intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tiếp cận, nhìn nhận khái niệm toán học dưới nhiều cách khác nhau để phát triển năng lực tư duy và giải quyết vấn đề cho học sinh trung học phổ thông

Chia sẻ: Behodethuonglam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:58

30
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến giúp học sinh phát triển năng lực tư duy và lập luận toán học, phát triển năng lực giải quyết vấn đề toán học góp phần phát huy tính tích cực chủ động và phát triển phẩm chất năng lực toàn diện cho học sinh được thể hiện theo cách riêng biệt mà không trùng với bất cứ giải pháp nào đã được đề cập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tiếp cận, nhìn nhận khái niệm toán học dưới nhiều cách khác nhau để phát triển năng lực tư duy và giải quyết vấn đề cho học sinh trung học phổ thông

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: TIẾP CẬN, NHÌN NHẬN KHÁI NIỆM TOÁN HỌC  DƯỚI NHIỀU CÁCH KHÁC NHAU ĐỂ PHÁT TRIỂN  NĂNG LỰC TƯ DUY VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LĨNH VỰC: TOÁN HỌC
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 2 _____________________________________________________________ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: TIẾP CẬN, NHÌN NHẬN KHÁI NIỆM TOÁN HỌC  DƯỚI NHIỀU CÁCH KHÁC NHAU ĐỂ PHÁT TRIỂN  NĂNG LỰC TƯ DUY VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LĨNH VỰC: TOÁN HỌC Người thực hiện: NGÔ TRÍ THỤ Tổ bộ môn: Toán ­ Tin Thời gian thực hiện: Năm học 2020 ­ 2021 Số điện thoại: 0982112369
  3. Diễn Châu, tháng 3 năm 2021
  4. MỤC LỤC PHẦN I. MỞ ĐẦU 1 PHẦN II. NỘI DUNG 3 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 3 1.1. Cơ sở lí luận 3 1.1.1. Năng lực 3 1.1.2. Dạy học theo tiếp cận phát triển năng lực 3 1.1.3. Đặc điểm năng lực Toán học 5 1.1.4. Các thành tố của năng lực Toán học 5 1.1.5. Cấu trúc bài học môn Toán theo tiếp cận phát triển năng lực 7 1.2. Cơ sở thực tiễn 8 2. TIẾP CẬN, NHÌN NHẬN KHÁI NIỆM TOÁN HỌC DƯỚI NHIỀU  CÁCH KHÁC NHAU ĐỂ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY VÀ GIẢI  QUYẾT VẤN ĐỀ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 9 2.1. Bài Toán 1 9 Trong mặt phẳng với hệ tọa độ Oxy cho, , . Chứng minh là ba đỉnh của một tam giác. 9 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VÀ ĐIỀU TRA QUAN SÁT 24 3.1. Giáo án thực nghiệm số 1 24 3.2. Giáo án thực nghiệm số 2 34 3.3. Điều tra quan sát 46 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO 53
  5. PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nâng cao chất lượng giáo dục đang là một yêu cầu cấp bách đối với  ngành giáo dục nước ta. Một trong những khâu then chốt để  thực hiện yêu cầu  này là đổi mới nội dung và phương pháp dạy học.  Trong bối cảnh Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đòi hỏi  giáo dục phổ thông cũng phải có bước chuyển căn bản tập trung vào xây dựng  và hoàn thiện nhân cách (phẩm chất và năng lực) con người Việt Nam đáp ứng  yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, việc tiếp cận dần với chương trình giáo dục  phổ thông 2018 đang là một yêu cầu cấp thiết và gấp rút đối với ngành giáo dục   đặc biệt là giáo viên, người trực tiếp thực thi và thực hiện chương trình, việc  đổi mới cách thức và phương pháp dạy học đang là một xu thế tất yếu diễn ra.  Một trong những phương pháp dạy học quan trong để giúp giáo viên và học sinh  thực hiện tốt chương trình giáo dục phổ  thông 2018 chính là phương pháp dạy   học theo định hướng phát triển năng lực người học. Trong quá trình dạy và học Toán THPT, học sinh được tiếp cận với rất   nhiều khái niệm Toán học cũng như các Định lí Toán học, các kết quả Toán học  quan trọng. Một vấn đề  đặt ra là làm thế  nào để  các em hiểu, nhớ  và biết vận  dụng khái niệm Toán học đó một cách linh hoạt trong nhiều tình huống bài tập   Toán học thì đòi hỏi ở người giáo viên phải có một phương pháp tốt một sự trăn  trở mỗi khi chuẩn bị bài, trước mỗi tiết học cho các em. Chính giáo viên cũng là   người truyền cảm hứng môn học, truyền kiến thức, phương pháp môn học cho  các em vì thế  nếu trước mỗi khái niệm các em được phân tích, mổ  xẻ  và nhìn  nhận theo nhiều hướng khác nhau sẽ giúp các em hiểu kĩ, hiểu sâu khái niệm từ  đó giúp các em biết vận dụng chúng theo nhiều khía cạnh, nhiều góc độ  khác   nhau trước mỗi tình huống bài tập Toán học đồng thời từ  việc biết vận dụng   khái niệm Toán học theo nhiều góc độ  khác nhau  ấy sẽ  giúp các em phát triển   năng lực tư  duy và lập luận toán học, năng lực giải quyết vấn đề  toán học,   đồng thời giúp các em có khả  năng linh hoạt trong suy nghĩ giải quyết các vấn   đề thực tiễn cuộc sống. Từ những mục đích nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề  tài:   “Tiếp cận, nhìn nhận khái niệm toán học dưới nhiều cách khác nhau để   phát triển năng lực tư duy và giải quyết vấn đề cho học sinh trung học phổ   thông”. 2. Tính mới của đề tài Sáng kiến giúp học sinh phát triển năng lực tư  duy và lập luận toán học,   phát triển năng lực giải quyết vấn đề toán học góp phần phát huy tính tích cực   chủ  động và phát triển phẩm chất năng lực toàn diện cho học sinh được thể  hiện theo cách riêng biệt mà không trùng với bất cứ  giải pháp nào đã được đề  cập. 1
  6. Chứng minh tính khả  thi và tính hiệu quả  khi áp dụng đề  tài nhằm nâng  cao chất lượng và hiệu quả dạy học. 2
  7. PHẦN II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Năng lực Các nhà tâm lí học cho rằng, năng lực là sự kết hợp của các kiến thức, kĩ   năng và thái độ có sẵn hoặc ở dạng tiềm năng của một cá nhân, là tổng hợp đặc  điểm thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt  động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó có hiệu quả  cao. Hiện nay,   quan niệm chung về  năng lực được nhiều người thừa nhận là: “Năng lực là  thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ  tố  chất sẵn có và quá trình  học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ   năng và các thuộc tính cá nhân khác như  hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện  thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những   điều kiện cụ thể” (Chương trình Giáo dục phổ  thông tổng thể  (tháng 7/2017)).   Như vậy:  ­ Năng lực là sự  kết hợp giữa tố  chất sẵn có và quá trình học tập, rèn  luyện của người học. ­ Năng lực là sự tích hợp của kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân  khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… ­ Năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và thể hiện ở  sự thành công trong hoạt động thực tiễn. Khái quát lại năng lực có thể  hiểu là sự  kết hợp của các kiến thức, kĩ  năng, phẩm chất, thái độ  và hành vi của một cá nhân để  thực hiện một công  việc có hiệu quả. Năng lực không chỉ bao hàm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn  cả giá trị, động cơ, đạo đức và hành vi xã hội. Theo tác giả Trần Kiều (2014): “Các năng lực cần hình thành và phát triển   cho người học môn Toán trong trường phổ thông Việt Nam là: năng lực tư duy;   năng lực giải quyết vấn đề; năng lực mô hình hóa; năng lực giao tiếp; năng lực  sử dụng công cụ, phương tiện học toán; năng lực học tập độc lập và hợp tác”. 1.1.2. Dạy học theo tiếp cận phát triển năng lực Theo Đặng Thành Hưng (2014): “Bản chất của giáo dục theo tiếp cận  phát triển năng lực là lấy năng lực làm cơ  sở  (tham chiếu) để  tổ  chức chương   trình và thiết kế nội dung học tập. Điều này cũng có nghĩa là năng lực của học   sinh sẽ  là kết quả  cuối cùng cần đạt của quá trình dạy học hay giáo dục. Nói  cách khác, thành phần cuối cùng và cơ  bản của mục tiêu giáo dục là các phẩm  chất và năng lực của người học. Năng lực vừa được coi là điểm xuất phát đồng  thời là sự  cụ  thể  hóa của mục tiêu giáo dục. Vì vậy, những yêu cầu về  phát  triển năng lực học sinh cần được đặt đúng chỗ  của chúng trong mục tiêu giáo  3
  8. dục”. Dạy học theo tiếp cận năng lực nhấn mạnh: ­ Muốn có năng lực, học sinh phải học tập và rèn luyện trong hoạt động  và bằng hoạt động. Mặt khác, các năng lực được hình thành trong quá trình dạy  học không chỉ   ở  nhà trường mà còn dưới tác động của gia đình, xã hội, của   chính trị, tôn giáo, văn hóa… ­ “Lấy việc học của h ọc sinh làm trung tâm”, chú ý tới mỗi cá nhân học  sinh, giúp họ  tự  tìm tòi, khám phá, làm chủ  tri thức và vận dụng vào giải  quyết các tình huống thực tế  cuộc sống, qua đó có thể  rút ra kinh nghiệm và   tri thức cho riêng mình. ­ Kết quả  đầu ra của người học, những gì người học làm được sau khi   kết thúc chương trình học hoặc kết thúc bài học, nhấn mạnh đến khả năng thực  tế của học sinh. ­ Cách học, yếu tố  tự  học của người học. Thay vì lối dạy truyền thống  thầy giảng trò nghe có thể tổ chức cho các nhân tự học, học theo nhóm, học theo   sở thích và mối quan tâm riêng của người học,... ­ Giáo viên là người thiết kế, tổ chức và hướng dẫn học sinh tích cực, tự  lực thực hiện các nhiệm vụ học tập. ­ Môi trường dạy học phải tạo điều kiện tương tác tích cực giữa học sinh   với học sinh, giữa giáo viên với học sinh, thúc đẩy và tạo cho học sinh hiện thực   hóa năng lực của mình thông qua quan sát, tìm tòi, khám phá, sáng tạo. ­ Khuyến khích việc  ứng dụng công nghệ, thiết bị  dạy học (đặc biệt là  ứng dụng công nghệ  và thiết bị  dạy học hiện đại) nhằm tối  ưu hóa việc phát  huy năng lực người học. Dạy học theo tiếp cận năng lực toán học nhấn mạnh các đặc điểm: ­ Năng lực Toán học không chỉ bao hàm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn  cả động cơ, thái độ, hứng thú và niềm tin trong học toán. Muốn có năng lực toán  học học sinh phải rèn luyện, thực hành, trải nghiệm trong học tập môn Toán. ­ Nhấn mạnh đến kết quả đầu ra, dựa trên những gì người học làm được  (có tính đến khả  năng thực tế  của học sinh). Khuyến khích người học tìm tòi,  khám phá trí thức toán học vận dụng vào thực tiễn. Đích cuối cùng cần đạt là   phải hình thành được năng lực học tập môn Toán ở học sinh. ­ Nhấn mạnh đến cách học, yếu tố  tự  học của người học. Giáo viên là  người hướng dẫn và thiết kế, còn học sinh phải tự xây dựng kiến thức và hiểu  biết toán học của riêng mình. ­ Xây dựng môi trườ ng dạy học tương tác tích cực. Phối hợp các hoạt   động tương tác của học sinh giữa các cá nhân, cặp đôi, nhóm hoặc hoạt động  chung cả  lớp và hoạt động tương tác giữa giáo viên và học sinh trong quá  4
  9. trình dạy học môn Toán. ­ Khuyến khích việc  ứng dụng công nghệ, thiết bị  dạy học môn Toán  (đặc biệt là ứng dụng công nghệ và thiết bị dạy học) nhằm tối ưu hóa việc phát   huy năng lực của người học.  1.1.3. Đặc điểm năng lực Toán học Năng lực Toán học là một loại hình năng lực chuyên môn, gắn liền với   môn học. Có nhiều quan niệm khác nhau về  năng lực toán học. Hiệp hội giáo  viên Toán của Mĩ mô tả: “Năng lực Toán học là cách thức nắm bắt và sử  dụng   nội dung kiến thức toán”. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, các nhà nghiên  cứu thường nhắc tới quan niệm về năng lực toán học của các nhà giáo dục toán   học Đan Mạch và đề xuất của tác giả Trần Kiều (Viện khoa học giáo dục Việt  Nam). Theo Blomhoj  &  Jensen (2007): “Năng lực Toán học như  khả  năng sẵn   sàng hành động để  đáp  ứng với thách thức toán học của các   tình huống  nhất  định”. Theo Niss (1999): “Năng lực Toán học như khả năng của các nhân để  sử  dụng các khái niệm toán học trong một loạt các tình huống có liên quan đến toán   học, kể cả những lĩnh vực bên trong hay bên ngoài của toán học (để hiểu,  quyết  định và giải thích)”. Niss cũng xác định tám thành tố  của năng lực toán học và  chia thành hai cụm. Cụm thứ nhất bao gồm: năng lực tư duy toán học; năng lực  giải quyết vấn đề  toán học; năng lực mô hình hóa toán học; năng lực suy luận   toán học. Cụm thứ  hai bao gồm: năng lực biểu diễn; năng lực giao tiếp toán   học; năng lực sử dụng công cụ, phương diện toán. Tám năng lực đó tập trung vào những gì cần thiết để  cá nhân có thể  học   tập và  ứng dụng toán học. Các năng lực này không hoàn toàn độc lập mà liên   quan chặt chẽ và có phần giao thoa với nhau. Theo tác giả  Trần Kiều (2014): “Các năng lực cần hình thành và phát  triển cho người học qua dạy học môn Toán trong trường phổ  thông  Việt Nam  là: Năng lực tư  duy; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực mô hình hóa toán  học; năng lực giao tiếp; năng lực sử dụng công cụ, phương tiện toán học; năng  lực độc lập và hợp tác”. 1.1.4. Các thành tố của năng lực Toán học Trước hết, mục đích then chốt của việc học toán là để  trở  thành những  con người “thông minh hơn”, biết cách suy nghĩ, giải quyết vấn đề  trong học   tập và đời sống. Muốn vậy, mỗi người cần biết cách “chuyển dịch”, mô tả  các  tình huống (có ý nghĩa toán học) đặt ra trong thực tiễn phong phú sang một bài  toán hay một mô hình toán học thích hợp, tìm cách giải quyết các vấn đề  toán   học trong mô hình được thiết lập, từ đó đối chiếu, giải quyết các vấn đề  thực  tiễn đề ra. Mặt khác, việc giải quyết các vấn đề toán học gắn liền với việc đọc  5
  10. hiểu, ghi chép, trình bày, diễn đạt các nội dung, ý tưởng, giải pháp toán học  trong sự tương tác (thảo luận, tranh luận, phản biện) với người khác, gắn liền  với  việ  sử  dụng hiệu quả  ngôn ngữ  toán học kết hợp với ngôn ngữ  thông   thường hoặc động tác hình thể. Năng lực học toán bao gồm các thành tố: năng lực tư duy và lập luận toán   học; năng lực mô hình hóa toán học; năng lực giải quyết vấn đề toán học; năng  lực giao tiếp toán học; năng lực sử dụng công cụ phương tiện học toán. Mỗi thành tố của năng lực toán học cần được biểu hiện cụ thể bằng các  tiêu chí, chỉ báo. Điều này có độ phức tạp cao và được minh họa trong bảng: Các thành tố  của năng lực  Các tiêu chí, chỉ báo toán học Thể hiện qua việc thực hiện được các hành động: ­   So   sánh;   phân   tích;   tổng   hợp;   đặc   biệt   hóa,   khái   quát   hóa;  1.   Năng   lực  tương tự; quy nạp; diễn dịch. tư   duy   và  lập   luận  ­ Chỉ  ra được chứng cứ, lí lẽ  và biết lập luận hợp lí trược khi   toán học kết luận. ­ Giải thích hoặc điều chỉnh cách thức giải quyết vấn đề  về  phương diện toán học Thể hiện qua việc thực hiện được các hành động: ­ Sử dụng các mô hình toán học (gồm công thức, phương trình,  2.  Năng   lực  bảng biểu, đồ thị,…) để mô tả các tình huống trong các bài toán  mô   hình   hóa  thực tế. toán học ­ Giải quyết các vấn đề toán học trong mô hình thiết lập. ­ Thể  hiện và đánh giá lời giải trong ngữ  cảnh thực tế  và cải   tiến mô hình nếu cách giải quyết không phù hợp. Thể hiện qua việc thực hiện được các hành động: ­ Nhận biết, phát hiện được vấn đề  cần giải quyết bằng toán  học. 3.   Năng   lực  ­ Đề  xuất, lựa chọn được cách thức, giải pháp giải quyết vấn  giải   quyết  đề. vấn   đề   toán  học. ­ Sử  dụng được các kiến thức, kĩ năng toán học tương thích   (bao gồm các công cụ  và thuật toán) để  giải quyết vấn đề  đặt  ra. ­ Đánh giá giải pháp đề ra và khái quát hóa cho vấn đề tương tự. 6
  11. Thể hiện qua việc thực hiện được các hành động: ­ Nghe hiểu, đọc hiểu và ghi chép được các thông tin toán học  cần thiết được trình bày dưới dạng văn bản toán học hay do  người khác nói hoặc viết ra. 4.   Năng   lực  ­   Trình   bày,   diễn   đạt   (nói   hoặc   viết)   được   các   nội   dung,   ý  giao   tiếp  tưởng, giải pháp toán học trong sự  tương tác với người khác  toán học (với yêu cầu thích hợp về sự đầy đủ, chính xác). ­ Sử dụng hiệu quả ngôn ngữ toán học (chữ số, chữ cái, kí hiệu,  biểu đồ, đồ  thị, các liên kết logic,…) kết hợp với ngôn ngữ  thông thường hoặc động tác hình thể khi trình bày, giải thích và  đánh giá các ý tưởng toán học trong sự  tương tác (thảo luận,  tranh luận) với người khác. Thể hiện qua việc thực hiện được các hành động: ­ Biết tên gọi, tác dụng, quy cách sử  dụng, cách thức bảo quản   các đồ  dùng, phương tiện trực quan thông thường, phương tiện  5.   Năng   lực  khoa học công nghệ  (đặc biệt là phương tiện sử  dụng công  sử   dụng  nghệ thông tin) phục vụ cho việc học toán. công   cụ,  ­ Sử  dụng thành thạo và linh hoạt các công cụ  và phương tiện  phương   tiện  học toán,  đặc biệt  là phương tiện khoa học công nghệ  để  tìm  học toán tòi khám phá giải quyết vấn đề toán học (phù hợp với đặc điểm  nhận thức lứa tuổi). ­   Chỉ   ra   được   các   ưu   điểm,   hạn   chế   của   những   công   cụ,  phương tiện hỗ trợ để có cách sử dụng hợp lí. 1.1.5. Cấu trúc bài học môn Toán theo tiếp cận phát triển năng lực Mô hình dạy học theo tiếp cận phát triển năng lực gồm các bước chủ  yếu: Trải nghiệm ­ Phân tích, khám phá, rút ra bài học ­ Thực hành, luyện tập ­   Vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn. * Trải nghiệm: Để  nhận thức được về  một đối tượng, một sự  việc hay   một vấn đề nào đó, người học phải dựa trên vốn kiến thức, vốn kinh nghiệm đã   có từ  trước. Trong môn Toán, kiến thức hình thành trước thường là cơ  sở  để  hình thành và phát triển những kiến thức tiếp theo. Do đó trong dạy học, giáo viên cần phải tìm hiểu vốn kinh nghiệm và  hiểu biết sẵn có của học sinh trước khi học một kiến thức mới và tổ  chức cho   học sinh trải nghiệm. Sự định hướng và tổ chức các hoạt động của giáo viên là   quan trọng, nhưng vốn kiến thức của học sinh, những trải nghiệm của học sinh  vẫn là yếu tố quyết định trong việc hình thành kiến thức mới. Trong dạy học dựa trên trải nghiệm giáo viên cần tạo ra các tình huống  7
  12. gợi vấn đề để học sinh được trải nghiệm bằng cách huy động các kiến thức và   kinh nghiệm thực tiễn để suy nghĩ, biến đổi đối tượng hoạt động, tìm ra hướng  giải quyết vấn đề. Hoạt động trải nghiệm được thiết kế dựa trên mục tiêu bài  học và những kiến thức đã có của học sinh. Hoạt động trải nghiệm sẽ giúp học  sinh có hứng thú trong học tập, thôi thúc học sinh khám phá tìm hiểu kiến thức  mới. *Phân tích, khám phá, rút ra bài học: Qua hoạt động trải nghiệm, học sinh  đã bước đầu tiếp cận được với kiến thức cảu bài học. Do đó, hoạt động phân  tích ­ rút ra bài học cần phải được thiết kế  với các hình thức tổ  chức học tập  phong phú giúp học sinh biết huy động kiến thức, chia sẻ  và hợp tác trong học   tập để thu nhận kiến thức mới. Sau khi học sinh đã phát hiện ra kiến thức mới,   giáo viên là người chuẩn hóa lại kiến thức cho học sinh để rút ra bài học. *Thực hành, luyện tập: Hoạt động này cần được thiết kế  sao cho mỗi  học sinh đều được tự  mình giải quyết vấn đề  rồi chia sẻ  với bạn về cách giải  quyết vấn đề. Khi thiết kế  hoạt động này, giáo viên cần xác định được những  thuận lợi và khó khăn của học sinh, dự  kiến được những tình huống học sinh   cần sự trợ giúp trong học tập. Hoạt động này giúp học sinh củng cố  kiến thức   vừa học và huy động, liên kết với kiến thức đã có để thực hiện giải quyết vấn   đề. Giáo viên cần tổ  chức các hoạt động học tập phong phú để  tránh sự  nhàm  chán cho học sinh. *Vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn: Mục đích của hoạt động này   là giúp học sinh vận dụng được kiến thức, kĩ năng, thái độ  đã được tích lũy từ  quá trình học tập môn Toán và những kinh nghiệm của bản thân vào giải quyết  các vấn đề  trong thực tiễn học tập hoặc trong cuộc sống một cách sáng tạo;  phát triển cho học sinh năng lực tổ chức và quản lí hoạt động, năng lực tự nhận  thức và tích cực hóa bản thân. Giáo viên hướng dẫn học sinh kết nối, sắp xếp,   vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học để  giải quyết vấn đề  đặt ra. Giáo viên  cũng có thể tổ chức hoặc đưa ra yêu cầu, dự  án học tập để  học sinh thực hiện   theo cá nhân, theo nhóm. Như vậy, Dạy học theo hướng tiếp cận phát triển năng lực người học là  cách thức tổ chức quá trình dạy học thông qua một chuỗi các hoạt động học tập  tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh, với sự  hợp tác của bạn học và sự  hướng dẫn, trợ giúp hợp lí của giáo viên, hướng đến mục tiêu hình thành và phát   triển năng lực toán học. Quá trình đó có thể  được tổ  chức theo chu trình bốn   bước là: Trải nghiệm ­ Phân tích, khám phá, rút ra bài học ­ Thực hành, luyện  tập ­ Vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn. 1.2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tiễn dạy và học Toán cho thấy đây là môn học khó cho đại đa  số  học sinh nhất là khi mà yêu cầu học sinh làm các bài tập mức độ  vận dụng   trở  lên. Với đối tượng là học sinh trung bình và yếu chúng ta chỉ  cần yêu cầu  8
  13. học sinh biết tái hiện kiến thức, các em biết bắt chước các bài tập ví dụ  mẫu,   làm được các bài tập  ở  mức độ  nhận biết và thông hiểu đã là một thành công  nên việc đòi hỏi các em hiểu, vận dụng và nhìn nhận một khái niệm Toán học   dưới nhiều cách khác nhau là rất khó khăn. Với đối tượng học sinh trung bình  khá và khá về môn Toán chúng ta có thể yêu cầu các em phải làm thành thạo bài  tập mức độ 1 và 2 và bước đầu biết vận dụng khái niệm vào giải quyết các bài   tập  ở  mức độ  vận dụng. Việc tiếp cận, nhìn nhận khái niệm Toán học dưới  nhiều cách khác nhau có thể yêu cầu các em phải thực hiện dưới sự hướng dẫn   khá cụ  thể  của giáo viên. Với đối tượng học sinh giỏi Toán chúng ta yêu cầu   học sinh phải làm thành thạo các bài tập đến mức độ  vận dụng và giải quyết   được cơ  bản các bài tập mức độ  vận dụng cao. Việc tiếp cận, nhìn nhận khái  niệm Toán học dưới nhiều cách khác nhau giáo viên có thể  yêu cầu các em  ở  mức độ  tự  tìm hiểu, tìm hiểu độc lập với giáo viên trong quá trình tự  học.  Ở  trên lớp công việc này giáo viên cũng có thể đặt ra yêu cầu các em tự  tìm hiểu   hoặc tìm hiểu có sự  trợ giúp của giáo viên dưới dạng gới ý, gợi mở sau đó các  em tự giải quyết vấn đề. Như  vậy về cơ  sở  thực tiễn cho việc khả thi của đề  tài là hoàn toàn có thể thực hiện được, đồng thời khi triển khai thực hiện đề tài   cá nhân tác giả khẳng định rằng với đối tượng học sinh nào các em cũng sẽ thấy  được sự hứng khởi nhất định đặc biệt với đối tượng học sinh giỏi các em sẽ rất   hào hứng và tích cực qua đó sẽ phát triển năng lực Toán học nói riêng đặc biệt   là hai thành tố  “năng lực tư  duy và lập luận toán học, năng lực giải quyết các   vấn đề toán học” và năng lực tư duy nói chung cho các em giúp các em linh hoạt   hơn trong tư duy, trong giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống. 2.   TIẾP   CẬN,   NHÌN   NHẬN   KHÁI   NIỆM   TOÁN   HỌC   DƯỚI   NHIỀU   CÁCH  KHÁC NHAU  ĐỂ  PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ  DUY VÀ GIẢI QUYẾT  VẤN ĐỀ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Trong phần này chúng tôi đưa ra những tình huống là các bài toán cụ thể  mà trong đó muốn giải được thì học sinh phải nắm được khái niệm đề  cập  đến trong bài Toán đồng thời trong mỗi bài Toán đó chúng tôi sẽ  dẫn dắt gợi  mở  giúp học sinh được tiếp cận và nhìn nhận khái niệm đó dưới nhiều cách  khác nhau qua đó giúp các em hiểu sâu hơn khái niệm Toán học đồng  thời giúp  các em phát triển tư  duy lôgic và lập luận Toán học, phát triển năng lực giải  quyết vấn đề, giúp các em linh hoạt hơn trong các tình huống là các bài Toán  thực tế của cuộc sống hàng ngày. 2.1. Bài Toán 1 Trong   mặt   phẳng   với   hệ   tọa   độ   Oxy   cho A ( 1;2 ) ,   B ( −3;1) ,  C ( 5;2 ) .  Chứng minh  A, B, C là ba đỉnh của một tam giác. Nhận xét: Ba điểm  A, B, C là ba đỉnh của một tam giác khi và chỉ khi chúng  là ba điểm không thẳng hàng. Như vậy bài Toán gián tiếp đề cập đến khái niệm   Ba điểm không thẳng hàng. 9
  14. Cách tiếp cận thứ  nhất:  Ba điểm   A, B, C không thẳng hàng nếu chúng   không cùng thuộc một đường thẳng, chẳng hạn điểm A không nằm trên đường   thẳng đi qua hai điểm B và C. Với cách tiếp cận này ta có lời giải: Lời giải: ­ Viết phương trình đường thẳng  BC :  uuur r Ta có   BC = ( 8;1)   là VTCP của đường thẳng   BC ,   n = ( 1; −8)   là VTPT của  đường thẳng  BC .  Phương trình đường thẳng  BC :  1( x − 5) − 8 ( y − 2 ) = 0   � x − 8 y + 11 = 0 . ­ Kiểm tra điểm A không thuộc đường thẳng   BC : Thay tọa độ  điểm A  vào phương trình đường thẳng   BC   ta thấy   1.1 − 8.2 + 11 = −4 0   � A �BC . Vậy  A, B, C  không thẳng hàng nên chúng là ba đỉnh của một tam giác. Cách  tiếp  cận  thứ  hai:  Ba  điểm   A, B, C không thẳng hàng nếu chúng   không cùng thuộc một đường thẳng, chẳng hạn điểm A không nằm trên đường   thẳng đi qua hai điểm B và C điều này đồng nghĩa với khoảng cách từ  A đến   đường thẳng BC là một số dương. Với cách tiếp cận này ta có lời giải: Lời giải: ­ Phương trình đường thẳng  BC  là:  x − 8 y + 11 = 0 . ­   Khoảng   cách   từ   điểm   A   đến   đường   thẳng   BC :  1.1 − 8.2 + 11 4 d ( A; BC ) = = >0 12 + ( − 8) 65 2 � A �BC . Vậy   A, B, C không thẳng hàng nên chúng là ba đỉnh của một tam   giác. Cách tiếp cận thứ  ba:  Ba điểm   A, B, C không thẳng hàng khi và chỉ  khi   uuur uuur hai véc tơ  AB và  AC không cùng phương. Với cách tiếp cận này ta có lời giải: uuur uuur Lời giải: Ta có  AB ( −4; −1) ,  AC = ( 4;0 ) . 4 0 uuur uuur Do  AB và  AC không cùng phương. Vậy  A, B, C không thẳng hàng  −4 −1 nên chúng là ba đỉnh của một tam giác. Cách tiếp cận thứ  tư:  Ba điểm   A, B, C không thẳng hàng khi và chỉ  khi   uuur uuur hai véc tơ   AB và  AC không cùng phương điều này đồng nghĩa với góc giữa hai   uuur uuur véc tơ AB và  AC khác 00 và khác 1800. Với cách tiếp cận này ta có lời giải: uuur uuur uuur uuur uuur uuur ( ) AB. AC 16 Lời giải: Ta có  AB ( −4; −1) ,  AC = ( 4;0 ) ;  cos AB, AC = uuur uuur = 4 65 > 0 AB . AC uuur uuur ( uuur ) uuur � 00 < AB, AC < 1800  nên  AB và  AC không cùng phương. Vậy  A, B, C không  thẳng hàng nên chúng là ba đỉnh của một tam giác. Cách tiếp cận thứ năm: Ba điểm  A, B, C là ba đỉnh của một tam giác khi   10
  15. và chỉ  khi diện tích miền phẳng giới hạn bới ba đoạn thẳng nối ba điểm đó là   một số dương. Với cách tiếp cận này ta có lời giải: Lời giải: Ta có  AB = ( −3 − 2 ) 2 + ( 1 − 2 ) 2 = 26 ,  BC = ( 5 + 3) 2 + ( 2 − 1) 2 = 65 , AB + BC + CA 26 + 65 + 4 ( 5 − 1) + ( 2 − 2 ) = 4 ,  p = ,  2 2 CA = = 2 2 p − AB = 65 + 4 − 26 ,  p − BC = 4 + 26 − 65 ,  p − CA = 65 + 26 − 4 . Ta xét số 2 2 2 1135 1135 p ( p − AB ) ( p − BC ) ( p − CA) = > 0 . Vậy  S∆ABC = > 0 .  4 4 Chứng tỏ A, B, C là ba đỉnh của một tam giác. Cách tiếp cận thứ  sáu: Ba điểm  A, B, C không thẳng hàng khi và chỉ  khi   chúng cùng thuộc một đường cong Parabol. Với cách tiếp cận này chúng ta sẽ   chỉ ra có một đường Parabol đi qua 3 điểm  A, B, C . Ta có lời giải: Lời giải: Xét parabol  y = ax 2 + bx + c, a 0 . Thay tọa độ   A, B, C vào phương  a+b+c =2 trình  y = ax 2 + bx + c,  ta có hệ phương trình:  9a − 3b + c = 1 .  25a + 5b + c = 2 1 3 59 Giải   hệ  ta   được   a = − ,b = ,c = .   Vậy A, B, C cùng   thuộc   Parabol  32 16 32 1 2 3 59 y=− x + x+  nên chúng không thẳng hàng. Chứng tỏ  A, B, C là ba đỉnh của  32 16 32 một tam giác. Cách tiếp cận thứ bảy: Ba điểm  A, B, C không thẳng hàng khi và chỉ  khi   chúng cùng thuộc một đường tròn.Với cách tiếp cận này chúng ta sẽ  chỉ  ra có   một đường tròn đi qua ba điểm A, B, C . Ta có lời giải: Lời giải: Xét phương trình đường tròn  x 2 + y 2 − 2ax − 2by + c = 0   với  a 2 + b2 − c > 0 . Thay tọa độ   A, B, C vào phương trình đường tròn ta có hệ  phương trình:  2 a + 4b − c = 5 29 6a − 2b + c = −10 . Giải hệ  ta  được   a = 3, b = − , c = −57 . Vậy   A, B, C cùng thuộc  2 10a + 4b − c = 29 đường tròn có phương trình  x 2 + y 2 − 6 x + 29 y − 57 = 0  nên chúng không thẳng hàng.  Chứng tỏ  A, B, C là ba đỉnh của một tam giác. Cách tiếp cận thứ tám: Ba điểm  A, B, C không thẳng hàng khi và chỉ  khi   hai đường thằng  AB  và  BC  không trùng nhau. Với cách tiếp cận này ta có lời  giả: 11
  16. Lời giải: ­ Phương trình đường thẳng  BC  là:  x − 8 y + 11 = 0 . ­ Phương trình đường thẳng  AB là:  x − 4 y + 7 = 0 , ta thấy ngay  AB và  BC là  hai đường thẳng cắt nhau vậy  A, B, C là ba điểm không thẳng hàng nên chúng là  ba đỉnh của một tam giác. Lời bình:  +) Trong bài Toán trên ta bàn đến việc chứng minh ba điểm   A, B, C là ba đỉnh của một tam giác là một bài Toán quen thuộc và khá đơn giản   đối với học sinh lớp 10 THPT. Bài Toán trên đã gián tiếp đề cập đến khái niệm  ba điểm không thẳng hàng. Một cách đơn giản ba điểm  A, B, C không thẳng hàng  khi và chỉ khi chùng không cùng thuộc một đường thẳng thế thi với những cách  tiếp cận như trên chúng ta đã chỉ  ra cho học sinh thấy rằng khái niệm ba điểm  không cùng năm trên một đường thẳng sẽ  được hiểu trực tiếp rằng có một   điểm không thuộc đường thẳng đi qua hai điểm còn lại, đồng thời cũng đã chỉ ra  cho học sinh thấy rằng một điểm không thuộc đường thẳng đi qua hai điểm còn  lại cũng có nghĩa rằng nó có khoảng cách khác 0 đến đường thẳng đó hoặc nó  cùng với hai điểm kia tạo thành một miền phẳng có diện tích khác không. Ở đây  tác giả muốn lưu ý thêm rằng, trong cách chứng minh ba điểm  A, B, C tạo thành  miền   phẳng  có   diện   tích   khác   0   chúng   ta   đã   đi   tính   giá   trị   biểu   thức  p ( p − AB ) ( p − BC ) ( p − CA)   và   thấy   nó   khác   0   thì   mới   khẳng   định   A, B, C tạo  thành tam giác chứ  không phải thừa nhận   A, B, C là ba đỉnh của một tam giác  trước rồi mới đi tính diện tích của nó. Ngoài ra, chúng ta cũng đã cho học sinh  thấy thêm hai cách tiếp cận, cách nhìn khác về khái niệm ba điểm thẳng hàng đó  là:   Ba   điểm   không   thẳng   hàng   cũng   đồng   nghĩa   với   chùng   cùng   thuộc   một  đường Parabol hoặc một đường tròn. +) Việc cho học sinh tiếp cận với khái niệm ba điểm không thẳng hàng  theo nhiều cách, nhiều con đường khác nhau có tác dụng: ­ Giúp các em hiểu sâu hơn về khái niệm, nhớ khái niệm lâu hơn. ­ Các em có cách nhìn phong phú hơn, linh hoạt hơn về  khái niệm đó.   Giúp các em phát triển tư duy lôgic và lập luận Toán học. ­ Giúp các em có nhiều  hướng xử  lí, nhiều cách giải cho một bài Toán  giúp phát triển năng lực giải quyết vấn đề Toán học.  ­ Trong quá trình giải bài Toán theo nhiều cách khác nhau cũng gián tiếp  cho giúp các em vận dụng các khái niệm khác liên quan đến lời giải. ­ Về  mặt thực tiễn cuộc sống: Giúp các em có kĩ năng nhìn nhận, phân  tích, mổ xẻ trước các vấn đề của bài Toán thực tế cuộc sống hàng ngày và các   em cũng sẽ  có được kĩ năng xử  lí tình huống, giải quyết tình huống gặp trong  cuộc sồng hằng ngày một cách mềm dẻo và linh hoạt. +) Ngoài các cách tiếp cận và nhìn nhận khái niệm ba điểm thẳng hàng đã  đề  cập  ở  trên để  giải quyết Bài Toán 1, thì chúng ta cũng có thể  cho học sinh   nhìn nhận bài Toán  ở  góc độ  phản chứng. Chúng ta sẽ  đặt câu hỏi cho các em   12
  17. “Giả sử ngược lại ba điểm  A, B, C không là ba đỉnh của một tam giác thì dẫn tới  điều gì?” và bài Toán bây giờ  chuyển về  việc kiểm tra tính thẳng hàng của ba  điểm  A, B, C . 2.2. Bài Toán 2. (BT 11 trang 81 SGK HH12 Nâng cao NXB GD) Trong không gian với hệ tọa độ   Oxyz cho bốn điểm  A ( 1;0;0 ) ,  B ( 0;1;0 ) ,  C ( 0;0;1) , D ( −2;1; −2 ) . Chứng minh  A, B, C , D  là bốn đỉnh của một hình tứ diện. Nhận xét:  Bài Toán đề  cập đến khái niệm “Hình tứ  diện”. Theo định  nghĩa (trang 52 SGK HH11 NXBGD; trang 49 SGK HH11 nâng cao NXB GD)  thì: Trong không gian cho bốn điểm  A, B, C , D không đồng phẳng. Hình tạo thành  bởi   bốn   tam   giác   ABC ,   ACD ,   ABD   và   BCD   gọi   là   hình   tứ   diện.   Các   điểm  A, B, C , D  gọi là đỉnh của tứ diện. Như vậy để chứng minh bốn điểm  A, B, C , D  là  bốn đỉnh của một tứ diện ta chứng minh chúng không đồng phẳng. Chúng ta sẽ  giúp học sinh hiểu khái niệm bốn điểm không đồng phẳng theo nhiều cách tiếp   cận và nhìn nhận khác nhau. Cách tiếp cận thứ nhất: Bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng nghĩa là   có một điểm không nằm trên mặt phẳng chứa ba điểm còn lại, chẳng hạn điểm   D không thuộc mặt phẳng  ( ABC ) .  Ta có lời giải: Lời giải: ­ Viết phương trình mp ( ABC ):  uuur uuur r uuur uuur AB, AC �= ( 1;1;1) : là VTPT của mp( ABC AB = ( −1;1;0 ) ,  AC = ( −1;0;1)  nên  n = � � � ). Phương trình mp ( ABC ):  x + y + z − 1 = 0 . ­ Thay tọa độ điểm D vào phương trình mp ( ABC ) ta có:  −2 + 1 − 2 − 1 = −4 0 � D �mp ( ABC ) nên   bốn   điểm   A, B, C , D   không   đồng  phẳng. Vậy  A, B, C , D  là bón đỉnh của một tứ diện. Nhận xét: Việc viết phương trình mặt phẳng ( ABC ) có thể có nhiều cách  khác nữa, chẳng hạn có thể sử dụng phương trình đường thẳng theo đoạn chắn  hoặc gọi phương trình mặt phẳng ( ABC ) ở dạng tổng quát  ax + by + cz + d = 0, a 2 + b2 + c 2 0 , giải hệ tìm  a, b, c, d . Cách tiếp cận thứ  hai: Bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng nghĩa là   có một điểm không nằm trên mặt phẳng chứa ba điểm còn lại, chẳng hạn điểm   D không thuộc mặt phẳng  ( ABC )  đồng nghĩa với điểm D có khoảng cách khác 0   tới mặt phẳng  ( ABC ) . Ta có lời giải: Lời giải: ­ Phương trình mp ( ABC ) :  x + y + z − 1 = 0 . ­ Khoảng cách từ D đến mặt phẳng  ( ABC ) :  13
  18. 1. ( −2 ) + 1.1 + 1. ( −2 ) − 1 4 d ( D, mp( ABC ) ) = > 0   suy ra  điểm  D mp ( ABC )   nên bốn  = 1 +1 +1 2 2 3 2 điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng. Vậy  A, B, C , D  là bốn đỉnh của một tứ diện. Cách   tiếp   cận   thứ   ba:  Bốn   điểm   A, B, C , D   không   đồng   phẳng     uuur uuur uuur uuur uuur AB, AC , AD   không đồng phẳng   AB   không thể  biểu thị  theo hai véc tơ   AC và  uuur AD . Ta có lời giải: uuur uuur uuur Lời giải: Ta có:  AB = ( −1;1;0 ) ,  AC = ( −1;0;1) ,  AD = ( −3;1; −2 ) . −1 = − x − 3 y x = −2 uuur uuur uuur Giả  sử   AB = x AC + y AD � 1 = y � y =1 hệ  vô nghiệm. Suy ra  0 = x − 2y x − 2y = 0 uuur uuur uuur AB  không thể biểu thị theo hai véc tơ   AC và  AD  nên bốn điểm  A, B, C , D  không  đồng phẳng. Vậy  A, B, C , D  là bốn đỉnh của một tứ diện. Cách   tiếp   cận   thứ   tư:  Bốn   điểm   A, B, C , D   không   đồng   phẳng     uuur uuur uuur uuur uuur uuur AB, AC , AD  không đồng phẳng    � � AB, AC �AD 0 . Ta có lời giải: � uuur uuur uuur Lời giải: Ta có:  AB = ( −1;1;0 ) ,  AC = ( −1;0;1) ,  AD = ( −3;1; −2 ) . uuur uuur uuur uuur uuur �AB, AC �= ( 1;1;1) ,   � AB, AC �AD = −4 0   suy   ra   bốn   điểm   A, B, C , D   không  � � � � đồng phẳng. Vậy  A, B, C , D  là bốn đỉnh của một tứ diện. Cách tiếp cận thứ năm: Bốn điểm  A, B, C , D  là bốn đỉnh của một tứ diện   bốn miền tam giác ABC , ABD , ACD  và  BCD tạo thành một vật thể  chiếm chỗ   không gian có thể tích khác 0. Ta có lời giải: uuur uuur uuur Lời giải: Ta có:  AB = ( −1;1;0 ) ,  AC = ( −1;0;1) ,  AD = ( −3;1; −2 ) . Kiểm tra được  không có ba điểm nào trong bốn điểm  A, B, C , D thẳng hàng. uuur uuur uuur uuur uuur AB, AC �= ( 1;1;1) ,  � � AB, AC �AD = −4 � � � � 1 uuur uuur uuur 2 2 suy ra   �� AB, AC �AD =   >0 � VABCD = > 0 . Vậy   A, B, C , D   là bốn đỉnh của một tứ  � 6 3 3 diện. Cách tiếp cận thứ sáu: Bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng khi và chỉ   khi có hai bộ  mỗi bộ  ba điểm trong bốn điểm thuộc hai mặt phẳng phân biệt,   chẳng hạn ba điểm   A, B, C   cùng thuộc một mặt phẳng, ba điểm   A, B, D   cùng  thuộc một mặt phẳng và hai mặt phẳng này khác nhau. Ta có lời giải: uuur uuur uuur Lời giải: Ta có:  AB = ( −1;1;0 ) ,  AC = ( −1;0;1) ,  AD = ( −3;1; −2 ) .  ­ Phương trình mp ( ABC ) :  x + y + z − 1 = 0 . uuur uuur AB, AD �= ( −2; −2;2 ) , phương trình mp ( ABD ) :  x + y − z − 1 = 0 . � � � 14
  19. Hai mp ( ABC )   và mp ( ABD )   là phân biệt nên bốn điểm   A, B, C , D   không  đồng phẳng. Vậy  A, B, C , D  là bốn đỉnh của một tứ diện. Cách tiếp cận thứ bảy: Bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng khi và chỉ   khi có hai bộ  mỗi bộ  ba điểm trong bốn điểm thuộc hai mặt phẳng phân biệt,   chẳng hạn ba điểm A, B, C   cùng thuộc một mặt phẳng, ba  điểm   A, B, D   cùng  thuộc một mặt phẳng và hai mặt phẳng này khác nhau điều này cũng có nghĩa là   hai mặt phẳng này sẽ tạo với nhau một góc nhọn. Ta có lời giải: Lời giải:  ur ­ Phương trình mp ( ABC ) :  x + y + z − 1 = 0 , VTPT  n1 = ( 1;1;1) . uur ­ Phương trình mp ( ABD ) :  x + y − z − 1 = 0 , VTPT  n2 = ( 1;1; −1) . ur uur ur uur ( ) n1.n2 1 Cos n1 , n2 = ur uur = � Cos (? n1 . n2 3 ( 1 ABC ) , ( ABD ) =   3 ) (? ( ABC ) , ( ABD ) ) 00 .   Vậy  bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng nên chúng là bốn đỉnh của một tứ diện. Cách tiếp cận thứ tám: Bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng khi và chỉ   khi đường thẳng AD nằm ngoài mặt phẳng  ( ABC )  điều này cũng đồng nghĩa với   góc giữa đường thẳng AD và mp ( ABC )  nhọn. Ta có lời giải: ur Lời giải: ­ Phương trình mp ( ABC ) :  x + y + z − 1 = 0 , VTPT  n1 = ( 1;1;1) . uuur AD = ( −3;1; −2 ) : VTCP của đường thẳng  AD .  ur uuur ur uuur ( n1. AD ) 5 Ta có:  Cos n1 , AD = ur uuur = 42 � sin AD n1 . AD ? , ( ABC ) = 5 42 ( ) ( ? , ( ABC ) > 00 � AD ) . Vậy bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng nên chúng  là bốn đỉnh của một tứ diện. Cách tiếp cận thứ  chín:  Bốn điểm   A, B, C , D   không đồng phẳng tương   đương với hai đường thẳng AB và CD là hai đường thẳng chéo nhau. Ta có lời  giải: x = 1 − t1 uuur uuur Lời giải: Ta có:  AB = ( −1;1;0 ) , ptđt AB là  y = t1  ;  CD = ( −2;1; −3) , ptđt CD  z=0 x = −2t2 −2t2 = 1 − t1 uuur uuur là  y = t2 . Vì hệ   t2 = t1  và  AB kCD, ∀k  nên hai đường thẳng AB và CD  z = 1 − 3t2 1 − 3t2 = 0 chéo nhau. Vậy bốn điểm   A, B, C , D   không đồng phẳng nên chúng là bốn đỉnh  của một tứ diện. Cách tiếp cận thứ mười: Bốn điểm  A, B, C , D  không đồng phẳng tương   15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0