intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo hứng thú trong giờ học Ngữ văn bằng hoạt động tranh biện ở trường THPT Lê Lợi

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64

14
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này sẽ giúp thầy, cô giáo có một số vận dụng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, có một số kiến thức về hoạt động tranh luận. Trong đề tài sẽ có đề xuất một số biện pháp phù hợp như cách đặt các câu hỏi phù hợp, kích thích khả năng tranh biện của HS và đổi mới cách thức tranh biện. Từ đó, làm phong phú kinh nghiệm dạy học, xây dựng những giờ học hạnh phúc, bổ ích và thành công cho quý thầy, cô.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo hứng thú trong giờ học Ngữ văn bằng hoạt động tranh biện ở trường THPT Lê Lợi

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN BẰNG HOẠT ĐỘNG TRANH BIỆN Ở TRƯỜNG THPT LÊ LỢI” LĨNH VỰC: CHUYÊN MÔN NGỮ VĂN
  2. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT LÊ LỢI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN BẰNG HOẠT ĐỘNG TRANH BIỆN Ở TRƯỜNG THPT LÊ LỢI” Lĩnh vực: Chuyên môn Ngữ văn Tác giả: Thái Thị Hoa Điện thoại: 0369653577 Năm học: 2022 - 2023
  3. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................... 1 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................ 1 1) Lí do chọn đề tài ................................................................................................... 1 2) Tính mới, đóng góp mới của đề tài ....................................................................... 2 II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................. 2 1) Đối tượng .............................................................................................................. 2 2) Phạm vi ................................................................................................................. 2 III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................... 2 IV. CẤU TRÚC ....................................................................................................... 2 B. NỘI DUNG .......................................................................................................... 3 I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI........................................................................................... 3 1) Cơ sở lý luận ......................................................................................................... 3 2) Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 6 II. BIỆN PHÁP SỬ DỤNG HOẠT ĐỘNG TRANH BIỆN TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN .............................................................................................................. 10 1) Biện pháp 1. Bám sát các nguyên tắc tổ chức hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn. Bám sát quy trình tổ chức hoạt động tranh biện trong giờ học môn Ngữ văn. .......................................................................................................................... 10 2) Biện pháp 2. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước khi tới lớp và giao một số câu hỏi, vấn đề mang tính chất tranh biện. Sáng tạo trong cách thức đưa ra vấn đề tranh biện trong bài học, cách thức tham gia hoạt động tranh biện của học sinh.................................................................................................................... 14 3) Biện pháp 3. Xây dựng môi trường học tập tương tác, phát huy tối đa vai trò của mỗi cá nhân trong quá trình tổ chức hoạt động tranh biện. ........................................... 20 4) Biện pháp 4. Ứng dụng chuyển đổi số trong quá trình tổ chức hoạt động tranh biện cho học sinh. Sử dụng hoạt động tranh biện bằng cách phối kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực. ........................................................................................ 21 5) Biện pháp 5. Đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá khi tổ chức hoạt động tranh biện .......................................................................................................................................... .23 III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ........................................................................ 23 1) Mục đích, yêu cầu của thực nghiệm sư phạm. ........................................................... 23 2) Đối tượng, thời gian, thời gian quy trình thực nghiệm.............................................. 23
  4. 3) Thiết kế giáo án thực nghiệm (Phụ lục) ..................................................................... 24 4) Đánh giá kết quả thực nghiệm. ................................................................................... 24 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 24 I. KẾT LUẬN......................................................................................................... 24 1) Quá trình nghiên cứu. .................................................................................................. 24 2) Kết quả nghiên cứu. ..................................................................................................... 25 3) Kết quả khảo sát trước và sau khi vận dụng............................................................... 26 II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ................................................................. 29 1) Với các cấp quản lí giáo dục. ...................................................................................... 29 2) Đối với các trường THPT............................................................................................ 29 3) Đối với giáo viên.......................................................................................................... 29 4) Đối với học sinh ........................................................................................................... 29
  5. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ đầy đủ THPT Trung học phổ thông GV Giáo viên HS Học sinh THPTQG Trung học phổ thông Quốc gia
  6. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1) Lí do chọn đề tài Trong thời kì hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa, hiện đại hóa đã làm thay đổi góc nhìn của mọi ngành nghề. Việc đổi mới trong giáo dục không còn mới nhưng vẫn là một vấn đề có giá trị quan trọng, mang tính nóng và đáng lưu tâm. Xu hướng giáo dục chuyển từ lấy GV làm trung tâm sang thành HS làm trung tâm, từ tiếp cận tri thức sang tiếp cận năng lực và phẩm chất người học. Vì vậy, việc thay đổi phương pháp dạy học là một điều tất yếu không thể tránh khỏi. Phương pháp dạy học như một điểm sáng để từ đó người học mở ra và soi rọi con đường chiếm lĩnh tri thức cho riêng mình. GV cần tìm tòi, khám phá và sử dụng sáng tạo những phương pháp dạy học mới, phù hợp để tạo hứng thú trong giờ học mang đến một tiết học hiệu quả cao, đáp ứng với mục đích, yêu cầu giáo dục hiện nay. Ngữ Văn là một môn học quan trọng chiếm nhiều thời lượng trong chương trình dạy - học ở các nhà trường, là môn thi bắt buộc trong các kì thi định kì, học kì và thi THPTQG. Môn Ngữ văn không chỉ giúp các em hiểu được thế giới tự nhiên, đời sống xã hội xung quanh mình mà còn góp phần định hướng nhân cách, đạo đức, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão cho các em. Song thực tế đáng buồn hiện nay có một số HS không đánh giá đúng vai trò và mất hứng thú với bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường. Một trong những nguyên nhân đó là việc GV không còn thổi hồn và truyền cảm hứng cho học sinh, phương pháp dạy còn rập khuôn, nghèo nàn và chưa thực sự đổi mới. Bởi vậy, GV- người khơi gợi cho HS tiếp cận tri thức phải thổi bùng ngọn lửa yêu thích môn ngữ văn để các em có thể cảm thụ hết được cái hay, cái đẹp mà văn chương đem lại, lấp đầy những lỗ hổng trong cuộc sống vốn dĩ đang bị khô cằn, khi mà các em dần bị “mê hoặc” bởi các yếu tố tiêu cực khác đã ăn mòn và làm băng hoại trái tim, tâm hồn, trí tuệ con người. Vì thế, phát triển tư duy phản biện và năng lực phản biện được xem là một trong những bước đi cần thiết nhằm đưa hoạt động giáo dục, dạy học đi vào quỹ đạo phát triển năng lực hiện nay. Hoạt động tranh luận sẽ giúp các em phát triển năng lực đó, mang đến một giờ học hay, hấp dẫn và sôi nổi, phát huy hết những khả năng tiềm tàng của người học- điều mà giáo dục hướng tới. Hoạt động tranh biện được ứng dụng trong tất cả các phần của môn ngữ văn: đọc hiểu văn bản, tập làm văn, tiếng việt. Không chỉ vậy, tranh luận còn là một hoạt động giao tiếp luôn được diễn ra trong cuộc sống đời thường. Bởi vậy, việc giúp các em hình thành, rèn luyện thường xuyên kĩ năng tranh biện và tư duy phản biện trong trường học là một điều thiết thực,tạo nên một sợi chỉ đỏ nối liền bục giảng với đời sống, gắn môi trường nhà trường với môi trường xã hội. Dạy học theo hình thức tranh luận là điều cần thiết trong việc đổi mới giáo dục hiện nay. Vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Tạo hứng thú trong giờ học Ngữ văn bằng hoạt động tranh biện ở trường THPT Lê Lợi”. Với tư cách là một GV luôn 1
  7. trăn trở với nghề, tôi hi vọng đề tài của tôi sẽ mang lại ý nghĩa thiết thực, đóng góp một phần bé nhỏ vào sự phát triển trong việc dạy học môn ngữ văn mà trường hiện nay tôi công tác nói riêng và toàn ngành nói chung. Tôi xin cam đoan đề tài này là công trình nghiên cứu của tôi, chưa được cá nhân, tập thể và công trình giáo dục nào công bố trên các tài liệu, sách báo và diễn đàn giáo dục hiện nay. 2) Tính mới, đóng góp mới của đề tài - Đề tài này sẽ giúp thầy, cô giáo có một số vận dụng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, có một số kiến thức về hoạt động tranh luận. Trong đề tài sẽ có đề xuất một số biện pháp phù hợp như cách đặt các câu hỏi phù hợp, kích thích khả năng tranh biện của HS và đổi mới cách thức tranh biện. Từ đó, làm phong phú kinh nghiệm dạy học, xây dựng những giờ học hạnh phúc, bổ ích và thành công cho quý thầy, cô. - Đề tài sẽ tạo hứng thú cho HS trong mỗi giờ học, hình thành khả năng tiếp cận tri thức một cách chủ động. Tạo nên một tiết học hấp dẫn, sôi nổi, phù hợp với mục đích giáo dục hiện nay. - Việc rèn luyện kĩ năng tranh biện còn là một trong những yếu tố tạo nên chìa khóa vạn năng mở đường cho các em đến với cuộc sống vì tính ứng dụng thực tiễn cao của hoạt động này. Giúp các em có được những kiến thức cần thiết về tranh biện, tranh biện như thế nào cho đúng, cho thuyết phục người nghe, rèn luyện khả năng tư duy, tổng hợp, ứng xử linh hoạt trong từng trường hợp xảy ra trong cuộc sống thường nhật. II.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1) Đối tượng - HS tất cả các khối ở trường THPT Lê Lợi 2) Phạm vi Đề tài này chỉ nghiên cứu ở HS Trường THPT Lê Lợi, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp quan sát - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp phân tích- tổng hợp, thống kê toán học, so sánh.... - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. IV. CẤU TRÚC Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, nội dung đề tài tập trung vào một số vấn đề như sau: 2
  8. - Cơ sở của đề tài - Biện pháp sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ dạy học ngữ văn - Triển khai thực hiện đề tài bằng thực nghiệm sư phạm B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1) Cơ sở lý luận 1.1. Tổng quan về hoạt động tranh biện 1.1.1. Khái niệm của hoạt động tranh biện - Tranh biện (debate) là một hình thức diễn thuyêt công khai. Nó có thể ở dạng tranh biện trực tiếp hoặc tranh biện giữa hai hoặc nhiều người về một chủ đề xác định tại một thời điểm cụ thể. - Hiểu theo nghĩa hẹp, tranh biện là một trong những loại hình giao tiếp bằng lời. Những đặc điểm của tranh biện trong tương quan với các loại hình khác có thể được hiểu qua bảng sau: Loại Phương Mục đích hình giao Ví dụ tiện chủ Đặc điểm nổi bật chính tiếp yếu Buôn Mọi hình Trao đổi Đối thoại chuyện thức của lời Tự do, không hạn định thông tin điện thoại nói Thống Giả thuyết Cần người dẫn dắt Thảo luận Cuộc họp nhất các ý Kết luận Cần chương trình định trước kiến Các bài Tìm Lập luận Chính xác cao độ Tranh tranh luận ra cái gì luận trên tạp chí Kết luận Phân biệt rạch ròi đúng sai đúng khoa học Các bút Tranh Tìm ra ai Có một giải pháp “tối ưu” hơn các chiến trên Lập luận biện đúng giải pháp khác báo Nguồn: Nguyễn Thiên Minh – Cán bộ trung tâm Ứng dụng Việt ngữ học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn,thienminh.vnu@gmail.com. - Hiểu theo nghĩa rộng: tranh biện là quá trình tư duy và biểu đạt tư duy từ thu thập, phân tích xử lý thông tin đến xây dựng, hệ thống sắp xếp các lập luận để ra quyết định. Điều này quan trọng, vì quyết định và việc thực hiện các quyết định 3
  9. giúp duy trì và phát triển xã hội con người. Tranh biện có thể sử dụng ngôn ngữ (thông qua Nói, Viết) hoặc không sử dụng ngôn ngữ (tự tranh biện – self-debate trong bản thân từng cá nhân). Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra những Xung đột/ Mâu thuẫn giữa các luận điểm (Crashes) do người học sử dụng Tư duy phản biện để phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương. Tranh biện còn nhằm Thuyết phục chính bản thân mình, hoặc người khác rằng lựa chọn nào là tốt hơn, đặt trong những bối cảnh và điều kiện cụ thể. Kết luận của tranh biện mang tính tương đối, không có đúng nhất mà mang tính tạm thời tại thời điểm kết thúc cuộc tranh biện. Walter Lippman – một nhà báo có tầm ảnh hưởng đã chỉ ra rằng, một trong những quyền cơ bản của con người – tự do ngôn luận – có thể được thực hiện thông qua việc tạo ra và khuyến khích tranh biện. Như vậy, hoạt động tranh biện là cách GV đưa ra, gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, GV tổ chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản biện về vấn đề đó. HS sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ dạy học. Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể lựa chọn sử dụng tranh biện trong tất cả các hoạt động học. Hiểu một cách đơn giản về phương pháp này này là giáo viên đề xướng, tổ chức còn HS chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng tạo tiếp thu tri thức một cách vững chắc và hiệu quả. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động tranh biện - Ngày nay, chúng ta không còn xa lạ với hoạt động tranh biện. Tranh biện được xem là một bộ môn thể thao đấu trí được phổ biến rất nhiều nơi, ở nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể nắm được những đặc điểm của hoạt động tranh biện. Vô hình chung, chúng ta còn nhầm lẫn giữa hoạt động tranh biện và những hoạt động khác tương đương như hùng biện,... - Tranh biện sẽ chú trọng vào logic, tư duy phản biện, cách lập luận, chứng minh. Người có kĩ năng tranh luận là người có sự tổng hợp của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; kĩ năng thuyết trình tư duy phản biện, sử dụng thông tin một cách có hiệu quả để hình thành lập luật chặt chẽ, phân loại cà xây dựng, sắp xếp hệ thống lập luận để hình thành quan điểm về một vấn đề cụ thể; kĩ năng lắng nghe chủ động nắm bắt ý kiến cho đối phương giúp ta không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn khiến đối phương cảm thấy được tôn trọng. - Hoạt động tranh biện là trận đấu giữa hai bên đồng tình và phản đối để bảo vệ ý kiến của mình trong một chủ đề. - Tranh biện sẽ kéo giãn vấn đề giúp người nghe có cái nhìn khách quan, đa chiều. Từ đó, mở rộng chân trời tri thức, giúp người nghe lĩnh hội, “vỡ lẽ” nhiều điểu của vấn đề cần tranh luận. 4
  10. 1.1.3. Hình thức tổ chức hoạt động tranh biện + Tổ chức tranh biện theo nhóm: Tranh biện theo nhóm là hình thức tổ chức cho học sinh học tập, trao đổi, phản biện theo từng nhóm, cùng giải quyết một nhiệm vụ học tập cụ thể nào đó dưới sự điều khiển và tổ chức của giáo viên. Khi tổ chức tranh luận theo nhóm sẽ diễn ra đồng thời hai hoạt động: việc thảo luận giữa các thành viên trong nhóm để thống nhất ý kiến chung và tranh luận giữa các nhóm với nhau. + Tổ chức tranh biện giữa HS với HS: Đây là hình thức có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động của từng HS trong học tập rất tốt, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ dạy học hiện nay. Tranh luận cá nhân có thể giúp học sinh khám phá ra những giá trị tiềm ẩn của mình như khả năng hùng biện trước đám đông, khả năng tư duy logic hay khả năng tự chủ. + Tổ chức tranh biện giữa giáo viên và học sinh: Trong quá trình dạy học sẽ xuất hiện các tình huống có vấn đề, GV sẽ nêu ra những luồng ý kiến khác nhau và cung cấp những tư liệu, căn cứ để cho HS có được những hiểu biết nhất định về chủ đề đó. Sau đó, giáo viên sẽ khích lệ tư duy của HS bằng cách đưa ngay ra ý kiến của bản thân mình. Từ đó, HS mới có thể mạnh dạn đưa ra ý kiến, nếu ý kiến đó khác với quan điểm của GV và tranh biện với GV. Có một điểm khác biệt rất quan trọng của hoạt động tranh biện với các hình thức giao tiếp khác đó là khi tiến hành tranh biện cần tách thành hai lập luận: ỦNG HỘ hoặc PHẢN ĐỐI. HS khi được phân công vào nhóm nào thì cần phải tuân thủ theo yêu cầu của nhóm. Vì vậy để giành chiến thắng trong tranh biện, HS cần phải tìm tòi, nghiên cứu đề kỹ để có những lập luận về vấn đề mình bảo vệ. 1.1.4. Vai trò của hoạt động tranh biện Hoạt động tranh biện là một trong những phương pháp dạy học mới và có vai trò rất lớn với cả GV và HS trong quá trình học môn ngữ văn. * Đối với giáo viên. Tranh luận là một công cụ giảng dạy có thể khắc phục những hạn chế của PPDH truyền thống. Với PP tranh luận, HS thực sự là trung tâm của lớp học và phải chủ động chuẩn bị và tham gia hoạt động. Phương pháp tranh luận cũng góp phần làm phong phú phương pháp dạy học cho GV và giúp GV bắt kịp với xu hướng dạy học tích cực. Với những hiệu quả mà phương pháp đem lại, GV sẽ có thêm động lực để phấn đấu, tâm huyết với nghề nghiệp mình đã chọn. * Đối với học sinh. Tranh luận tạo hứng thú và động cơ học tập cho Học sinh. Quá trình chuẩn bị bài, HS sẽ không ngừng tìm tòi, phát hiện, trăn trở về những vấn đề đặt ra trong văn bản. Những thắc mắc ấy sẽ được HS chủ động trao đổi với các bạn trong lớp và với giáo viên để giải quyết. Khi tham gia vào hoạt động tranh luận do giáo 5
  11. viên tổ chức, học sinh được trao đổi giao lưu với thầy cô, bạn bè; phát triển khả năng giải quyết vấn đề, góp phần hình thành tư duy phản biện cho người học. 2) Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng nhận thức tầm quan trọng của việc sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn tại trường THPT Lê Lợi a. Mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức khảo sát - Mục đích khảo sát: Tìm hiểu, thăm dò nhận thức về tầm quan trọng của GV và HS về việc sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn, giải thích, đánh giá kết quả. Trên cơ sở đó, đưa ra những biện pháp hợp lí góp phần phát triển năng lực tư duy phản biện và nâng cao chất lượng giảng dạy và kĩ năng mềm cần thiết cho học sinh một cách có hiệu quả. - Đối tượng khảo sát: GV trực tiếp dạy môn ngữ văn tại trường THPT Lê Lợi- huyện Tân Kỳ- tỉnh Nghệ An (gồm 11 GV); 250 HS khối 10,11,12 - Nội dung khảo sát: Sự cần thiết của hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn - Hình thức khảo sát: Sử dụng phiếu điền tra b. Tiến trình khảo sát: Phát phiếu cho 12 giáo viên dạy bộ môn ngử văn tại trường mà tôi công tác, 350 học sinh của cả 3 khối lớp, thu phiếu điều tra sau 15 phút; bằng phương pháp xử lí số liệu và thống kê toán học để nhận xét kết quả. Bảng 1.1. Số lượng giáo viên và học sinh tham gia khảo sát đề tài Giáo viên Học sinh STT Khối Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng (%) 1 Khối 10 4 36,3% 90 36% 2 Khối 11 4 36,3% 80 32% 3 Khối 12 3 27,4% 80 32% Tổng 11 100% 250 100% c. Kết quả khảo sát giáo viên Bảng 1.2. Kết quả điều tra thực trạng dạy học theo hoạt động tranh biện trong giờ ngữ văn Tỉ lệ lựa chọn (%) TT Câu hỏi Không cần Rất cần thiết Cần thiết thiết 6
  12. Việc sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ học 1 95% 5% 0% ngữ văn có cần thiết không? Thường Không bao Thầy (cô) có thường Thỉnh thoảng xuyên giờ xuyên tổ chức hoặc hướng dẫn cho học sinh sử dụng 2 hoạt động tranh biện 2.9% 39.3% 57,8% không? Kiểm tra đánh Hình thành Thầy (cô) chọn hình thức Luyện tập giá kiến thức nào để tổ chức dạy học sử 3 dụng hoạt động tranh biện? 16,7% 27,7% 55,6% Hoạt động Hình thức nào thầy (cô) HS và HS theo nhóm GV và HS 4 hay sử dụng để hoạt động tranh biện? 28% 65.7% 6.3% Không hứng Rất hứng thú Hứng thú Thái độ của HS khi hoạt thú 5 động tranh biện? 55% 28% 17% Bảng 1.3. Kết quả điều tra năng lực học tập theo hoạt động tranh biện của học sinh trường THPT Lê Lợi Tỉ lệ lựa chọn (%) T Câu hỏi Rất quan Không quan T Quan trọng trọng trọng 1 Em đánh giá như thế nào việc sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ học 91% 19% 0% ngữ văn Ngoài giờ học trên lớp em Thường Không bao Thỉnh thoảng đã giành bao nhiêu thời xuyên giờ 7
  13. 2 gian tìm hiểu hoạt động tranh biện và tự ứng dựng 24% 65.7% 10,3% để luyện tập ở nhà? 3 Em có muốn nâng cao kĩ 40% 60% 0 năng tranh biện của mình Không ý hay không? Có Không kiến Cảm nhận lĩnh hội kiến thức trong quá trình học tập sử dụng lớp học hình thức tranh biện Gặp rất nhiều Gặp nhiều Gặp ít khó Không gặp Mức độ khó khăn khó khăn khăn khó khăn Số lượng 191 124 35 0 Tỷ lệ % 54.57% 35,43% 10% 0% 2.2. Đánh giá thực trạng sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn tại trường THPT Lê Lợi - Hoạt động tranh biện là một hoạt động quan trọng góp phần hình thành tư duy phản biện cho học sinh giúp bài học trở nên sinh động và HS có thể chủ động nắm được những kiến thức bài học. Đây là cách học giúp học sinh phát triển những năng lực, phẩm chất phù hợp với yêu cầu của chương trình GD THPT mới. Tuy nhiên, nhìn vào bảng điểu tả có thể thấy rõ, hoạt động tranh biện vẫn chưa thực sự phổ biến và một số học sinh, giáo viên vẫn chưa nhận thấy được lợi ích của việc sử dụng hoạt động tranh biện. Được thể hiện như sau: - Về phía GV + Có thể nhận thấy, có đến 95% các GV trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ Văn nhận thức được vai trò, sự cần thiết của hoạt động tranh biện trong giờ học. Thực tế trong giờ học, hầu hết các GV đều sử dụng hoạt động tranh biện, rèn luyện cho HS kĩ năng cần thiết về khả năng tranh biện. Đặc biệt, ngày nay, khi người ta chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh để hướng HS chủ động nắm bắt kiến thức thì hoạt động tranh biện là không thể thiếu. Văn học không phải là một môn khoa học, đòi hỏi sự cứng nhắc như các môn tự nhiên khác. Văn học sẽ mở ra cho con người những chân trời mới, không đóng khung trong bất kì một giới hạn nào. Có biết bao nhiêu cái đầu thì có bấy nhiêu cách suy nghĩ, có vô vàn những ý tưởng. Vì vậy, sử dụng hoạt động tranh biện giúp con người mở mang đầu óc. Sử dụng hoạt động tranh biện khiến cho giáo viên sẽ có những cách nhìn nhận khách quan hơn về năng lực của học sinh, giúp bài học trở nên hấp dẫn. Đây cũng là một trong những bước dẫn tới sự thành công trong giờ dạy. 8
  14. + Tuy nhiên, việc sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ học cũng cần phải có sự đầu tư chỉn chu. GV cần phải tìm hiểu thật kĩ bài học, đưa ra những vấn đề có thể sử dụng được hoạt động tranh biện, phải có một quá trình để đưa ra những tình huống, những suy nghic có thể xảy ra để giúp học sinh nắm được cốt lõi của vấn đề, để hướng HS nhìn thấy trọng tâm của nó. Vì vậy, chỉ có 2,9% giáo viên sử dụng thường xuyên hoạt động tranh biện trong giờ học, còn lại chỉ thỉnh thoảng hoặc không bao giờ sử dụng hoạt động thiết thực này. - Về phía HS + Từ bảng khảo sát, có đến 91% HS nhận thức được sự quan trọng của hoạt động tranh biện, đây là một dấu hiệu chuyển biến tích cực trong tư duy của người học. Quả thật, trong những năm gần đây, qua quan sát của tôi ở các khối lớp khác nhau, qua các tiết học khác nhau, tôi nhận thấy, học sinh luôn có nhu cầu tranh biện để bảo vệ chính kiến của mình dù trong bất kì một vấn đề gì. Tranh biện là hoạt động khiến các em có thể động não, tư duy nhiều hơn, sử dụng vốn từ nhiều hơn. Điều này sẽ kích thích khả năng giao tiếp, khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề. Ở trường THPT Lê Lợi, các em HS còn lập ra câu lạc bộ Lí Luận Trẻ dưới sự hỗ trợ của các thầy cô làm ban cố vấn. Hằng tuần, các em sẽ tổ chức những buổi tranh biện về những chủ đề khác nhau mang tính nóng, thiết thực và phù hợp. Tôi nhận ra hiệu ứng tích cực của câu lạc bộ được nhiều HS và GV quan tâm. + Tuy nhiên, một vấn đế ở đây phần đông các em chỉ thỉnh thoảng tự ứng dụng và luyện tập hoạt động tranh biện ở nhà, hoạt động này còn diễn ra rất thụ động. Và chỉ có 40% HS muốn nâng cao kĩ năng sử dụng hoạt động tranh biện. Số lượng học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc cảm nhận lĩnh hội kiến thức qua việc sử dụng hoạt động tranh biện khá cao chiếm 54,7%, gặp khó khăn chiếm 35,43% - Nguyên nhân của thực trạng. + Do HS còn chưa hoàn toàn có khả năng tự học tại nhà, khả năng tiếp thu còn ở mức độ thụ động, đóng khung trong những kiến thức mà GV truyền thụ. + HS vẫn còn có tư duy lối mòn cũ đó là cô giảng, trò chép. Bên cạnh đó, kĩ năng mềm để sử dụng hoạt động tranh biện còn kém. Học sinh còn ngại chủ động, mạnh dạn, kém tự tin khi bày tỏ quan điểm của mình, vẫn còn sợ sai bị giáo viên khiển trách, hoặc không phát hiện vấn đề phản biện. + Trong giờ học, GV không tạo được không khí tự do dân chủ, đôi lúc còn phủ nhận chủ quan những ý kiến đóng góp của học sinh, không có sự khích lệ kịp thời khi học sinh đưa ra những ý kiến sáng tạo. Dần dà, học sinh bị mất đi khả năng làm chủ kiến thức, ngại bày tỏ ý kiến. 2.3. Đánh giá mức độ tạo hứng thú trong giờ học ngữ văn bằng hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn tại trường THPT Lê Lợi - Bảng khảo sát không chỉ phân tích tầm quan trọng mà còn đánh giá mức độ hứng thú của HS, 55% rất hứng thú, 28% hứng thú, 17% không hứng thú. Có thể 9
  15. nói, khi sử dụng hoạt động tranh biện trong giờ học giúp giờ học sôi động hơn, học sinh hứng thú hơn khi bị cuốn vào những tranh luận về các vấn đề mà giáo viên đã nêu. Một số HS còn đưa ra những chính kiến sáng tạo đến bất ngờ. - Như vậy, qua khảo sát cùng với đánh giá thực tế khách qua, tôi nhận thấy, hoat động tranh biện vẫn chưa thực sự phổ biến tại trường mà tôi công tác. Vấn đề này cần được lưu tâm bởi chương trình giáo dục phổ thông mới đã có những đòi hỏi cần phải rèn luyện kĩ năng như nói, viết cho HS. Nếu không sử dụng những hoạt động bổ trợ như tranh biện,...sẽ khó để học sinh có thể tiếp cận hiệu quả, nhanh chóng kiến thức. Đối với giáo viên chúng ta, những người chèo đò, những vị thuyền trưởng chèo lái cả một thế hệ tương lai của đất nước nếu chúng ta không đổi mới, chỉ đi theo những lối mòn đã định sẵn mà bây giờ không còn phù hợp nữa thì sẽ khiến nền GD quẩn quanh trong những ao đời tù đọng không thể hội nhập được với thế giới hiện nay. Thời đại mà còn người năng động hơn, chủ động hơn. II. BIỆN PHÁP SỬ DỤNG HOẠT ĐỘNG TRANH BIỆN TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN. 1) Biện pháp 1. Bám sát các nguyên tắc tổ chức hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn. Bám sát quy trình tổ chức hoạt động tranh biện trong giờ học môn Ngữ văn. 1.1. Bám sát các nguyên tắc tổ chức hoạt động tranh biện trong giờ học ngữ văn * Nguyên tắc 1. Xác định mục tiêu và đối tượng hoạt động tranh biện - Xác định mục đích tranh luận là việc đưa ra những dự kiến sư phạm về sự biến đổi của học sinh sau khi thực hiện các hoạt động tranh luận. - Xác định mục đích tranh luận có ý nghĩa quan trọng, bởi có xác định được mục đích thì mới lựa chọn được hình thức tổ chức phù hợp. Đồng thời, việc xác định mục đích tranh luận sẽ giúp giáo viên có những định hướng rõ ràng cho cuộc tranh luận, tránh sa đà, lạc hướng gây mất thời gian mà không đạt hiệu quả cao. Nội dung tranh luận phải là nội dung trọng tâm, cốt lõi của đặc trưng môn học. - Ví dụ đối với môn Ngữ văn và văn bản nghị luận thì cần phải làm nổi bật được lí lẽ, lập luận cũng như tư tưởng quan điểm của người viết. Từ đó rèn luyện kỹ năng đọc - viết - nói - nghe cho HS. * Nguyên tắc 2. Lựa chọn đề tài tranh luận và hình thức tranh biện làm nổi bật nội dung bài học và có ý nghĩa sâu sắc, phù hợp với tâm lí và năng lực học sinh. - Về lựa chọn vấn đề tranh luận, GV cần hiểu rõ, hiểu sâu kiến thức và hiểu rõ đối tượng HS của mình, trình độ nhận thức ra sao, họ đã có cái gì, cần có cái gì thì GV mới có thể đưa ra vấn đề tranh luận đúng đắn, sáng suốt và phù hợp nhất. 10
  16. - Về cân đối thời gian khi tổ chức tranh luận là một thử thách lớn của phương pháp này, bởi muốn tranh luận hay đúng nghĩa thì phải cho HS tranh luận đến cùng để bảo vệ ý kiến của mình. Do đó, để hoạt động tranh luận có chất lượng, GV cần có sự lựa chọn vấn đề phù hợp, yêu cầu HS chuẩn bị kỹ để đưa ra những ý kiến tranh luận chất lượng, đúng trọng tâm. Đặc biệt cần chú ý đến đối tượng HS khi lựa chọn vấn đề tranh luận, nội dung phải đi từ đơn giản đến phức tạp nhằm khơi gợi sự hứng thú cho người học. * Nguyên tắc 3. Cân đối thời gian hợp lí trong quá trình tranh biện và đánh giá tranh biện - Tranh biện được xem như là một cuộc đọ trí tuệ. Một cuộc tranh biện có thể diễn ra ngắn gọn hoặc dài hơi tùy thuộc vào khả năng tranh biện của mỗi người. Vì mỗi tiết học chỉ gói gọn trong một thời lượng nhất định vì vậy cần có sự cân đối thời gian hợp lí trong quá trình tranh biện và đánh giá tranh biện để học sinh vừa tiếp thu được kiến thức vừa mở rộng kiến thức của mình qua hoạt động tranh biện. - Trong quá trình tranh biện, giáo viên cần phải đưa ra một khoảng thời gian để học sinh cân đối những ý để tranh biện tránh bị lạm dụng giờ của đối phương, để hai bên có sự hài hòa về mặt thời gian khi tranh biện. Giáo viên sẽ cần một khoảng thời gian để có thể nhận xét đánh giá ý kiến 2 đội vừa đưa ra. Góp ý những ý kiến nào là chưa phù hợp, chưa đúng để học sinh điều chỉnh đúng đắn kiến thức của mình. Tranh biện giúp HS bày tỏ những ý kiến của mình nhưng không đồng nghĩa với việc mọi ý kiến của học sinh hoàn toàn đúng. Vì thế, giáo viên như một vị chủ tọa để phân giải cũng như định hướng HS trong quá trình tranh biện tránh bị sao nhãng, lan man đến những ý kiến không đúng hoặc không liên quan đến vấn đề cần tranh biện. Ví dụ: Khi dạy bài 9 “Hành trang cuộc sống về chính chúng ta”, ở hoạt động luyện tập, tôi cho học sinh chia sẻ ý kiến với câu hỏi: Tự nhiên là nhà của chúng ta, và sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình. Em nghĩ gì về nhận định của tác giả? Bày tỏ quan điểm đồng tình hay không đồng tình? Lý giải lý do vì sao? (HS tự đưa ra ý kiến, đưa ra lý lẽ để khẳng định ý kiến của mình là đúng. Áp dụng phản biện bám sát các nguyên tắc cơ bản trên) 11
  17. 1.2. Bám sát quy trình tổ chức hoạt động tranh biện trong giờ học môn Ngữ văn. a. Lựa chọn bài dạy, đơn vị kiến thức phù hợp trong việc sử dụng hoạt động tranh biện - Ngữ văn là mảnh đất màu mỡ để sử dụng hoạt động tranh biện. Bởi, văn học không phải là một môn học được giải theo một công thức nào đó như toán, lí, hóa, không phải là một môn ghi nhớ như sử, địa mà ngữ văn là môn học sáng tạo, nơi khởi tạo cho của vô vàn những suy nghĩ khác biệt. Ở mỗi bài học, chúng ta có thể tạo nên những tình huống dạy học có vấn đề để từ đó học sinh sẽ diễn ra hoạt động tranh biện. Ví dụ, những bài nói- nghe trong chương trình GDPT 2018, chúng ta đều có thể vận dụng hoạt động tranh biện, hay ở những bài sử dụng thao tác lập luận như bác bỏ, bình luận,...và đặc biệt ở những bài đọc hiểu văn bản đều có thể tận dụng hoạt động tranh biện. - Đề xuất những nội dung có thể sử dụng phương pháp tranh biện ở các khối lớp 10,1,12 (Phụ lục) b. Bước 2. Xây dựng kịch bản và hình thức hoạt động tranh biện Để diễn ra một cuộc tranh luận có hiệu quả cần phải có một kế hoạch tỉ mì và cần có sự hợp tác của giáo viên và học sinh. - Thứ nhất: Xác định vấn đề tranh biện: Giáo viên cần phải xác định mục tiêu, yêu cầu của bài học cũng như nắm vững nội dung bài học. Từ việc xác định nội dung tranh biện, GV sẽ căn cứ vào vị trí, thời lượng của nội dung đó so với bài học là bao nhiêu để linh hoạt vấn đề tổ chức và sắp xếp thời gian cho hoạt động tranh biện một cách hợp lí, không ảnh hưởng đến thời lượng của cả tiết học. * Thứ 2: Lập kế hoạch tổ chức tranh biện: Kế hoạch tổ chức cho học sinh tranh biện cần được thể hiện một cách chi tiết thông qua việc thiết kế giáo án. Bên cạnh việc thiết kế giáo án, giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi, sử dụng trong 2 trường hợp. Trước hết là để hỗ trợ cho quá trình chuẩn bị nội dung tranh luận cho học sinh. Giáo viên sẽ đưa ra một số câu hỏi mang tính chất định hướng khai thác nội dung ngay sau khi cho học sinh biết vấn đề tranh biện để gợi ý hướng để HS biết cách tìm tài liệu và xây dựng luận cứ, dẫn chứng. Câu hỏi phải rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, chính xác và ở nhiều mức độ khác nhau. c. Bước 3. Tổ chức hoạt động tranh biện - Thứ nhất: GV giới thiệu vấn đề tranh biện, HS tiếp nhận nhiệm vụ. Vấn đề tranh biện phải được GV đưa ra hết sức cụ thể và sinh động, trong đó chứa đựng các mâu thuẫn nhận thức. Ở giai đoạn này HS phải nhận thức được các mâu thuẫn và có nhu cầu giải quyết nó. Đây là động lực thúc đẩy tính tích cực tư duy sáng tạo của từng học sinh. 12
  18. - Thứ 2: Tổ chức cho HS đưa ra ý kiến, quan điểm, đánh giá của mình và tranh biện lẫn nhau. Đây là bước cơ bản và trọng tâm nhất của quá trình tranh biện, hiệu quả của giờ học sử dụng phương pháp tranh biện phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của GV và HS ở bước này. Công việc này rèn luyện cho HS cách nghe, hiểu, tái hiện được kiến thức đã thu nhận được thông qua việc tranh biện với các học sinh khác, từ đó học sinh tự mở rộng được hiểu biết của mình cũng như làm sâu sắc hơn những kiến thức mình đã có. GV làm trọng tài khoa học, theo dõi kết quả làm việc của của học sinh và có những định hướng kịp thời. Thứ 3: GV chốt lại những vấn đề có bản, trọng tâm. Trên cơ sở những ý kiến tranh biện của học sinh, giáo viên khái quát toàn bộ vấn để, chốt lại những vấn đề cơ bản, trọng tâm và gợi mở tư duy cho học sinh.Đồng thời giáo viên cần dành thời gian động viên, khen thưởng kịp thời những thành viên, nhóm hoạt động tích cực, có kết quả làm việc tốt và tích cực. d. Bước 4. Kiểm tra, đánh giá kết quả bài học theo hoạt động tranh biện Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong quá trình dạy học có tầm quan trọng đặc biệt. Việc tổ chức tranh biện với tư cách là phương pháp dạy học cần được kiểm tra đánh giá, thông qua đó để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh, đồng thời rút kinh nghiệm cho quá trình về sau. Ví dụ: Khi dạy văn bản “Sự sống và cái chết”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh liên hệ thực tế thông qua nhiệm vụ: Ngoài việc biết thêm các thông tin khoa học về Trái Đất, em còn nhận được những thông điệp gì từ văn bản Sự sống và cái chết? Trình bày suy nghĩ của em về những thông điệp đó. Đồng tình hay không đồng tình với thông điệp mà tác giả đưa ra? Vì sao? (Giáo viên tổ chức cho học sinh tranh biện ở hoạt động luyện tập – áp dụng và tuân thủ đúng các bước cơ bản trên. 13
  19. 2) Biện pháp 2. Hướng dẫn HS chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước khi tới lớp và giao một số câu hỏi, vấn đề mang tính chất tranh biện. Sáng tạo trong cách thức đưa ra vấn đề tranh biện trong bài học, cách thức tham gia hoạt động tranh biện của học sinh. 2.1. Hướng dẫn HS chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước khi tới lớp và giao một số câu hỏi, vấn đề mang tính chất tranh biện. Khâu chuẩn bị bài kỹ lưỡng có một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tổ chức hoạt động tranh biện trong lớp học. Vậy làm như thế nào để học sinh có thể chuẩn bị bài hiệu quả? - Thứ nhất. Để chuẩn bị bài hiệu quả học sinh cần đọc kỹ văn bản, đọc kỹ các nội dung trong tiết học bài học, bản sát yêu cầu cần đạt, bán sách hệ thống câu hỏi cậy dẫn trong sách giáo khoa. - Thứ 2. Vừa đọc văn bản, vừa đọc hệ thống tri thức, vừa đưa ra hệ thống câu hỏi cần giải đáp. - Thứ 3. Sử dụng các kênh tham khảo hữu ích như: YouTube, trang Google, hệ thống sách tham khảo để cùng khám phá tri thức trong văn bản. Các công cụ này chỉ được sử dụng sau khi học sinh trăn trở tìm tòi và tự mình khám phá hệ thống tri thức trong văn bản. - Thứ 4. GV có thể sử dụng hệ thống phiếu học tập hoặc hệ thống câu hỏi gợi dẫn hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài tại nhà. - Thứ 5. GV có thể sử dụng phương pháp dự án để giao nhiệm vụ cho các nhóm chuẩn bị bài, chuẩn bị các nội dung tranh biện tại nhà. Ví dụ: Dạy văn bản “Con đường không chọn”, GV có thể giao nhiệm vụ cho học sinh về chuẩn bị bài, trong đó có nhiệm vụ sau: 14
  20. 2.2. Sáng tạo trong cách thức đưa ra vấn đề tranh biện trong bài học, cách thức tham gia hoạt động tranh biện của học sinh. a. Đối tượng đưa ra nội dung tranh biện. - GV là người đưa ra vấn đề tranh biện cho HS. - HS đưa ra vấn đề tranh biện khi khám phá tri thức bài học. HS có thể đưa ra vấn đề tranh biện với các thành viên trong lớp học hay đưa ra vấn đề tranh luận cùng GV. 4b. Sáng tạo trong cách thức đưa ra hoạt động tranh biện. * Đưa ra câu hỏi tranh biện thông qua kỹ thuật đặt câu hỏi. Khi dạy bài 9 “Hành trang cuộc sống về chính chúng ta”, ở hoạt động luyện tập, tôi cho HS chia sẻ ý kiến theo kỹ thuật Thinhk – Pair-Share với câu hỏi: Tìm hiểu quan điểm của tác giả về khả năng nhận thức của con người? Quan điểm của em về vấn đề này? (Sử dụng phương pháp đặt câu hỏi để tổ chức hoạt động tranh biện cho học sinh.) * Đưa ra vấn đề tranh biện thông qua phương pháp trực quan khoa học. Sử dụng hình ảnh hay video liên quan tới vấn đề. Ví dụ: Khi dạy bài: Nghệ thuật truyền thống của người Việt, giáo viên có thể cho học sinh xem các hình ảnh: Những hình ảnh sau gợi đến loại hình nghệ thuật nào? Em hãy chỉ ra điểm chung của loại hình nghệ thuật này? Có ý kiến cho rằng: Các loại hình nghệ thuật là một nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc cần được giữ gìn, phát huy, các loại hình văn hoá nước ngoài không nên để du nhập vào Việt Nam trong quá trình hội nhập Quốc tế để đảm bảo sự hoà nhập chứ không hoà tan của văn hoá. (Đưa ra vấn đề tranh biện thông qua phương pháp trực quan khoa học ở hoạt động mở đầu) 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0