Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vài kinh nghiệm đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở
lượt xem 2
download
Nghiên cứu đề tài “Vài kinh nghiệm đổi mới kiểm tra - đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở” với mong muốn đóng góp thêm một số đề mở có gợi ý đáp án để cùng bàn bạc, tham khảo, rút kinh nghiệm chung. Đồng thời qua đề tài này, tác giả muốn trao đổi với đồng nghiệp về kinh nghiệm ra đề mở, làm đáp án mở, chấm mở.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vài kinh nghiệm đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở
- ĐỀ TÀI: VÀI KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN NGỮ VĂN QUA HỆ THỐNG ĐỀ MỞ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI “Muốn chữa bệnh cần có thuốc đắng” Đó là quan điểm mà ông Nguyễn Vinh Hiển, Thứ trưởng bộ GD&ĐT đã nêu ra trong cuộc hội thảo về đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ngày 10/4/2014 tại Hà Nội. Theo ông Nguyễn Vinh Hiển, để thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam thì phải xem việc đổi mới kiểm tra đánh giá là khâu đột phá, có ý nghĩa quan trọng để “chữa bệnh” cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay một nền giáo dục còn nhiều bất cập. Khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 26/2020/TTBGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS, THPT ban hành kèm Thông tư số 58/2011/TTBGDĐT đã thể hiện rõ quan điểm đổi mới hoạt động kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, đảm bảo hoạt động kiểm tra, đánh giá như một hoạt động học tập. Đối với bộ môn Ngữ Văn, việc đổi mới kiểm tra đánh giá có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì đổi mới kiểm tra đánh giá có tác dụng thúc đẩy việc thay đổi phương pháp dạy và học. Một trong những biện pháp để thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá môn Ngữ Văn hiện nay là việc ra đề mở loại đề gây hứng thú cho học sinh, có khả năng tạo không gian thoáng cho học sinh suy nghĩ. Việc ra đề mở đối với bộ môn Ngữ Văn không phải là mới mẻ. Tại Trung Quốc, Mĩ và nhiều nước khác trên thế giới đã áp dụng kiểu đề theo hướng mở để phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Ở nước ta hiện nay, việc ra đề mở cũng đã được chú ý trong các kì thi Tốt nghiệp THPT, Tuyển sinh ĐH CĐ, Tuyển chọn Học sinh giỏi. Song có một thực tế không thể phủ nhận rằng: ở một số trường học còn quá quen ra đề văn theo kiểu truyền thống, trong đó bao giờ cũng có yêu cầu về nội dung (kiến thức) và yêu cầu về cách thức thể hiện, dưới hình thức mệnh lệnh. Khi chấm bài, chúng ta vẫn dựa vào việc đếm ý phù hợp với đáp án để cho điểm. Điều này có nguồn gốc từ cách dạy học còn cũ kĩ: người dạy thường cảm nhận, lí giải những vấn đề của cuộc sống, của văn chương thay cho học sinh. Và trong kiểm tra – đánh giá, yêu cầu học sinh lặp lại cách hiểu, cách cảm mà người dạy đã truyền đạt! Do cách ra đề và đáp án “đóng”, cùng với việc coi trọng kiến thức văn học hơn rèn luyện kĩ năng nên các đề kiểm tra viết lâu nay chưa tạo điều kiện cho học sinh phát biểu những suy nghĩ riêng và vận dụng những kiến thức đã học vào việc giải quyết 1
- những vấn đề đặt ra trong cuộc sống của mình. Điều này đã góp phần dẫn đến việc học sinh ngày càng không “mặn mà” đối với bộ môn Ngữ văn. Đó là một sự thật đáng buồn, nhất là đối với những giáo viên dạy văn yêu nghề, yêu văn chương ! Qua thực tiễn giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thức được rằng: để thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành thì việc đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn là khâu đột phá có ý nghĩa vô cùng quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học bộ môn, góp phần nâng dần chất lượng giáo dục. Đặc biệt, việc ra đề mở trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn là hướng đi tất yếu, phù hợp với nhu cầu đào tạo thế hệ trẻ tích cực năng động cho thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đó là lí do tôi chọn đề tài: “Vài kinh nghiệm đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở”. Trong công tác giảng dạy, việc ra đề mở để kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu, kĩ năng viết của học sinh phải được thực hiện thường xuyên; nghĩa là phải được thực hiện trong kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, kiểm tra cuối học kì... Có như vậy mới phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ trình bày những kinh nghiệm trong việc ra đề mở và mạnh dạn giới thiệu hệ thống đề mở ở phần Làm văn trong kiểm tra định kì nhằm đánh giá kĩ năng viết, phù hợp với trình độ học sinh THPT. II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Mặc dù yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra từ năm 2002 nhưng thực tế cho thấy cách dạy nhồi nhét kiến thức vẫn còn khá thịnh hành; nặng cung cấp kiến thức, xem nhẹ tính chất công cụ của bộ môn. Điều này có nhiều nguyên nhân như chương trình, sách giáo khoa hiện hành chưa phù hợp “khiến tiết Văn như bị cầm tù trong lớp”, không ít thầy cô giáo còn chưa quen với việc ra đề mở, chấm mở…Trong đó, nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dạy học còn nhiều bất cập này là do việc chậm đổi mới trong kiểm tra đánh giá. Hiện nay, việc kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở bậc THPT chưa “đo” được năng lực người học và chưa góp phần điều chỉnh, đổi mới phương pháp dạy học. Các đề kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, đề thi học kì thường ra theo dạng “đề đóng”, tính tích hợp (giữa các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn học và liên môn) chưa rõ. Để làm được bài, học sinh phải ghi nhớ máy móc nội dung bài học. Đáp án của đề thi đưa ra hệ thống ý mà các em phải trình bày cùng với biểu điểm cụ thể, chi tiết. Cách làm này mang tính áp đặt, không khuyến khích tính sáng tạo và sự độc lập 2
- trong suy nghĩ của học sinh. Như vậy, đề “đóng” chưa đánh giá được toàn diện năng lực Ngữ văn của người học, chưa khuyến khích được sự sáng tạo của học sinh trong làm bài. Ngoài ra, “tâm lí thực dụng” chi phối khi chúng ta đưa ra các câu hỏi trong đề kiểm tra thường xuyên, định kì, kiểm tra học kì đều theo “mẫu”, theo “dạng” của các đề thi tốt nghiệp và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng. Tính “ổn định” trong cách ra đề và làm đáp án của hai kì thi Quốc gia này có ảnh hưởng không nhỏ tới việc kiểm tra đánh giá và phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông lâu nay. Mấy năm qua, nhiều thầy cô giáo, nhiều tổ chuyên môn nhận rõ thực trạng này và đã có nhiều cố gắng thay đổi cách thức kiểm tra – đánh giá. Tại buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ Ngữ Văn tại trường THPT Quế Phong ngày 10/4/2019, chúng tôi đã lấy việc ra đề mở làm chủ đề để thảo luận. Dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tất cả đều thống nhất việc ra đề mở trong bộ môn Ngữ văn là cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học văn. Thời gian qua, việc ra đề mở đã được giới thiệu rải rác trong các sách tham khảo, trên các trang mạng xã hội. Đặc biệt, đã có một hệ thống đề mở môn Ngữ văn cho khối 10, 11 do PGS. TS Đỗ Ngọc Thống chủ biên. Số lượng các đề mở đưa ra rất phong phú, đa dạng, là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, số lượng đề mở đưa ra nhiều nhưng số lượng đề có gợi ý làm bài rất ít. Thêm vào đó, các đề này chỉ phù hợp với học sinh khá giỏi; vì theo PGS. TS Đỗ Ngọc Thống, “ Đề mở là loại đề khó, vì loại đề này đòi hỏi học sinh sáng tạo, biết nêu những suy nghĩ cá nhân, không dựa vào những tài liệu có sẵn,… Loại đề này rất phù hợp với học sinh khá giỏi và cần thiết khi muốn phân hóa đối tượng người học”(Hệ thống đề mở Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, 2008). Như vậy, có thể thấy, theo quan niệm của nhiều người, việc ra đề mở chỉ phù hợp với học sinh khá, giỏi. Đối với những lớp có trình độ thấp, người ta vẫn ra đề theo kiểu truyền thống. Từ thực tế giảng dạy ở những lớp có trình độ khác nhau, tôi nhận thấy rằng đề mở không phải bao giờ cũng khó và việc ra đề mở trong tất cả các bài kiểm tra ở tất cả các lớp, khối lớp cần được đẩy mạnh và thực hiện thường xuyên, đồng bộ. Việc ra đề mở đã và sẽ phát huy được tác dụng tích cực, nếu chúng ta biết ra đề mở phù hợp với đối tượng học sinh mình giảng dạy. Các lớp thể nghiệm: 10A3, 11A1 và Đội tuyển Học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 10 của Trường. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài “Vài kinh nghiệm đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở” với mong muốn đóng góp thêm một số đề mở có gợi ý đáp án để cùng bàn bạc, tham khảo, rút kinh nghiệm chung. Đồng thời qua đề tài này, tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp về kinh nghiệm ra đề mở, làm đáp án mở, chấm mở.... Tôi cũng xem 3
- đây là một cách tự cải thiện, nâng dần năng lực chuyên môn của bản thân để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành Giáo dục. Các lớp thể nghiệm: 10A3, 11A1 và Đội tuyển Học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 10 của trường THPT Quế Phong. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau đây: Phương pháp nghiên cứu lý luận để phân tích, tổng hợp, nghiên cứu, khái quát những vấn đề liên quan đến việc đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở ở trường trung học phổ thông. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn để khảo sát, tổng kết, đánh giá thực tiễn hoạt động dạy học môn ngữ văn nói chung cũng như việc kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường trung học phổ thông. Các phương pháp khác nhằm hỗ trợ, phục vụ cho quá trình nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn, xây dựng biện pháp và thực nghiệm thăm dò tính khả thi, cần thiết của việc đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở ở trường THPT. IV. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Ngoài phần đặt vấn đề và phần kết luận, nội dung của đề tài tập trung làm sáng rõ các vấn đề sau: Phần I. Cơ sở của đề tài 1. Cơ sở lí luận 2. Cơ sở thực tiễn Phần II. Nội dung nghiên cứu 1. Đề mở và ưu thế của đề mở 2. Những định hướng khi kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở 3.Về việc làm đáp án của đề mở 4.Về việc chấm bài 5.Thực hành ra đề mở Phần III. Kết quả nghiên cứu Trên đây là bản đề cương sáng kiến kinh nghiệm theo đề tài “Vài kinh nghiệm đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở”. 4
- PHẦN I: CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Thực hiện nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết 29/NQTW, ngày 6/3/2014, Bộ GD&ĐT đã ban hành Kế hoạch số 103/KHBGDĐT về việc tổ chức hội thảo “ Đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn trong trường phổ thông”, với mục đích: nghiên cứu cơ sở lý luận và xây dựng kế hoạch triển khai việc đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực người học với cách thức xây dựng đề thi/kiểm tra và đáp án theo hướng mở; tích hợp kiến thức liên môn. Hoạt động kiểm tra đánh giá trên thực tế luôn diễn ra song hành với hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh. Do vậy, việc đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ có ý nghĩa thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học và có tác động tích cực trở lại đối với quá trình dạy học. Với môn học Ngữ văn, một trong những hướng đổi mới kiểm tra đánh giá đang được quan tâm hiện nay là việc ra đề kiểm tra theo hướng mở. Đây được coi là một trong những bước đột phá, tạo nên điểm nhấn trong dạy học Ngữ văn những năm qua. Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã đề ra mục tiêu thay đổi căn bản, toàn diện nền Giáo dục Việt Nam. Trong đó, Hội nghị ban hành Nghị quyết số 29NQ/TW về việc “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc... Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan”. Vừa qua, Bộ GD & ĐT đã tổ chức diễn đàn trao đổi trên báo Giáo dục Thời đại và tiến hành hội thảo nhằm đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn theo yêu cầu phát triển năng lực học sinh. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ được tiến hành theo các mức độ: từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp, từ hẹp đến rộng, từ kiến thức của một vài môn đến tổng hợp liên môn, trong lộ trình đổi mới mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa sau năm 2022. Việt Nam cũng đã tham gia Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) và đạt được kết quả hết sức khả quan, nhất là ở lĩnh vực đọc hiểu. Trên thực tế, năng lực Ngữ văn của học sinh phong phú hơn nhiều so với những “chuẩn” nêu ở trong 5
- chương trình hiện hành. Vì vậy, không cần phải đợi đến khi có chương trình giảng dạy phổ thông môn Ngữ văn theo hướng tiếp cận năng lực ra đời mới đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập Ngữ văn của học sinh theo hướng đánh giá năng lực. Gần đây, ở các tổ chuyên môn, sinh hoạt cụm chuyên môn đều thường xuyên tổ chức các chuyên đề về những cách thức nghiên cứu và đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, trong đó có chương trình môn Ngữ văn theo hướng tiếp cận năng lực. Điều đó cho thấy việc đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua đề mở là hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế. 2. Cơ sở thực tiễn Mặc dù yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra từ năm 2002 nhưng thực tế cho thấy cách dạy nhồi nhét kiến thức vẫn còn khá thịnh hành; nặng cung cấp kiến thức, xem nhẹ tính chất công cụ của bộ môn. Điều này có nhiều nguyên nhân như chương trình, sách giáo khoa hiện hành chưa phù hợp “khiến tiết văn như bị cầm tù trong lớp”, không ít thầy cô giáo còn chưa quen với việc ra đề mở, chấm mở…Trong đó, nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dạy học còn nhiều bất cập này là do việc chậm đổi mới trong kiểm tra đánh giá. Hiện nay, việc kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn bậc THPT ở một số đơn vị chưa “đo” được năng lực người học và chưa góp phần điều chỉnh, đổi mới phương pháp dạy học. Các đề kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, đề thi học kì thường ra theo dạng “đề đóng”, tính tích hợp (giữa các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn học và liên môn) chưa rõ. Để làm được bài, học sinh phải ghi nhớ máy móc nội dung bài học. Đáp án của đề thi đưa ra hệ thống ý mà các em phải trình bày cùng với biểu điểm cụ thể, chi tiết. Cách làm này mang tính áp đặt, không khuyến khích tính sáng tạo và sự độc lập trong suy nghĩ của học sinh. Như vậy, đề “đóng” chưa đánh giá được toàn diện năng lực Ngữ văn của người học, chưa khuyến khích được sự sáng tạo của học sinh trong làm bài. Mấy năm qua, nhiều thầy cô giáo, nhiều Tổ chuyên môn nhận rõ thực trạng này và đã có nhiều cố gắng thay đổi cách thức kiểm tra – đánh giá. Tại các buổi sinh hoạt chuyên môn nhóm Ngữ Văn tại trường THPT Quế Phong, trong rất nhiều cuộc họp chúng tôi lấy việc ra đề mở làm chủ đề để thảo luận. Dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tất cả đều thống nhất việc ra đề mở trong bộ môn Ngữ văn là cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học văn. Các giáo viên dạy Ngữ văn của Trường THPT Quế Phong sau sinh hoạt chuyên môn đã ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy. Mọi phản hồi đều khẳng định các đề mở rất hứng thú cho học sinh, phát huy tối đa năng lực, phẩm chất của học sinh. Và chính điều này, rất thuận lợi cho các em vì được thoải mái bày tỏ quan điểm, chính kiến của riêng mình. 6
- Với nhận thức thay đổi, việc ra đề mở đã được giới thiệu trong các sách tham khảo, trên các trang mạng xã hội. Trước khi diễn ra cuộc thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2018, tại buổi họp báo, nhiều PV báo đài đặt câu hỏi quan tâm đến cách chấm thi, đáp án đề thi môn Ngữ văn THPT quốc gia. Trả lời câu hỏi này, ông Mai Văn Trinh khẳng định, cách ra đề mở không mới. “Từ năm 2014, bộ đã bắt đầu sử dụng các câu hỏi mở. Trên nguyên tắc, câu hỏi mở thì đáp án cũng mở. Chỉ cần thí sinh làm bài thi không trái thuần phong mỹ tục và trái pháp luật thì đều được chấp nhận, cho điểm”. Lý giải thêm về điều này, ông Sái Công Hồng, Phó Cục trưởng Cục quản lý chất lượng (Bộ GD&ĐT) nói thêm, đa số các môn thi đều ở dạng trắc nghiệm duy chỉ có đề Ngữ văn là tự luận. Đề đảm bảo chuẩn kiến thức chương trình lớp 11 và lớp 12 với các câu hỏi được chia theo 4 cấp độ. Do đó, những câu hỏi cấp độ vận dụng cao sẽ khó hơn. Cụ thể, trong đề văn năm nay, hội đồng đề đã lựa chọn 2 tác phẩm thuộc chương trình lớp 12 và 1 tác phẩm thuộc chương trình lớp 11. Như vậy ban ra đề đã đáp ứng đúng chủ trương. Theo đáp án môn Ngữ văn mà Bộ GD&ĐT công bố ngay sau đó, ở câu 4, phần I đề yêu cầu thí sinh nêu quan điểm “Có còn phù hợp...” thì đáp án chỉ đưa ra ba phương án trả lời: “Thí sinh có thể trả lời quan điểm của tác giả còn phù hợp/ không còn phù hợp/phù hợp một phần nhưng phải lí giải hợp lý, thuyết phục”. Hay ở phần làm văn, đề yêu cầu viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về sứ mệnh “đánh thức tiềm lực”, đáp án cũng chỉ yêu cầu thí sinh làm rõ sứ mệnh “đánh thức tiềm lực” đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện nay. Đáp án đưa ra các hướng như: xuất phát từ thực tiễn đất nước, mỗi cá nhân cần ý thức được sứ mệnh của mình, có hành động cụ thể để đánh thức tiềm lực bản thân, từ đó tác động tích cực đến cộng đồng nhằm đánh thức tiềm lực đất nước. TS Trịnh Thu Tuyết, Nguyên giáo viên dạy Ngữ văn Trường THPT Chu Văn An (Hà Nội) cho rằng, đây là một đáp án đã chuyển vấn đề nội dung quan điểm sang bình diện học thuật, chủ yếu kiểm tra khả năng lập luận và tính thuyết phục của lập luận. Hoàn toàn có thể ghi nhận đây là một đáp án mở theo tinh thần của Bộ GD&ĐT, tuy nhiên, với một vấn đề mang tính thời sự, giành được sự quan tâm của đông đảo dư luận cộng đồng, nếu có được một số ý cơ bản cho từng phương án thì giám khảo và thí sinh sẽ yên tâm hơn trước sự phát sinh các phương án trả lời của những thí sinh có sự hiểu biết, quan tâm và tâm huyết với cuộc sống xã hội xung quanh mình. Việc đánh giá bài làm của học trò sẽ không bị phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của người chấm. Đặc biệt, đã có một hệ thống đề mở môn Ngữ văn cho khối 10, 11 do PGS. TS Đỗ Ngọc Thống chủ biên. Số lượng các đề mở đưa ra rất phong phú, đa dạng, là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, số lượng đề mở đưa ra nhiều nhưng số lượng đề có gợi ý làm bài rất ít. Thêm vào đó, các đề này chỉ phù hợp với học sinh khá giỏi; vì theo PGS. TS Đỗ Ngọc Thống, “ Đề mở là loại đề khó, vì loại đề này đòi hỏi học sinh sáng tạo, biết nêu những suy nghĩ cá nhân, không dựa vào những tài liệu có 7
- sẵn,… Loại đề này rất phù hợp với học sinh khá giỏi và cần thiết khi muốn phân hóa đối tượng người học”(Hệ thống đề mở Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, 2008). Như vậy, có thể thấy, theo quan niệm của nhiều người, việc ra đề mở chỉ phù hợp với học sinh khá, giỏi. Đối với những lớp có trình độ thấp, người ta vẫn ra đề theo kiểu truyền thống. Từ thực tế giảng dạy ở những lớp có trình độ khác nhau, tôi nhận thấy rằng đề mở không phải bao giờ cũng khó và việc ra đề mở trong tất cả các bài kiểm tra ở tất cả các lớp, khối lớp cần được đẩy mạnh và thực hiện thường xuyên, đồng bộ. Việc ra đề mở đã và sẽ phát huy được tác dụng tích cực, nếu chúng ta biết ra đề mở phù hợp với đối tượng học sinh mình giảng dạy Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài “Vài kinh nghiệm đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở” với mong muốn đóng góp thêm một số đề mở có gợi ý đáp án để cùng bàn bạc, tham khảo, rút kinh nghiệm chung. Đồng thời qua đề tài này, tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp về kinh nghiệm ra đề mở, làm đáp án mở, chấm mở.... Tôi cũng xem đây là một cách tự cải thiện, nâng dần năng lực chuyên môn của bản thân để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành Giáo dục. 8
- PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Đề mở và ưu thế của đề mở Trong nha tr ̀ ương ph ̀ ổ thông, kiểm tra la khâu quan trong, chu yêu đê ̀ ̣ ̉ ́ ̉ ́ ̣ xac đinh năng l ực cua ng ̉ ươi hoc, t ̀ ̣ ư đo co c ̀ ́ ́ ơ sở đê điêu chinh qua trinh day va ̉ ̀ ̉ ́ ̀ ̣ ̀ ̣ ̀ ̣ hoc; la đông l ực đê đôi m ̉ ̉ ơi ph ́ ương phap day hoc, gop phân nâng chât l ́ ̣ ̣ ́ ̀ ́ ượng dạy – học trong nha tr ̀ ương. Co nhiêu hinh th ̀ ́ ̀ ̀ ức đê đanh gia. Bai kiêm tra la ̉ ́ ́ ̀ ̉ ̀ ̣ ương tiên va hinh th công cu, ph ̣ ̀ ̀ ưc quan trong trong viêc đanh gia hoc sinh. ́ ̣ ̣ ́ ́ ̣ Trước đây, trong dạy học Làm văn, chúng ta thường ra đề văn truyền thống, trong đó bao giờ cũng có phạm vi kiến thức và yêu cầu dưới hình thức câu mệnh lệnh. Ví dụ: Đề 1: Hãy phân tích hình tượng Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Đề 2: Hãy bình giảng đoạn thơ sau: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc …………………………………. Sông Mã gầm lên khúc độc hành. (Trích “ Tây Tiến” Quang Dũng, SGK Ngữ văn 12) Có thể thấy, đề Làm văn truyền thống không tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính độc lập suy nghĩ, chủ động sáng tạo khi làm bài, không phân loại được năng lực học sinh mà chủ yếu dừng lại ở những nội dung kiểm tra kiến thức văn học. Đây là loại đề “đóng” (chữ dùng của PGS.TS Đỗ Ngọc Thống). Đề văn truyền thống đã tạo ra những hệ lụy: sách văn mẫu tràn lan ở các quầy sách tham khảo, trên mạng internet, cả trong cách giảng dạy, ôn luyện của chúng ta, nên “vô tình” định hình trong không ít học sinh một “phương pháp học tập” lệch lạc: học và ôn tập không xuất phát từ tác phẩm văn học, từ suy nghĩ mang màu sắc cá nhân mà từ bài văn mẫu, từ cách cảm cách nghĩ thay của thầy cô bộ môn. GS Phan Trong Luân nhân đinh: “ ̣ ̣ ̣ ̣ Caí dở nhât cua đê thi Văn hiên nay la chu yêu nhăm đên khâu tai hiên kiên th ́ ̉ ̀ ̣ ̀ ̉ ́ ́ ́ ́ ̣ ́ ức ̉ theo kiêu "nh ớ lai" ch ̣ ứ không chu y đên vân dung kiên th ́ ́ ́ ̣ ̣ ́ ức cua hoc sinh", ̉ ̣ ̉ ̣ ̉ ́ ́ "quanh đi quân lai cung chi co mây kiêu đê v ̃ ̉ ̀ ới mây chu điêm quen thuôc: ́ ̉ ̉ ̣ ̀ ̉ không binh giang thi phân tich, không phân tich thi ch ̀ ́ ́ ̀ ưng minh, không ch ́ ứng minh thi cao h ̀ ơn la binh luân. Tr ̀ ̀ ̣ ở đi trở lai cung chi co mây bai th ̣ ̃ ̉ ́ ́ ̀ ơ, mây đoan ́ ̣ ̣ trich quen thuôc” ́ (Nguồn: http://tuoitre.vn/Pages/Printview.aspx?ArticleID=169187). Như vây, trong kiêm tra đanh gia môn Ng ̣ ̉ ́ ́ ữ văn lâu nay chu yêu vân ̉ ́ ̃ ́ ̣ theo lôi “hoc cai gi, thi cai ây”. Th ́ ̀ ́ ́ ầy cô giáo thiếu không gian, thời gian để rèn 9
- kĩ năng, bồi dưỡng năng lực cho học sinh. Các em thì không được tạo điều kiện để bộc lộ suy nghĩ, sáng tạo riêng. Vậy thế nào là một đề mở? Theo chúng tôi, đê m ̀ ở la môt khai niêm co ̀ ̣ ́ ̣ ́ tinh quy ́ ươc đê chi nh ́ ̉ ̉ ưng đê t ̃ ̀ ự luân mang mau săc đôi m ̣ ̀ ́ ̉ ới theo hướng phat́ ̉ ̣ ̣ ̉ ̣ huy tinh chu đông sang tao cua hoc sinh trong hoc tâp. Đo la nh ́ ́ ̣ ̣ ́ ̀ ững đê không ̀ ̣ râp khuôn theo nh ưng mô hinh cu ma cach hoi, cach nêu vân đê linh hoat, buôc ̃ ̀ ̃ ̀ ́ ̉ ́ ́ ̀ ̣ ̣ ̣ ̉ hoc sinh phai suy nghi, tim toi, sang tao. ̃ ̀ ̀ ́ ̣ Đăc biêt, ̣ ̣ đê m ̀ ở con la nh ̀ ̀ ưng đễ ̀ hương cho nhi ́ ều hoc sinh co nh ̣ ́ ưng suy nghi cua riêng mình, tr ̃ ̃ ̉ ước cung môt ̀ ̣ ̉ ̣ vân đê. Tinh chu đông sang tao cua ́ ̀ ́ ́ ̣ ̉ đê m ̀ ở đôi v ́ ơi hoc sinh năm chinh ́ ̣ ̀ ́ ở điêu ̀ nay. Tóm l ̀ ại, đề mở là loại đề chỉ nêu vấn đề cần bàn luận trong bài nghị luận hoặc chỉ nêu đề tài… không có câu lệnh về thao tác lập luận, về phương thức biểu đạt, về kiểu văn bản (như hãy chứng minh, phân tích, bình luận, hãy kể, hãy phát biểu cảm nghĩ…). Học sinh được tự do lựa chọn thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp. Ví dụ: Đề 1: Hay noi vê môt lân thât bai cua ban thân. ̃ ́ ̀ ̣ ̀ ́ ̣ ̉ ̉ Đề 2: Vơi em, điêu cân thiêt nhât trong cuôc sông la gi? ́ ̀ ̀ ́ ́ ̣ ́ ̀ ̀ Đề 3: Về quan niệm sống nhàn trong bài thơ “ Nhàn” của Nguyên Binh ̃ ̉ Khiêm. Đề 4: Hình ảnh cây cầu trong ca dao Việt Nam. Đề 5: Nghi vê cach sông “vôi vang” qua bai th ̃ ̀ ́ ́ ̣ ̀ ̀ ơ cung tên cua Xuân ̀ ̉ ̣ Diêu. Qua mấy đề mở trên, ta thấy so vơi kiêu đê t ́ ̉ ̀ ự luân th ̣ ương dung lâu ̀ ̀ nay, đê m̀ ở co môt sô ́ ̣ ́ưu thê nhât đinh trong viêc tac đông đên ng ́ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ́ ười hoc, khiên ̣ ́ ngươi hoc phai thay đôi đông hinh hoc tâp t ̀ ̣ ̉ ̉ ̣ ̀ ̣ ̣ ư thu đông, y lai sang chu đông, tich ̀ ̣ ̣ ̉ ̣ ̉ ̣ ́ cực. Thứ nhât: V ́ ơi ́ đê m̀ ở, năng lực tư duy cua hoc sinh co điêu kiên đê phat ̉ ̣ ́ ̀ ̣ ̉ ́ ̣ huy cao đô. Vi ̀đê m̀ ở thương đăt hoc sinh vao nh ̀ ̣ ̣ ̀ ưng tinh huông “co vân đê”, ̃ ̀ ́ ́ ́ ̀ ̣ ̣ ̉ buôc hoc sinh phai suy nghi. ̃ Thứ hai: Vơi ́ đê m̀ ở, hoc sinh không chi d ̣ ̉ ưng lai ̀ ̣ ở viêc tai hiên kiên ̣ ́ ̣ ́ thưc theo kiêu thuôc long mà đoi hoi cao h ́ ̉ ̣ ̀ ̀ ̉ ơn ở kha năng ̉ ứng dung cua ng ̣ ̉ ươì ̣ ̣ ̃ ̉ ́ ̉ hoc trong viêc xem xet y nghia cua tac phâm trong nh ́ ́ ưng môi t ̃ ́ ương quan khać ́ ̉ ̀ ́ ới ban thân hoăc đôi v nhau, co thê la đôi v ̉ ̣ ́ ới thời đai… ̣ Thư ba: V ́ ơi ̀ ở, hoc sinh se đ ́ đê m ̣ ̃ ược tự do hơn trong viêc trinh bay môt ̣ ̀ ̀ ̣ ́ ̀ ừ đo hinh thanh va phat huy kha năng phat biêu môt cach chu đông vân đê. T ́ ̀ ̀ ̀ ́ ̉ ́ ̉ ̣ ́ ̉ ̣ ̣ cho hoc sinh. Nhin chung, t ̀ ừ khia canh đôi m ́ ̣ ̉ ơi kiêm tra đanh gia, ́ ̉ ́ ̀ ở se la môt ́ đê m ̃ ̀ ̣ trong nhưng cach hiêu qua giup hoc sinh t ̃ ́ ̣ ̉ ́ ̣ ừ bo thoi quen thu đông, t ̉ ́ ̣ ̣ ừ đo hinh ́ ̀ 10
- thanh thoi quen t ̀ ́ ự hoc, t ̣ ự nghiên cưu môt cach chu đông, sang tao trong qua ́ ̣ ́ ̉ ̣ ́ ̣ ́ ̣ ̣ trinh hoc tâp. ̀ 2. Những định hướng khi kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn qua hệ thống đề mở 2.1. Về việc ra đề mở: Ra đề mở trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn hiện nay là việc làm thiết thực nhưng ra đề mở như thê nao, “m ́ ̀ ở” đên đâu, va điêu quan trong la ́ ̀ ̀ ̣ ̀ cac ́ đê văn m ̀ ở phai găn v ̉ ́ ơi kiên th ́ ́ ức văn hoc nh ̣ ư thê nao (ch ́ ̀ ứ không thê thoat ̉ ́ ̣ ́ ơi v ly hoăc tach r ̀ ơi ki ́ ến thức đã hoc trong ch ̣ ương trinh). T ̀ ư đo, hoc sinh phai ̀ ́ ̣ ̉ dung kiên th ̀ ́ ưc văn hoc đê luân giai cac vân đê đăt ra cua đê bai. Quan trong ́ ̣ ̉ ̣ ̉ ́ ́ ̀ ̣ ̉ ̀ ̀ ̣ nhât, ́ đê văn m ̀ ở vân phai đam bao đ ̃ ̉ ̉ ̉ ược chuân kiên th ̉ ́ ưc – ki năng, lây chuân ́ ̃ ́ ̉ ́ ưc – ki năng bô môn Ng kiên th ́ ̃ ̣ ữ văn ở tưng bai hoc lam c ̀ ̀ ̣ ̀ ơ sở, từ đó mở ra ̣ ́ ̀ ̀ ́ ừ văn chương và cuộc sống. cho học sinh môt vân đê nao đo t Khi ra đề mở, chúng ta cần chú ý đến các vấn đề sau: Ra đề mở nhưng “không thể mở một cách phiêu lưu”. Việc ra đề mở trước hết cần đáp ứng được mục tiêu, tiêu chí đánh giá (hình thành hay củng cố khắc sâu ở học sinh kĩ năng gì, thái độ gì và kiến thức gì?) Đề mở cần bám sát nội dung chương trình (tác phẩm văn học, giai đoạn văn học, kiểu văn bản đang học,...). Có thể sử dụng linh hoạt kiến thức văn học có liên quan ở bài trước, lớp trước nhưng phải phù hợp thực tế học tập của học sinh; có mối quan hệ tích hợp gắn bó với các phân môn Tiếng Việt và Văn học trong khung phân phối chương trình. Đề mở cần bám sát tâm sinh lý lứa tuổi, tình cảm đạo đức, điều kiện sống, thực tế cuộc sống học sinh và phải có nội dung phù hợp với chương trình Ngữ văn hiện hành, nhất là phù hợp với trình độ, đối tượng học sinh. Tránh những đề mở liên quan đến những vấn đề nhạy cảm, những vấn đề có khả năng dẫn đến những hướng triển khai của học sinh mà người chấm không thể kiểm soát nổi. Điều quan trọng nhất của đề mở là kích thích sự sáng tạo, khơi nguồn cảm hứng, đánh thức niềm yêu thích văn chương ở học sinh. Như vậy, ra đề Làm văn mở, chúng ta cần thực hiện các bước sau: Xác định mục đích kiểm tra: rèn luyện kĩ năng nào, bồi dưỡng thái độ gì, kiểm tra những đơn vị kiến thức nào,... Xác định trình độ chung của đối tượng kiểm tra. Chọn nội dung kiểm tra phù hợp với đối tượng, phù hợp với khung phân phối chương trình, với chuẩn kiến thức – kĩ năng. 11
- Chọn cách nêu vấn đề, diễn đạt nội dung đề có khả năng đánh thức năng lực Ngữ văn thực sự của các em. Thử nghiệm ở một nhóm học sinh (hoặc một lớp) trước khi kiểm tra đại trà. Ví dụ: Bài Làm văn số 2, lớp 10, chương trình chuẩn Nếu là hướng dẫn viên du lịch, anh (chị) sẽ giới thiệu như thế nào về đất nước Việt Nam? 3. Về việc làm đáp án Ra đề mở đã khó, làm đáp án cho đề mở càng khó hơn bởi nhiều khi học sinh có những ý tưởng, suy nghĩ, quan niệm và cảm nhận riêng, có khi trái ngược với người ra đề. Do đó, việc làm đáp án cho đề mở cần chú ý: Coi trọng việc xây dựng đáp án, biểu điểm của đề theo tinh thần thoáng, mở, khái quát; tránh sa vào những chi tiết cụ thể, tỉ mỉ để tạo khoảng trống, độ thoáng cho người chấm đánh giá sự sáng tạo của học sinh. Đề mở chấp nhận nhiều cách trả lời, thậm chí có những cách trả lời đối ngược nhau, miễn là học sinh bộc lộ được nhận thức và lập luận logic, thuyết phục. Vì vậy, khi làm đáp án cần định hướng cách giải quyết vấn đề, dự đoán hướng mở về nội dung và hình thức bài làm của học sinh có thể gặp. Đáp án không áp đặt nội dung trả lời mà nên nêu được các phương án mà học sinh có thể trình bày, phân tích được sự hợp lí của các phương án đó. Ngoài ra còn phải chấp nhận những phương án ngoài dự kiến; miễn là có sự kiến giải hợp lí. Đồng thời đáp án cần nêu được những yêu cầu về kĩ năng làm bài của học sinh, khuyến khích học sinh sử dụng nhiều kĩ năng, thao tác khác nhau trong giải quyết vấn đề; khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, quan điểm riêng của mình, chấp nhận nhiều cách hiểu và giải quyết vấn đề khác nhau miễn là quan điểm của người viết không trái với các giá trị nhân văn, chuẩn mực đạo đức và pháp luật mà xã hội đã thừa nhận; khuyến khích học sinh vận dụng được những điều đã học vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra một cách có sức thuyết phục, hợp lí, tự nhiên, phù hợp với trình độ của các em. So sánh nội dung chủ yếu một đáp án “đề đóng” với một đáp án đề mở để hình dung sự khác biệt trong cách làm: ĐÁP ÁN ĐỀ MỞ ĐÁP ÁN ĐỀ “ĐÓNG” Đề: Lời tỏ tình trong bài thơ “Đây Đề: Hãy phân tích bức tranh thiên thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử ) nhiên Vĩ Dạ trong khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) 12
- Đây là bài nghị luận văn học. Đề Là bài nghị luận văn học, nội dung chỉ nêu vấn đề nghị luận, người viết nghị luận được xác định rõ: bức tranh cần xác định nội dung nghị luận, thao thiên nhiên trong khổ thơ đầu của bài tác lập luận để làm sáng tỏ lời tỏ tình “Đây thôn Vĩ Dạ”; học sinh không có trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của sự lựa chọn nào khác, ngoài việc chia Hàn Mặc Tử. Có thể xác định chủ đoạn và phân tích. Đáp án của đề này thể tỏ tình là Hàn Mặc Tử (Hàn Mặc thường được xác định theo ba luận Tử đang tỏ tình với người con gái điểm sau: thôn Vĩ, với Xứ Huế thơ mộng và với Giới thiệu vài nét về tác giả, tác cuộc đời bằng một bài thơ tài hoa, phẩm trong sáng). Sau đây là gợi ý nội dung làm bài: Phân tích bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ trong khổ thơ đầu Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm + Câu 1: Lời trách móc, cũng là lời mời gọi về với thôn Vĩ, bộc lộ ước Phân tích lời tỏ tình: mong thầm kín của Hàn Mặc Tử: + Chủ thể tỏ tình được về lại với Huế, với cuộc đời. + Nội dung tỏ tình + Câu 2 và 3: Cảnh thôn Vĩ trong + Nghệ thuật tỏ tình trẻo, thanh khiết, đầy sức sống trong ánh bình minh. Ý nghĩa của lời tỏ tình? + Câu 4: Con người và thiên nhiên Cảm nghĩ của người viết về lời tỏ hài hòa, làm tăng thêm vẻ đẹp của tình khu vườn và con người Vĩ Dạ. * Lưu ý: HS có thể hiểu theo 1 Đánh giá chung về nội dung và nghệ trong 3 cách trên, hoặc cả 3 cách thuật: hiểu. Miễn phải xuất phát từ chính văn bản, lập luận chặt chẽ, thuyết + Về nội dung phục thì vẫn cho điểm tối đa. Nếu + Về nghệ thuật học sinh xác định chủ thể tỏ tình là người con gái thôn Vĩ và bài thơ là sự bày tỏ tình cảm đối với Hàn Mặc Tử khách đường xa và lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục từ chính văn bản thì vẫn được chấp nhận. 4. Về việc chấm bài “Ra đề mở, hướng dẫn chấm cũng phải mở”. Đây là quan điểm được đồng tình tại các buổi hội thảo về đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn THPT. Vì vậy, khi chấm đề mở, chúng ta không nên phụ thuộc vào đáp án 13
- một cách máy móc. Trong hội thảo, PGS Nguyễn Trí cho rằng: “Đối với đề thi mở thì người ra đề cần viết cả hướng dẫn chấm mở và viết hướng dẫn chấm đóng. Hướng dẫn chấm đóng là một kênh tham khảo, khẳng định đấy là suy luận chủ quan của người viết hướng dẫn. Người chấm cần chấp nhận tất cả các phương án khác nhau của học sinh trước đề bài của mình chứ không chỉ dựa vào dàn bài rồi đếm ý cho điểm” (Nguồn:http://vnexpress.net/tintuc/giaoduc/devankhongthemomot cachphieuluu2976149.html). Để làm được điều đó, chúng ta phải có tư duy thoáng mở, không ngừng tự bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn để đủ sự sắc sảo, nhạy bén thẩm định những ý kiến, đề xuất táo bạo, mới lạ của học sinh trước các vấn đề văn học và đời sống. Bên cạnh đó, khi chấm bài Làm văn từ đề mở, chúng ta cần đánh giá cao năng lực vận dụng kiến thức, khả năng diễn đạt, trình bày của học sinh; cần trân trọng vốn hiểu biết, tri thức của học sinh được thể hiện trong bài làm; cần biết lắng nghe, thấu hiểu, trân trọng cảm thụ riêng của người học. PGS Nguyễn Trí cũng khẳng định: khi đề thi mở, tấm lòng và thái độ người thầy trước một bài văn rất quan trọng. Dẫn câu chuyện bài văn điểm 0 của nhà văn Nguyễn Quang Sáng kể về một học sinh đã nộp giấy trắng khi cô ra đề "Tả ba em đọc báo". Thầy Trí cho biết: nếu giáo viên đừng cho 0 điểm vội mà để lại bài văn và trò chuyện với học sinh, sẽ biết được câu chuyện học sinh ấy không có ba, và thông cảm với em. "Người thầy khi chấm bài văn mở không cần kỹ thuật mà cần tấm lòng, thái độ. Đối với bài làm khác với suy nghĩ của mình thì cần tìm cách giải thích cho đúng", PGS Trí nói. Cùng với những việc trên, chúng ta cần chấn chỉnh những quan niệm sai trái, lệch lạc của học sinh. Cần định hướng học sinh theo các chuẩn mực đạo đức, hướng học sinh đến các giá trị chân – thiện mĩ để rèn luyện nhân cách. Bởi “Văn học là nhân học” ( M. Gorki), học văn là học cách làm một con người chân chính! 5. Thực hành ra đề mở Thời gian qua, nhiều bài viết của học sinh được ca ngợi trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đều là những bài viết của những đề mở như: đề: Bản chất của thành công, đề: Bệnh vô cảm… Điều đó cho thấy đề mở gây nhiều hứng thú, kích thích sự sáng tạo trong học sinh. Để phục vụ cho việc học tập và rèn luyện kĩ năng viết văn với yêu cầu sáng tạo, chống lại bệnh rập khuôn, ghi nhớ máy móc, học thuộc lòng, chép văn mẫu… tôi mạnh dạn đề xuất những đề mở trong kiểm tra 12 tiết, kiểm tra cuối học kì ở ba khối lớp 10, 11, 12 và một số đề mở trong kiểm tra/ thi chọn học sinh giỏi. 5.1. Những đề mở ở khối lớp 10 14
- Ở lớp 10, học sinh chủ yếu rèn luyện và thực hành các kiểu bài làm văn như: văn biểu cảm, văn tự sự, văn thuyết minh, văn nghị luận. Từ năm 2020 đã giảm tải, cả năm học còn 2 bài kiểm tra giữa kì, 2 bài kiểm tra học kì theo sự thống nhất của Tổ chuyên môn, khối lớp 10 có 4 bài viết, các nội dung cụ thể ở lớp 10 như sau: Văn tự sự, văn nghị luận xã hội, văn thuyết minh, nghị laaunj văn học. Vì vậy, việc ra đề mở, bên cạnh việc phù hợp với đối tượng học sinh còn cần phù hợp với từng kiểu bài Làm văn trong chương trình, với mức độ mở và khó tăng dần từ bài viết số 1 đến bài viết số 4. Nếu như ở bài viết số 1, đề mở quá khó thì học sinh sẽ không xác định được nội dung đề và kiểu bài để triển khai bài làm dẫn đến nguy cơ các em “dị ứng” với đề mở và sẽ có định kiến là đề mở luôn luôn khó. Học sinh cần có thời gian để làm quen và thích nghi dần với kiểu đề mở. 5.1.1. Đề mở của kiểu bài văn tự sự * Đề: Trong giấc mơ, tôi đã gặp Mị Châu (Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy) * Gợi ý làm bài: Để làm kiểu bài này, học sinh cần nắm vững được phương pháp làm văn tự sự để kể lại một câu chuyện tưởng tượng về một nhân vật đã học trong truyền thuyết. Để câu chuyện kể có sức hấp dẫn, cần vận dụng kết hợp phương thức biểu đạt miêu tả và biểu cảm. Bài viết cần có cốt truyện chặt chẽ, logic. Có thể tham khảo đáp án sau: Học sinh phải đặt nhan đề phù hợp và có ý nghĩa Chọn ngôi kể phù hợp: Ngôi thứ nhất, học sinh xưng “tôi” để kể Đây là câu chuyện hư cấu: kể lại giấc mơ gặp Mị Châu nhân vật quan trọng trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy , nhân vật đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khen chê, lên án bênh vực,…Học sinh khi kể lại câu chuyện này sẽ có dịp bộc lộ quan điểm đánh giá, tình cảm của mình đối với nhân vật. Tùy theo khả năng tưởng tượng, học sinh sẽ có những câu chuyện khác nhau kể lại giấc mơ gặp Mị Châu, miễn có cốt truyện hợp lí theo mô hình: mở đầu, phát triển và kết thúc. * Lưu ý: Đây là dạng đề mở, học sinh tự do bộc lộ quan điểm, tình cảm của mình, nhưng chúng ta cần đứng trên quan điểm của nhân dân khi đánh giá Mị Châu để đánh giá những bài làm có suy nghĩ, tình cảm không đúng đắn hoặc lệch lạc, không lành mạnh. * Một số đề tham khảo: 15
- Đề 1: Mùa đông năm ấy đến muộn. Đã bước sang tháng 10 mà nắng vẫn chói chang, lá bàng vẫn xanh ngăn ngắt. Vẫn như mọi khi, chúng tôi tụ tập đá bóng đến tối mịt mới về. Hôm ấy, trên đường về, tôi và Nam đang tranh luận rôm rả về bàn thắng lúc chiều thì bỗng… Hãy tưởng tượng và kể tiếp câu chuyện trên. Đề 2: Cho các dữ liệu sau: Một xóm nghèo, một người đàn bà góa, 2 đứa bé 10 tuổi và 15 tuổi, một con chó. Hãy tưởng tượng và kể một câu chuyện có 4 dữ kiện trên. Đề 3: Một bài học nhớ đời. Đề 4: Giả sử khi Trọng Thủy (An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy) đang đánh tráo lẫy nỏ thì bị Cao Lỗ phát hiện. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện. Đề 5: Điều làm tôi buồn, điều khiến tôi vui. 5.1.2. Đề mở của kiểu bài nghị luận xã hội * Đề: Suy nghĩ của anh (chị) về lời dạy của đức Phật: “Sự phá sản lớn nhất của đời người là lòng ghen tị” * Gợi ý làm bài: Học sinh cần nắm vững được phương pháp làm văn nghị luận. Bài làm phải có hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Có thể tham khảo đáp án sau: Giải thích về lời dạy của đức Phật Biểu hiện của lòng ghen tị? Tác hại của lòng ghen tị? Nguyên nhân của lòng ghen tị? Giải pháp để hạn chế tính ghen tị trong cộng đồng. Bài học nhận thức, hành động”: + Hiểu rõ hậu quả của lòng ghen tị + Phải đấu tranh với chính bản thân mình để loại bỏ lòng ghen tị, biết hài lòng với những gì mình có và biết vươn đến một cuộc sống tốt đẹp bằng chính năng lực và sự cố gắng của bản thân. * Một số đề tham khảo: Đề 1: Hãy viết một bài văn nghị luận với chủ đề: “ Hãy ước mơ” 16
- Đề 2: Hãy viết một bài văn nghị luận về: một sự lựa chọn khó khăn trong đời. Đề 3: Hãy viết một bài văn nghị luận về một chủ đề tự chọn. Đề 4: Bạn xấu, có nên chơi không? Đề 5: Đức tính quan trọng nhất của một con người? 5.1.3. Đề mở của kiểu bài văn thuyết minh * Đề: Một nét đẹp văn hóa ngày Tết ở quê hương tôi. * Gợi ý làm bài Để làm kiểu bài này, học sinh cần nắm vững kiểu bài văn thuyết minh để giới thiệu một nét đẹp văn hóa của ngày Tết ở quê hương mình. Nét đẹp văn hóa đó có thể là: Việc bày biện mâm ngũ quả để dâng cúng ông bà tổ tiên. Việc trang trí nhà cửa khi Tết đến xuân về. Việc nấu bánh chưng, bánh tét, các loại bánh mứt. Việc cả nhà quây quần đón giao thừa. Việc thăm viếng, chúc tết ông bà, thầy cô, bạn bè trong ngày xuân. Việc tảo mộ trong ngày đầu năm. Việc tổ chức các lễ hội, các trò chơi trong ngày Tết như hát bài chòi, thả thơ,… Có thể tham khảo đáp án sau: Học sinh phải đặt nhan đề phù hợp và có ý nghĩa. Giới thiệu nét đẹp văn hóa ngày Tết được thuyết minh. Cung cấp tri thức về nét đẹp văn hóa đó + Lịch sử của nét đẹp văn hóa. + Sự thể hiện của nét đẹp văn hóa đó trong ngày Tết. Ý nghĩa của nét đẹp văn hóa đó trong ngày Tết, trong đời sống và đối với bản thân. Suy nghĩ của bản thân về nét đẹp văn hóa đó. * Lưu ý: Tùy theo mỗi vùng miền và tùy theo hiểu biết, học sinh có thể chọn lựa và trình bày một nét đẹp của văn hóa ngày Tết mà mình tâm đắc để giới thiệu. * Một số đề tham khảo: Đề 1: Hãy giới thiệu về bản thân mình. 17
- Đề 2: Hãy giới thiệu một nhân vật mà anh (chị) yêu thích. Đề 3: Nếu là hướng dẫn viên du lịch, anh (chị) sẽ giới thiệu như thế nào về quê hương Quảng Nam? Đề 4: Hãy giới thiệu một món ăn đặc sản của quê hương. Đề 5: Giới thiệu một cuốn sách đã đọc. 5.1.4. Đề mở của kiểu bài văn nghị luận văn học * Đề: Giấc mơ công lí trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” (Nguyễn Dữ) * Gợi ý làm bài: Để làm kiểu bài này, học sinh cần nắm vững kĩ năng làm văn nghị luận văn học để làm sáng tỏ giấc mơ công lí của nhân dân mà Nguyễn Dữ đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn và cốt truyện giàu kịch tính, kì ảo. Có thể tham khảo đáp án sau: Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” Giải thích: “giấc mơ công lí”: ước mơ về một thế giới công bằng, nơi công lí được thực thi, nơi cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác, chính nghĩa thắng gian tà. Giấc mơ công lí được thể hiện qua việc Ngô Tử văn đấu tranh và chiến thắng hồn ma tên tướng giặc hung ác, tham lam, xảo quyệt để bảo vệ công lí; qua việc Ngô Tử Văn được nhận chức phán sự. Giấc mơ công lí được thể hiện qua cốt truyện giàu kịch tính, cách dẫn truyện khéo léo, lối kể hấp dẫn với nhiều tình tiết hoang đường, kì ảo. Qua kết thúc có hậu của chuyện, tác phẩm đề cao nhân tài, văn hóa nước Việt, thể hiện ước mơ, niềm tin công lí của nhân dân và của Nguyễn Dữ trong xã hội bất công đương thời. Cảm nghĩ của người viết về giấc mơ công lí đó * Một số đề tham khảo: Đề 1: Bản cáo trạng tội ác của giặc Minh trong “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) Đề 2: Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” (Nguyễn Dữ) Đề 3: Vẻ đẹp của nhân vật Từ Hải trong“Chí khí anh hùng” (Trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du) Đề 4: Nhân vật Thúy Kiều trong tôi. 18
- Đề 5: Bức tranh ngày hè trong “ Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi 5.2. Những đề mở ở khối lớp 11. Ở lớp 11, học sinh có 4 bài viết, đều là văn nghị luận. Trong đó, cụ thể như sau: nghị luận xã hội và nghị luận văn học. 5.2.1. Đề mở của kiểu bài văn nghị luận xã hội * Đề : Người thầy ngày nay * Gợi ý làm bài: Đây là kiểu bài văn nghị luận xã hội, yêu cầu người viết bộc lộ những suy nghĩ chân thực về người thầy trong xã hội hiện nay. Do đó, học sinh cần nắm vững kĩ năng làm văn nghị luận xã hội, có kết hợp với kĩ năng làm văn tự sự và phát biểu cảm nghĩ ở một mức độ thích hợp. Có thể tham khảo đáp án sau: Giới thiệu chung về người thầy trong xã hội hiện nay. Vai trò, vị trí của người thầy giáo trong xã hội xưa và nay Thái độ của học sinh, phụ huynh và xã hội đối với người thầy ngày nay: đánh giá cao, kính trọng, biết ơn (cả thái độ thiếu tôn trọng nghề dạy học và người thầy giáo) Nguyên nhân sự kính trọng và không tôn trọng nêu trên. Nêu các giải pháp để nâng cao vai trò, vị trí của người thầy trong xã hội ngày nay Khẳng định vai trò của người thầy ngày nay và bày tỏ thái độ, tình cảm của người viết đối với người thầy giáo * Lưu ý: Đối với vấn đề người thầy trong xã hội ngày nay, học sinh có thể có những ý kiến đánh giá rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Khi chấm bài, chúng ta nên tôn trọng những suy nghĩ chân thật của học sinh về người thầy nhưng cũng cần chỉ ra những ý kiến đánh giá chủ quan, phiến diện, vơ đũa cả nắm,… để uốn nắn, làm sáng tỏ vấn đề. * Một số đề tham khảo: Đề 1: Hãy viết một bài văn nghị luận về chủ đề: Lỗi lầm. Đề 2: Suy nghĩ của anh (chị) về quan niệm sống trong 2 câu thơ sau: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm (Giục giã Xuân Diệu) Đề 3: Bạn dựa vào điều gì khi chọn nghề nghiệp trong tương lai? Hãy viết bài văn nghị luận để trả lời cho câu hỏi trên. 19
- Đề 4: Có hay không căn bệnh vô cảm trong trường học? Đề 5: Suy nghĩ của anh (chị) về đạo đức của người học sinh hiện nay. 5.2.2. Đề mở của kiểu bài văn nghị luận văn học * Đề 1: Cảm nhận về bức chân dung bà Tú qua bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương. Liên hệ với vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong một tác phẩm khác mà em đã được học. * Gợi ý làm bài: Đây là kiểu bài nghị luận văn học. Bài viết cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục, diễn đạt lưu loát; lời văn trong sáng, không mắc lỗi dùng từ, chính tả, ngữ pháp. Có thể tham khảo đáp án sau: Bà Tú là một phụ nữ đảm đang: một mình tảo tần buôn bán, nuôi bảy miệng ăn trong gia đình. Mặc dù ý thức được việc mình làm là vất vả, là gian khổ: buôn bán ở những nơi nguy hiểm bấp bênh khi quảng vắng, buổi đò đông, vất vả nuôi chồng, con mà nuôi năm con có lẽ không vất vả bằng nuôi một chồng vì nhu cầu của ông Tú chắc chắn nhiều hơn so với 5 đứa trẻ (chính ông Tú đã nhiều lần tự bạch trong thơ về nhu cầu của mình), nhưng bà Tú vẫn nhẫn nại, cam chịu không hề kêu ca. Nhẫn nại, chịu thương chịu khó, hi sinh vì chồng, vì con như thế chỉ lí giải được bằng một lí do duy nhất là đức hi sinh, là tình yêu thương chân thành mà bà Tú dành cho chồng và con. Có thể nói, ở bà Tú đã hội tụ đầy đủ những đức tính quý báu nhất của người phụ nữ Việt Nam. Bài thơ thể hiện nhân cách Tú Xương: Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm của mình, cũng không lấy cái quyền hành của người chồng trong xã hội phong kiến mà phủ nhận công lao của vợ. Ngược lại ông đã dũng cảm nói lên sự thật: thói đời bạc bẽo với người phụ nữ và bản thân ông là người chồng vô tích sự cho nên, bà Tú có chồng hờ hững cũng như không. Tú Xương chửi “cha mẹ” thói đời bạc bẽo, tự trách, tự lên án bản thân mình đã làm cho gánh nặng trên đôi vai tần tảo của người vợ nặng thêm. * Lưu ý: Đối với nhân vật ông Tú, học sinh có thể có cách nhìn nhận, đánh giá khác. Có thể có học sinh đứng về phía bà Tú, do thương bà Tú mà phê phán ông Tú vô tâm, hờ hững, ăn bám, là kẻ bất tài, không đáng mặt đàn ông,…Chúng ta cần tôn trọng ý kiến, cảm nhận của học sinh song cần chỉ ra những nguyên nhân nào khiến ông Tú phải ăn bám vợ, phải tỏ ra hờ hững với vợ,… để học sinh hiểu được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Tú Xương, không nên áp đặt suy nghĩ cho học trò. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kỹ năng cần thiết của giáo viên làm công tác chủ nhiệm ở trường THPT Vĩnh Linh
17 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho học sinh trường THPT Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An
35 p | 40 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm giúp đỡ học sinh yếu thế thông qua công tác chủ nhiệm lớp 12A3 ở trường THPT Vĩnh Linh
21 p | 16 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 27 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng thí nghiệm ảo trong dạy học phần điện từ học lớp 11 THPT
38 p | 55 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa các hình thức ôn tập môn Lịch sử tại trường THPT Yên Khánh A
31 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm giúp giờ dạy tác phẩm phương Đông bậc THPT đạt hiệu quả cao
42 p | 97 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Sinh học theo tiếp cận năng lực ở trường Trung học phổ thông Mường Luân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên
28 p | 41 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng một số giải pháp tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 THPT - Ban cơ bản
32 p | 36 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng làm bài một số loại câu giao tiếp trong đề thi THPT Quốc gia được lồng vào tiết dạy phụ đạo cho học sinh lớp 12 trường THPT Lý Tự Trọng
24 p | 56 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học dự án vào việc tìm hiểu ứng dụng của Parabol và elip vào trong thực tế, góp phần phát triển năng lực học sinh THPT
56 p | 50 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng trường học hạnh phúc qua công tác chủ nhiệm lớp tại trường THPT Con Cuông
53 p | 19 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp nâng cao hiệu quả công tác Phổ cập giáo dục Trung học phổ thông ở phường An Lộc
15 p | 37 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT chuyên
61 p | 32 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm về dạy câu điều kiện (Conditional sentence - conditional clauses) cho học sinh THPT đạt hiệu quả cao
23 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn