn ra xung quanh các em, những vấn đề liên quan đến phẩm chất đạo đức của con người, lối sống, quan niệm, cách sống… từ đó các em chọn cho mình một quan điểm và cách sống phù hợp, có ích, có ý nghĩa cho bản thân và xã hội. Nghị luận xã hội đóng vai trò quan trọng cũng là vì vậy. Hơn thế nữa, Nghị luận xã hội
  5. là một kiều bài rất có khả năng kích thích tư duy sáng tạo của các em học sinh. Nó đưa ra những vấn đề bức thiết của xã hội để các em suy nghĩ, đưa ra những quan niệm, những tư tưởng đạo lí của các bậc danh nhân cho tới những tấm gương thiết thực mà hàng ngày các em tiếp xúc qua các phương tiện đại chúng như: Báo đài, báo mạng … để các em có thể nhận thức, thảo luận, bàn bạc và tìm cách giải quyết thấu đáo các vấn đề xã hội, lấy đó là bài học sâu sắc cho bản thân. Với mục tiêu thiết thực ấy, các em sẽ làm quen với các vấn đề như: Môi trường sống, Giao thông hiện nay, các tệ nạn xã hội, bệnh vô cảm, bệnh thành tích trong học tập và thi cử… Đó cũng là những vấn đề về cách nhìn nhận như: Phẩm chất đạo đức lối sống, quan niệm sống, ý chí, khát vọng, bản lĩnh sống vượt qua khó khăn… Tất cả những vấn đề cấp thiết đó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan của các em từ khi còn ngôi trên ghế nhà trường. 6. Theo yêu cầu của Bộ Giáo dục & Đào tạo về việc đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh THPT, kì thi THPTQG năm 2017, trong đề thi Ngữ văn yêu cầu học sinh viết một đoạn văn Nghị luận xã hội (khoảng 200 từ) thay cho một bài nghị luận xã hội như trước đây. Nếu các năm trước, học sinh đang làm quen với bài làm văn nghị luận xã hội thì việc đôi mới sang hình thức viết đoạn văn sẽ làm cho học sinh có những lúng túng và bỡ ngỡ. Với học sinh THPT, việc viết một bài văn Nghị luận xã hội đã khó, nay phải viết đoạn văn Nghị luận xã hội quả là một thử thách. Và từ việc cấp thiết của vấn đề, cộng hưởng với tinh thần ứng dụng các kĩ thuật phương pháp tiên tiến trong việc hành thành kĩ năng, kĩ xảo cho người dạy và học, tôi mạnh dạn ứng dụng lí thuyết và phương pháp dùng sơ đồ tư duy vào việc hình thành kĩ năng viết đoạn văn Nghị luận xã hội cho học sinh cấp THPT. Với mong muốn giúp học sinh tiếp cận vấn đề, giải quyết các vấn đề và viết tốt đoạn văn Nghị luận xã hội khoảng 200 từ, tôi sử dụng phương pháp này như một bước đệm trong bước khởi đầu hình thành kĩ năng Làm văn nghị luận cho các em, ứng dụng của phương pháp này sẽ giúp các em hình thành kĩ năng không chỉ viết đoạn văn mà còn viết bài văn nghị luận và giải quyết những vấn đề, hiện tượng trong đời sống thực tế của các em. II. Mục đích nghiên cứu: Người viết nghiên cứu đề tài với mục đích giúp học sinh vận dụng sơ đồ tư duy Graph hình thành các kĩ năng, kĩ xảo để viết được một đoạn văn nghị luận xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới, kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục & Đào tạo cho học sinh cấp THPT nói chung và học sinh lớp 12 ôn thi THPTQG.
  6. III. Đối tượng nghiên cứu - Lí thuyết Graph và việc ứng dụng của Graph trong việc dạy học Làm văn nghị luận. - Cấu trúc một đoạn văn - Các kĩ năng hình thành một đoạn văn nghị luận xã hội (khoảng 200 từ) trong đề thi. - Học sinh THPT, nhất là học sinh khối 12 chuẩn bị tham gia kì thi THPTQG năm 2023. IV. Phương pháp nghiên cứu Với chuyên đề này, người viết sử dụng các phương pháp: - Phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Phương pháp thuyết trình - Phương pháp khảo sát thực tế.
  7. B. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Lí thuyết về Graph Về mặt lịch sử, lí thuyết Graph ra đời từ 200 năm trước đây trong quá trình giải các bài Toán đố. Đến những năm 30 của thế kỉ XX, lí thuyết Graph mới được xem như một ngành Toán học riêng biệt, được trình bày trong công trình của Konig – nhà Toán học người Hunggari. Cho đến năm 1965, A.M. Xokhor là người đầu tiên đã vận dụng một số quan điểm của lí thuyết Graph để mô hình hóa nội dung của tài liệu sách giáo khoa. Nhờ đó, Xokhor đã trực quan hóa được những mối liên hệ bản chất giữa các khái niệm tạo nên tài liệu giáo khoa đó. Nói cách khác, ông đã giải thích cho một đề tài mà ông gọi là : Cấu trúc logic của kết luận hay lời giải thích. Nhờ đó, học sinh nhớ lâu hơn, rõ ràng hơn và vận dụng có hiệu quả hơn nội dung của tài liệu. Cũng cùng năm 1965, dựa vào cách làm của Xokhor, V.X.Poloxin đã dùng Graph để diễn tả trực quan những diến biến của một tình huống dạy học. Năm 1972, V.P. Garkunop tiếp tục dùng Graph để mô hình hóa các tình huống dạy học nêu vấn đề và phân loại chúng. Tuy nhiên cả Xokhor, Poloxin, Garkunop đều mới chỉ sử dụng Graph như một công cụ thực nghiệm nghiên cứu khoa học về lí luận dạy học chứ chưa sử dụng lí thuyết này vào dạy học ở trên lớp. Vì thế sau này nhiều nhà khoa học, các nhà Sư phạm thông qua nghiên cứu lí thuyết và kinh nghiệm thực tế giảng dạy đã nhận thấy rõ hơn hiệu quả của giờ lên lớp khi dạy học bằng Graph. Đặc biệt là Baxakep – tác giả đã nghiên cứu vận dụng lí thuyết Graph vào nhiều lĩnh vực khác nhau như: Văn học, Toán học, Hóa học, Vật lí, Sinh học… Trong cuốn sách “Graph và mạng lưới hữu hạn”. Ngoài ra, trong lĩnh vực Văn học có “Graph và ứng dụng của chúng” (1968) của Ore và “Lí thuyết Graph” (1976) của Berop. Bên cạnh đó,ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu và vận dụng Graph vào dạy học như: Giáo viên Hà Thúc Quảng – trường CĐSP Hải Phòng : “ Dùng sơ đồ trong việc dạy Toán để phát huy tác dụng của Sách giáo khoa” (Nghiên cứu Giáo dục – số 3, T3/1974). Trần Trọng Dương, “ Áp dụng phương pháp Graph để nghiên cứu cấu trúc và phương pháp giải, xây dựng hệ thống bài toán về lập công thức hóa học ở trường phổ thông” ( Tiểu luận khoa học cấp I – Khoa Hóa – ĐHSP Hà Nội I – 1980)
  8. Qua khảo sát tài liệu, ta thấy việc vận dụng Graph vào quá trình dạy học ở Việt Nam được các nhà Sư phạm quan tâm và vận dụng vào giảng dạy từ rất lâu, đã bước đầu khẳng định tác dụng của việc sử dụng Graph trong việc nắm vững kiến thức và phát triển kĩ năng tư duy cho học sinh. Tuy nhiên việc ứng dụng của Graph trong dạy học Văn hiện nay chưa trở nên phổ biến, một phần cũng do tính chất đặc thù của bộ môn. Trong bài viết của PGS.PTS Nguyễn Quang Ninh về “Sử dụng phương pháp Graph” trong dạy học Tiếng Việt, thầy đã giới thiệu sơ lược về phương pháp Graph, những yêu cầu và cách tiến hành nội dung một đơn vị kiến thức trong phân môn Tiếng Việt. Gần đây, (2010), với bài nghiên cứu của Giảng viên Nguyễn Thị Thu Hà – giảng viên khoa Ngữ Văn trường ĐHSP Hà Nội I, in trong Tạp chí nghiên cứu văn học về việc “ Kết hợp phương pháp Graph với sơ đồ tư duy trong việc dạy văn Nghị luận” đã đưa người viết chú ý tới tính cấp thiết của vấn đề dạy Làm văn nghị luận cho học sinh của giáo viên Ngữ Văn trong nhà trường Phổ thông hiện nay. 1.1.1. Khái niệm Graph Theo từ điển Anh – Việt, Graph có nghĩa là đồ thị - biểu đồ gồm có một đường hoặc nhiều đường biểu thị sự biến thiên của đại lượng. Từ Graph trong lí thuyết Graph lại bắt nguồn từ từ “Graphie” có nghĩa là tạo ra một hình ảnh rõ ràng, chi tiết, sinh động trong tư duy. Trong Toán học, lí thuyết Graph gồm 2 yếu tố đó là đỉnh và cung, trong đó đỉnh là các điểm còn cung (có thể là đoạn thằng hay đường cong) là các cạnh nối các điểm đó. Graph được định nghĩa là: Graph viết tắt là G) là một tập hợp số lượng hữu hạn các đỉnh và các cung có đầu mút tại các đỉnh đó. 1.1.2. Graph dạy học và một số nguyên tắc xây dựng một Graph trong dạy học - Khái niệm Graph dạy học Phương pháp Graph dạy học có nguồn gốc từ phương pháp toán học bao gồm các nội dung: Graph nội dung dạy học và Graph tình huống dạy học. - Phân loại Graph dạy học Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang, trong mỗi hoạt động bao giờ cũng có 2 mặt, đó là mặt tĩnh và mặt động. Trong quá trình dạy và học, mặt tĩnh là phần “Nội dung kiến thức”, còn mặt động là “Hoạt động của thầy và trò”. Có thể mô tả bằng Graph như sau:
  9. Graph dạy học Graph nội dung Graph hoạt động - Nguyên tắc xây dựng Graph trong dạy- học: Các nguyên tắc xây dựng Graph dạy học là những nguyên lí, phương châm chỉ đạo việc thiết kế Graph nội dung và Graph hoạt động dạy học. Dựa vào các nguyên tắc này để xác định nội dung, phương pháp, cách tổ chức, tính chất và tiến trình của việc thiết kế Graph nhằm thực hiện mục đích dạy học phù hợp với những quy luật khách quan và cần bảo đảm các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc thống nhất giữa Mục tiêu – Nội dung – Phương pháp + Nguyên tắc thống nhất giữa toàn thể và bộ phận + Nguyên tắc thống nhất giữa cụ thể và trừu tượng + Nguyên tắc thống nhất giữa dạy và học Tuy nhiên trong mỗi quá trình giảng dạy, đặc biệt đặc thù bộ môn Ngữ văn là sự liền mạch và hướng tới sự toàn vẹn, hoàn chỉnh thì cần có những định hướng riêng. Đặc biệt trong Làm văn Nghị luận với học sinh, phương thức Graph sẽ giúp cho học sinh làm tốt Phân tích đề, Lập dàn ý chi tiết và viết văn nghị luận hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu đề bài. 1.1.3. Quy trình xây dựng Graph - Quy trình chung Lập Graph nội dung Chuyển Graph nội dung Triển khai Graph Tổng kết và kiểm tra thành bài thành bài giảng bằng Graph Lss - Quy trình cụ thể + Thiết lập đỉnh: B1: Chọn kiến thức chủ chốt cần và đủ B2: Mã hóa kiến thức bằng kí hiệu (sơ đồ) B3: Bố trí các đỉnh trên mặt phẳng + Thiết lập nội dung: Nối các đỉnh bằng các cung định hướng thể hiện mối quan hệ giữa các dữ liệu đưa ra. + Kiểm tra lại Graph đã lập.
  10. 1.1.4. Các loại Graph 1.1.4.1. Graph định hướng và Graph vô hướng - Graph định hướng: là Graph xác định rõ đỉnh, các đỉnh có mối liên hệ theo hướng và chiều trong đơn vị nội dung kiến thức. Các đoạn nối đỉnh trong Graph định hướng đều có chiều mũi tên. - Graph vô hướng: là Graph không chỉ rõ chiều liên hệ, vận động giữa các yếu tố, vì vậy các đoạn nối đỉnh trong Graph vô hướng không có chiều mũi tên 1.1.4.2. Graph khép và mở - Graph khép là Graph trong đó tất cả các cặp đỉnh đều có sự liên thông với nhau để biểu diễn một tổng thể hoàn chỉnh trong một chu kì khép kín.
  11. - Graph mở : là Graph trong đó không phải tất cả các đỉnh đều có sự liên thông với nhau, trong đó có ít nhất 2 đỉnh treo để thể hiện mối quan hệ tầng bậc. 1.1.4.3 Grap đủ, Graph câm , Graph khuyết - Graph đủ: là Graph mà tất cả các đỉnh đều được chú thích hay kí hiệu đầy đủ không thiếu một nội dung nào . A B C D - Graph câm: là Graph mà tất cả các đỉnh của nó đều để trống, không có bất kì ngôn từ, kí hiệu hay một sự ghi chú nào ở mọi đỉnh.
  12. - Graph khuyết: là Graph trong đó có một hoặc một số đỉnh rỗng, các đỉnh còn lại không rỗng. A B Graph câm và Graph khuyết là những loại Graph được sử dụng một cách có hiệu quả trong quá trình giúp học sinh luyện tập, củng cố và kiểm tra kiến thức. 1.1.5. Vai trò của việc vận dụng Graph trong việc hình thành kĩ năng Làm văn nghị luận của học sinh THPT - Theo sơ đồ hệ thống có tính tầng bậc, rành mạch, rõ ràng thì Graph có tính ứng dụng cao khi cụ thể hóa những khái niệm, qua đó mở rộng hiểu biết về đối tượng nghiên cứu một cách khái quát nhất. - Ví dụ: Khi ôn tập lại các Thao tác lập luận cho học sinh khối 12, học sinh cần nhớ các thao tác lập luận sau để ứng dụng trong việc vận dụng vào viết đoạn văn: Thao tác lập luận TTLL Phân TTLL TTLL TTLL TTLL TTLL tích Giải thích Bình luận Chứng minh So sánh Bác bỏ miminh - Dùng Graph để định hướng giúp học sinh biết viết một đoạn văn theo một cấu trúc hoàn chỉnh về nội dung và hình thức. Graph sẽ giúp học sinh hình thành được câu chủ đề, các luận chứng, luận cứ để thống nhất chung một chủ đề là nội dung của đề bài giao cho. Đồng thời dựa trên nguyên tắc có tính khoa học, nó cho phép sự sắp xếp ý được rành mạch theo một trật tự nhất định tối ưu nhất để học sinh có thể chiếm lĩnh và hình thành kĩ năng viết cho mình khi tự học, tự nghiên cứu. Ví dụ: Sử dụng Graph trong bước hình thành kĩ năng “Phân tích đề trong đoạn văn Nghị luận xã hội (khoảng 200 từ)
  13. Phân tích đề Dạng đề Phạm vi đề Nội dung đề 1.2. Văn nghị luận trong chương trình THPT 1.2.1. Khái niệm về văn nghị luận Nghị luận là kiểu văn bản được dùng để trình bày, phát biểu các tư tưởng, quan điểm, thái độ bằng luận cứ và lập luận trước một vấn đề đặt ra trong cuộc sống nhằm đưa đến người đọc cách nhìn nhận một tư tưởng, quan điểm, lối sống nào đó hoặc hướng đến người đọc giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Văn nghị luận bao gồm hai loại: Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội. Ví dụ một số dạng đề sau: - Đề 1: Suy nghĩ của anh(chị) về lời dạy của Đức Phật: “Đạo đức là ngọn đèn sáng chiếu rọi mọi phẩm chất của con người. Đạo đức không phải là roi vọt dùng để hành hạ, làm nhục, làm khổ người ta”. (Đây là dạng đề Nghị luận xã hội) - Đề 2: “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh(chị) hãy phân tích tác phẩm để làm rõ điều đó. (Đây là dạng đề Nghị luận văn học) 1.2.2. Khái niệm văn nghị luận xã hội Nghị luận xã hội là kiểu văn bản dùng phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực như: Đạo đức, chính trị, xã hội… làm nội dung bàn bạc nhằm sáng tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề nêu ra. Từ đó giúp người đọc đưa ra những cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào trong đời sống. Nghị luận xã hội gồm 3 dạng đề : - Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí - Nghị luận về một hiện tượng đời sống - Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. 1.2.3. Khái niệm đoạn văn nghị luận xã hội 1.2.3.1 Khái niệm đoạn văn Về nội dung: Đoạn văn là một phần của văn bản, nó diễn đạt ý hoàn chỉnh ở một mức độ nào đó logic với ngữ nghĩa vì vậy nó trọn vẹn về nội dung, các câu trong đoạn văn có sự liên kết chặt chẽ với nhau góp phần thể hiện một chủ đề nào đó.
  14. Về hình thức: Đoạn văn là một chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất, nó được thể hiện ở những phương diện sau: - Đoạn văn được bắt đầu bằng chữ cái viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng. Văn phong đoạn văn phải trong sáng, mạch lạc - Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề + Từ ngữ chủ đề: là các từ ngữ được lặp lại nhiều lần nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt theo yêu cầu của đề bài. + Câu chủ đề: là câu nêu ý chính của đoạn văn, mang nội dung khái quát, ý nghĩa ngắn gọn. Và câu chủ đề có thể ở đầu hoặc cuối đoạn văn. - Hình thức trình bày đoạn văn: theo các phép diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp… 1.2.3.2. Đoạn văn nghị luận xã hội Đoạn văn nghị luận xã hội, về cơ bản hội tụ đầy đủ đặc điểm cơ bản của đoạn văn nghị luận. Song với dạng đề văn nghị luận xã hội khoảng 200 từ cho học sinh THPT, học sinh lớp 12 phục vụ kì thi THPTQG như hiện nay, học sinh cần có sự tích hợp giữa hình thức hài hòa và nội dung biểu đạt sâu sắc trong cách lập luận của mình. 1.2.4. Các thao tác lập luận sử dụng trong đoạn văn nghị luận xã hội 1.2.4.1 Giải thích Mục đích: Giải thích các vấn đề cần bàn luận trong đề. Yêu cầu: Người viết cần đi sâu vào những phát ngôn súc tích hay nội dung ẩn dụ của một câu chuyện, một hiện tượng đời sống trong đề bài để lí giải nội dung ý nghĩa bên trong. Tức là người viết cần phải làm sáng tỏ, bóc tách các vấn đề một cách cụ thể cho người đọc hiểu một cách thấu đáo. * Các bước tiến hành: Bước 1: Người viết đi vào giải thích từ ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng, những cách nói tế nhị…để hiểu được lí do người ta nói như vậy. Bước 2: Ta dùng lí lẽ để lí giải, phân tích tìm ra một cách hiểu đúng đắn, sâu sắc của vấn đề cần đề cập đến. Bước 3: Rút ra điều cần vận dụng khi ta đã tìm hiểu được chân lí, phương hướng để vận dụng chân lí ấy vào cuộc sống. 1.2.4.2. Bình luận Mục đích: Để người đọc đồng tình với mình về vấn đề mình nhận thức, bàn luận trong đoạn văn
  15. Yêu cầu: Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả giải thích, phân tích và chứng minh. Nhưng giải thích và chứng minh sẽ phục vụ cho phần mở rộng vấn đề cần bàn luận * Các bước tiến hành: Bước 1: Ta bày tỏ thái độ khách quan để có thái độ đúng đắn khi nhìn nhận vấn đề bàn luận, có ba khả năng: hoàn toàn nhất trí, chỉ nhất trí một phần, không chấp nhận ( bác bỏ). Bước 2: Bình luận, mở rộng cho vấn đề sâu sắc và toàn diện. Thông thường thao tác này cần giải quyết 3 câu hỏi đặt ra: - Tại sao vấn đề đó được người viết đề cập đến? - Biểu hiện của những vấn đề đó trong cuộc sống như thế nào? - Vai trò, ý nghĩa của vấn đề trong thực tế cuộc sống chúng ta? Bước 3: Chỉ ra phương hướng vận dụng để đưa lí luận vào thực tế cuộc sống. 1.2.4.3. Phân tích Mục đích: Chia tách các đối tượng, sự vật, hiện tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố để đi sâu vào nội dung và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của đối tượng. Yêu cầu: Người viết phải nắm được cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí, sau khi phân tích, tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết người viết cần tổng hợp khái quát lại để nhận thức đầy đủ đối tượng cần bàn luận * Các bước tiến hành: Bước 1: Xác định mục đích của việc phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề nào? Bước 2: Chia nhỏ đối tượng phân tích để tìm hiểu sâu hơn, chính xác hơn Bước 3: Khái quát, khẳng định quan điểm phân tích là phù hợp. 1.2.4.4. Chứng minh Mục đích: Đưa ra dẫn chứng cụ thể, xác thực điều mình muốn nói. Yêu cầu: làm sáng tỏ vấn đề nghị luận bằng các dẫn chứng và lí lẽ từ thực tế để tạo lập luận vững chắc, mang đến niềm tin cho người đọc. * Các bước tiến hành: Bước 1: Xác định điều chứng minh, phạm vi chứng minh. Bước 2: Người viết lựa chọn những dẫn chứng tiêu biểu, chuẩn xác từ thực tế cuộc sống. Khi kèm theo dẫn chứng phải có lí lẽ phân tích để tạo tính thuyết phục cao. Bước 3: Vận dụng, người viết đề xuất phương hướng để áp dụng vào thực tế cuộc sống cho riêng bản thân. Hay còn gọi đó là bài học nhận thức và hành động cho người viết. 1.2.4.5. So sánh
  16. Mục đích: Nhằm đối chiếu giữa hai hay nhiều sự vật, đối tượng để chi ra những nét giống nhau hay khác nhau để thấy được giá trị của từng sự vật. Yêu cầu: Khi so sánh ta phải đặt tương quan các đối tượng trong cùng một bình diện, dựa trên những tiêu chí chung để thấy được điểm tương đồng, khác biệt đồng thời phải nêu rõ quan điểm của người so sánh. *Các bước tiến hành: Bước 1: xác định đối tượng nghị luận từ đó tìm một đối tượng tương đồng hay tương phản để so sánh. Bước 2: Chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa các đối tượng. Bước 3: xác định giá trị cụ thể của đối tượng, dùng lập luận để bảo vệ giá trị và ứng dụng nó vào thực tế cuộc sống. 1.2.4.6. Bác bỏ Mục đích: Chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó người viết đưa ra quan điểm đúng đắn để bảo vệ ý kiến, lập trường của mình. Yêu cầu: Muốn bác bỏ một ý kiến sai trái cần phải có dẫn chứng đầy đủ ý kiến đó trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng, sau đó làm sáng tỏ hai phương diện: Sai ở chỗ nào? Vì sao như thế lại sai? * Các bước tiến hành: Bước 1: xác định vấn đề cần bác bỏ ( lập luận, luận điểm, luận cứ) Bước 2: dùng lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục Bước 3: Khẳng định những lập luận, dẫn chứng đúng đắn theo quan điểm của người viết phù hợp với thực tế. Như vậy đó là sáu Thao tác lập luận mà người làm văn Nghị luận xã hội có thể vận dụng trong bài/ đoạn văn của mình. 2. Dạng đề nghị luận xã hội Như phần trên đã khái quát các dạng đề nghị luận xã hội, thông thường Nghị luận xã hội có ba dạng đề cơ bản: - Dạng 1: Nghị luận về một tư tưởng đạo đức. - Dạng 2: Nghị luận về một hiện tượng đời sống. - Dạng 3: Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Như vậy, theo sự đổi mới của kì thi THPTQG từ 2017, đề bài nghị luận xã hội đã chuyển từ “Viết bài văn khoảng 600 chữ” sang “ Viết đoạn văn khoảng 200 chữ”, về cơ bản chúng khác nhau về phương thức trình bày theo từng đặc điểm của từng loại văn bản, còn nội dung vẫn đáp ứng một trong ba tiêu chí của dạng đề nghị luận trên. Dựa vào đó, người viết sẽ trình bày “Sử dụng Graph trong việc hình thành kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT”.
  17. 2.1. Dạng đề “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” 2.1.1.Khái niệm: Là dạng đề bài trong đó đặt ra vấn đề bàn luận là những khía cạnh đạo đức, tư tưởng, tình cảm của con người gắn với cuộc sống hàng ngày như: tình yêu gia đình, tình cảm bạn bè, tình thầy trò, tình yêu Tổ quốc, yêu đất nước, ý thức trách nhiệm, ý chí, khát vọng, nghị lực của con người… Những vấn đề này có thể đặt ra một cách trực tiếp nhưng thường là được gợi mở qua một câu nói, một câu danh ngôn, một tư tưởng được tích hợp trong văn bản đọc hiểu… 2.1.2.Kĩ năng ứng dụng Graph để viết đoạn Thông thường, để viết được bài/đoạn văn trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức, ta có ba kĩ năng cơ bản sau: Một là, kĩ năng phân tích đề; Hai là, kĩ năng lập dàn ý; Ba là, kĩ năng viết bài/ đoạn. Và việc ứng dụng Graph trong việc hình thành kĩ năng viết đoạn cũng dựa trên 3 kĩ năng trên, người viết ứng dụng Graph cho từng kĩ năng một. Việc vận dụng đó sẽ giúp người học biết tư duy, lập ý và tìm luận điểm cho đoạn văn của mình. 2.1.3. Kĩ năng Phân tích đề Qua khảo sát thực tế, có đến 90% các em học sinh bỏ qua kĩ năng này. Thực chất đây là một kĩ năng tối ưu giúp người đọc định hướng được đề và tìm nội dung chủ đạo của đề. Ta có thể cụ thể hóa qua Graph sau: Dạng đề Kiểu đề & Phạm vi đề Nội dung đề Thao tác lập luận Kiểu đề Thao tác lập Nội dung 1 Nội dung 2 Nội dung n… luận Ví dụ: Danh ngôn Pháp có câu: “ Nghịch cảnh không chỉ là một phép thử của tình cảm mà còn là thước đo của trí tuệ và bản lĩnh con người”. Anh(chị) suy nghĩ như thế nào về câu danh ngôn trên? Hãy viết đoạn văn nghị luận xã hội( khoảng 200 chữ) nêu lên suy nghĩ đó. Hướng dẫn kĩ năng Phân tích đề
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0