intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo chuẩn định tính và định lượng các môn giáo dục nghề phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ thông

Chia sẻ: Chubongungoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

35
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là xây dựng một ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm kiểm tra và đánh giá học sinh trong dạy và học Nghề phổ thông, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng và làm cơ sở cho việc kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh trong quá trình học giáo dục nghề phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo chuẩn định tính và định lượng các môn giáo dục nghề phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ thông

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH TRUNG TÂM TH NN - HN -----    ----- SÁNG KIẾN ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG NGÂN HÀNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN THEO CHUẨN ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG CÁC MÔN GIÁO DỤC NGHỀ PHỔ THÔNG SỬ DỤNG TRONG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ VÀ THI NGHỀ PHỔ THÔNG Phòng: Khoa học – Kĩ thuật tổng hợp 1. Hồ Ngọc Vĩnh ­ P. Giám đốc 2. Phạm Thanh Lịch ­ Trưởng phòng 3. Nguyễn Thanh Khiết ­ P. Trưởng phòng 4. Trần Văn Nhận ­ GV 5. Lê Hoàng Yến ­ GV Ninh Bình: 4/2015
  2. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình dạy học nói chung và quá trình dạy nghề phổ thông nói riêng, kiểm tra và đánh giá là một trong những bộ phận chủ yếu và hợp thành một chỉnh thể thống nhất trong quá trình đào tạo. Do vậy, chiến lược phát triển giáo dục 2001­ 2010 nêu rõ: “Đổi mới giáo dục bao gồm cả đổi mới chế độ thi cử, tuyển sinh, xây dựng phương pháp, quy trình và hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, chất lượng học sinh, sinh viên một cách khách quan, chính xác, xem đây là biện pháp cơ bản khắc phục tính chất đối phó với thi cử của nền giáo dục hiện nay, thúc đẩy việc lành mạnh hóa giáo dục”. Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy và học, thay đổi cách thức kiểm tra đánh giá đã và đang là một hoạt động cấp thiết trong nhà trường phổ thông hiện nay. Kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh là một phần quan trọng trong quá trình dạy học. Ngoài công việc chính là đánh giá chất lượng học sinh, kiểm tra đánh giá còn được xem là đòn bẩy để nâng cao chất lượng giáo dục, là động lực để học sinh cố gắng phấn đấu trong quá trình học tập của mình. Do đó đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá đang được tiến hành sâu, rộng trên phạm vi cả nước và ở tất cả các cấp học. Thực tế cho thấy hệ thống Giáo dục ­ Đào tạo nước ta hiện nay, mặc dù mục tiêu đào tạo đã có những thay đổi để phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội, phương pháp dạy học đã được nâng cao, nhưng cách thức và công cụ kiểm tra đánh giá mà chúng ta đang sử dụng thì chưa thực sự đổi mới. Lâu nay, chúng ta hầu như chỉ sử dụng loại bài kiểm tra tự luận để đánh giá kết quả học tập của học sinh. Loại câu hỏi có nhiều bất cập vì những câu hỏi thường dài, tốn nhiều thời gian cho việc làm bài, khối lượng kiến thức được kiểm tra hạn chế, khó sử dụng các phương tiện hiện đại trong kiểm tra đánh giá chẳng hạn như máy vi tính. Để khắc phục những nhược điểm trên, nhiều nước trên thế giới đã và đang sử dụng dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan để đánh giá thành quả học tập của học sinh. Ở Việt Nam hiện nay, hình thức kiểm tra trắc nghiệm đã được dùng khá phổ biến, từ năm học 2005­ 2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, cao đẳng. Đối với các môn giáo dục nghề phổ thông sở giáo dục và đào tạo Ninh Bình đã tổ chức thi trắc nghiệm từ năm 2007. Vì thế rất cần thiết phải có một ngân hàng câu 2
  3. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH hỏi trắc nghiệm đạt chuẩn để sử dụng trong kiểm tra đánh giá và đặc biệt là trong thi Nghề phổ thông. Đáp ứng yêu cầu đổi mới về công tác kiểm tra đánh giá của ngành Giáo dục và Đào tạo, nhằm phổ biến các kiến thức về kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan cũng như cách thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho giáo viên, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc dạy và học các môn giáo dục nghề phổ thông lớp 11, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo chuẩn định tính và định lượng các môn giáo dục nghề phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ thông”. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng một ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm kiểm tra và đánh giá học sinh trong dạy và học Nghề phổ thông, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng và làm cơ sở cho việc kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh trong quá trình học giáo dục nghề phổ thông. 3. Giả thuyết khoa học Nếu xây dựng thành công các nguyên tắc, quy trình thiết kế bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan đủ tiêu chuẩn và sử dụng hợp lý vào các khâu của quá trình dạy học, đặc biệt là khâu kiểm tra đánh giá, sẽ nâng cao chất lượng dạy và học nghề phổ thông. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài đặt ra như sau: ­ Nghiên cứu lý luận về quá trình dạy học, lý luận về đổi mới phương pháp dạy học, các phương pháp kiểm tra đánh giá; ­ Nghiên cứu về phương pháp kiểm tra đánh giá bằng phương pháp trắc nghiệm, đi sâu vào phương pháp trắc nghiệm khách quan; ­ Nghiên cứu cấu trúc chương trình các môn nghề phổ thông; ­ Xây dựng thành công ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm các nghề điện tử, điện dân dụng, cắt may, thêu tay, sửa chữa xe máy; ­ Thực nghiệm sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm trong việc kiểm tra đánh giá ở trung tâm TH NN ­ HN tỉnh Ninh Bình, nhằm kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá. 3
  4. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH 5. Phạm vi đề tài 5.1 Phạm vi nghiên cứu Năm môn nghề phổ thông đang được giảng dạy tại trung tâm Tin học – ngoại ngữ và hướng nghiệp tỉnh Ninh Bình: Điện dân dụng, điện tử, cắt may, thêu tay, sửa chữa xe máy 5.2 Phạm vi áp dụng Trung tâm Tin học – ngoại ngữ và hướng nghiệp tỉnh Ninh Bình, Các trường THPT, trung tâm GDTX trực thuộc Sở GD&ĐT tỉnh Ninh Bình. 6. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phối hợp các phương pháp: ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp lý luận: Nghiên cứu các tài liệu lý luận có liên quan tới kiểm tra, đánh giá và phương pháp dạy học nghề phổ thông; ­ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu xem thực trạng tình hình dạy học nghề phổ thông và phương pháp kiểm tra, đánh giá ở các trung tâm KTTH HN; ­ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm nhằm xác định tính khả thi, hiệu quả của đề tài và chất lượng của hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nêu trong đề tài; ­ Phương pháp sử dụng toán học: sử dụng thống kê toán học để xử lý và phân tích kết quả thực nghiệm. 7. Những đóng góp của đề tài ­ Hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc kiểm tra, đánh giá và thiết kế bộ câu hỏi trắc nghiệm sử dụng trong kiểm tra và đánh giá; ­ Xây dựng quy trình thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan về từng loại kiến thức trong các môn nghề phổ thông; ­ Thiết kế bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo nội dung chương trình các môn nghề phổ thông và được kiểm định đạt tiêu chuẩn định tính, định lượng và có độ tin cậy cao để đảm bảo sử dụng trong dạy học Nghề phổ thông. 4
  5. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Giới thiệu chung về phương pháp kiểm tra đánh giá 1.1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá - Kiểm tra: Là quá trình giáo viên thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh. Các thông tin này giúp cho giáo viên kiểm soát được quá trình dạy học, phân loại và giúp đỡ học sinh. Những thông tin thu thập được so sánh với tiêu chuẩn nhất định. - Đánh giá: Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh để học sinh ngày một học tập tiến bộ hơn. Kết quả của việc đánh giá được thể hiện bằng điểm số theo thang điểm đã được quy định, ngoài việc đánh giá thể hiện bằng lời nhận xét của giáo viên. Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiểm tra là để đánh giá, đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm tra. 1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của kiểm tra đánh giá 1.2.1 Vị trí của kiểm tra đánh giá Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục. Ta có thể thấy rõ vị trí của kiểm tra đánh giá qua sơ đồ sau: 5
  6. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận cấu thành và là giai đoạn cuối cùng của quá trình dạy học. Vị trí của kiểm tra ­ đánh giá trong quá trình dạy học được thể hiện thông qua sơ đồ dưới đây: 1.2.2 Vai trò của kiểm tra và đánh giá Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, thông qua kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp cho giáo viên thu được những thông tin ngược từ học sinh, phát hiện thực trạng kết quả học tập của học sinh cũng như nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để giáo
  7. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH viên điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động học của học sinh và hướng dẫn học sinh tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học của bản thân. Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận hợp thành rất quan trọng và tất yếu của toàn bộ quá trình dạy học. Kết quả toàn bộ quá trình dạy học ở một mức độ quan trọng phụ thuộc vào việc tổ chức kiểm tra và đánh giá kết quả của học sinh một cách đúng đắn. Công tác đánh giá trong dạy học ­ giáo dục là một việc làm phức tạp, bởi lẽ kết quả cuối cùng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tác động. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh vừa đóng vai trò bánh lái, vừa giữ vai trò động lực của dạy học. Nó định hướng, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo dục. Kiểm tra, đánh giá có tác động đến việc cách tân trong đào tạo. G.K.Miler đã khẳng định: “Thay đổi một chương trình hoặc những kỹ thuật giảng dạy mà không thay đổi hệ thống đánh giá, chắc chắn là chẳng đi tới đâu! Thay đổi hệ thống đánh giá mà không thay đổi chương trình giảng dạy, có thể có một tiếng vang lớn đến chất lượng học tập hơn là một sự sửa đổi chương trình mà không sờ đến kiểm tra, đánh giá, thi cử.” Trong mọi sự đánh giá, vai trò hàng đầu của kiểm tra, đánh giá là giúp thực hiện được quyết định cho điểm, cho lên lớp. Vì quá trình đánh giá cung cấp những cơ sở cho một sự phán xét về giá trị. Sự phán xét này cho phép giáo viên ra được những quyết định sư phạm tốt nhất. Kiểm tra, đánh giá không chỉ đóng vai trò kích thích mà còn đóng vai trò dạy học. Kiểm tra, đánh giá là nhiệm vụ cần thiết để tổ chức quá trình dạy học, điều chỉnh quá trình dạy học, cũng như giúp lựa chọn những phương pháp làm việc và tính chất tài liệu học tập, phân hóa bài tập một cách hợp lý đối với học sinh. Kiểm tra, đánh giá không những là một nhân tố dạy học mà còn là một nhân tố kích thích. Hai yêu cầu này liên quan mật thiết với nhau: Nếu đánh giá mà không kích thích học sinh học tập thì nó chỉ là nhân tố dạy học đơn thuần và ngược lại nếu vai trò dạy học mất đi hay bị lu mờ thì tất yếu điều đó sẽ được phản ánh lên tác dụng của đánh giá. Đánh giá càng chính xác bao nhiêu thì càng giúp giáo viên trong việc cải tiến, hoàn thiện được nội dung đào tạo, quy định chính xác tài liệu, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học thích hợp bấy nhiêu. Vai trò của kiểm tra, đánh giá có thể được tóm lược thông qua từng đối tượng cụ thể như sau: ­ Đối với giáo viên: Kiểm tra và đánh giá cung cấp cho giáo viên những thông tin “liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy. Việc kiểm tra, 7
  8. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH đánh giá được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc cung cấp cho giáo viên những thông tin về trình độ chung của cả tập thể học sinh và giúp cho giáo viên đánh giá chính xác năng lực học tập và nhận thức của từng cá nhân học sinh để kịp thời có biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng thích hợp. Kết quả bài kiểm tra của học sinh còn là cơ sở để dựa vào đó giáo viên có thể phân loại kết quả học tập của học sinh từng lớp; ­ Đối với học sinh: Kiểm tra và đánh giá giúp cung cấp những thông tin “liên hệ ngược trong”, giúp cho người học tự điều chỉnh hoạt động học. Qua kiểm tra, đánh giá người học tự thấy mình đã tiếp thu những điều đã học đến mức nào, có những lỗ hổng nào cần phải bổ khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình học tập. Cũng qua kiểm tra, đánh giá học sinh còn có cơ hội thể hiện, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ như: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, phân tích, tổng hợp,… Kiểm tra và đánh giá còn tạo động cơ khuyến khích học sinh phát huy tinh thần học tập, tự học và nâng cao ý thức tự giác, tổ chức, kỷ luật. Học sinh sẽ so sánh kết quả của các bạn và thi đua học tập với bạn bè, đề ra phương hướng phấn đấu, ý chí vươn lên đạt kết quả học tập cao hơn; ­ Đối với các cấp quản lý: Kiểm tra, đánh giá cung cấp những thông tin cơ bản về thực trạng giảng dạy và học để có thể có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích và hỗ trợ những sáng kiến hay, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Kiểm tra, đánh giá cũng giúp cho các cơ quan quản lý đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo để cấp chứng chỉ, văn bằng được chính xác và có những biện pháp quản lý giáo dục thích hợp. 1.2.3 Chức năng của kiểm tra và đánh giá Chức năng định hướng: Kiểm tra và đánh giá để dự báo khả năng của học sinh có thể đạt được trong quá trình học tập, đồng thời xác định những điểm mạnh và yếu của học sinh. Việc kiểm tra, đánh giá cũng làm cơ sở cho việc lựa chọn bồi dưỡng năng khiếu, đồng thời giúp cho giáo viên có thể chọn cách dạy phù hợp với khả năng của học sinh. Kiểm tra, đánh giá thường diễn ra ở giai đoạn trước, thể hiện ở những bài ôn tập, kiểm tra đầu năm, có thể là những bài thử sức ở giai đoạn đầu các môn học theo chương trình phân môn, đó là những cách xác định mức độ nắm tri thức ở người học để dự kiến những khó khăn, từ đó có cách thức tác động phù hợp; Chức năng chuẩn đoán: Kiểm tra và đánh giá chuẩn đoán nhằm hỗ trợ việc học tập. Yêu cầu của kiểm tra và đánh giá chuẩn đoán đòi hỏi phải có cách xử lý thông tin để vừa thâu tóm được các thời điểm khác nhau của quá trình học tập, vừa có tính chất thúc đẩy, củng cố, mở rộng và nâng cao chất lượng tri thức. Kiểm tra và đánh 8
  9. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH giá chuẩn đoán được tiến hành thường xuyên và cung cấp cho người học những tín hiệu ngược về việc học tập của họ, từ đó giúp họ khắc phục những thiếu sót, điều chỉnh cách học cho phù hợp; Chức năng xác nhận: Đánh giá xác nhận cung cấp những số liệu để thừa nhận hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành nhằm xếp loại người học theo mục đích nào đó, thường được tiến hành sau một giai đoạn học tập. Chức năng này có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, đặc biệt là ý nghĩa xã hội của nó. Đánh giá xác nhận bộc lộ tính hiệu quả của một hệ thống đào tạo; Việc đánh giá này đòi hỏi phải thiết lập một ngưỡng trình độ tối thiểu và xác định đúng vị trí kết quả của người học đối với ngưỡng này. 1.3. Một số phương pháp kiểm tra đánh giá cơ bản 1.3.1 Phương pháp kiểm tra vấn đáp Kiểm tra bằng phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên tổ chức hỏi và đáp giữa giáo viên và học sinh, qua đó thu được thông tin về kết quả học tập của học sinh, được sử dụng sau khi học xong một bài hay nhiều bài, một hay nhiều chương hay toàn bộ sách. Kiểm tra vấn đáp có thể sử dụng ở mọi thời điểm trong tiết học cũng như trong khi thi cuối học kì hoặc cuối năm học, học sinh cần trình bày bằng ngôn ngữ nói. Ưu điểm của phương pháp này là: Giáo viên có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người học, nhờ đó có thể đánh giá được thái độ của người học, mặt khác, bằng những câu hỏi đa dạng, giáo viên không chỉ thu thập được thông tin về hiểu biết của người học theo tiêu chuẩn chung mà còn có thể phát hiện ra những năng lực đặc biệt hoặc những khó khăn, thiếu sót của từng cá nhân người học. Nhược điểm của phương pháp này là: Với số lượng câu hỏi rất ít nên khó bao quát toàn bộ chương trình môn học, việc đánh giá bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan, học sinh được hỏi những câu hỏi khác nhau với thời lượng, ở điều kiện không như nhau, do đó ảnh hưởng đến tính khách quan. Vấn đáp được sử dụng chủ yếu để kiểm tra kiến thức của người học, phương pháp kiểm tra vấn đáp thường tốn thời gian để tiến hành. 1.3.2 Phương pháp kiểm tra viết Bài kiểm tra viết yêu cầu học sinh xây dựng câu trả lời hoặc làm bài tập do giáo viên giao cho dưới hình thức viết. Kiểm tra viết là hình thức kiểm tra phổ biến, được sử dụng đồng thời với nhiều học sinh cùng tại một thời điểm, được sử dụng sau 9
  10. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH khi học sinh học xong một phần của chương, một chương hay nhiều chương, hoặc sau khi học xong toàn bộ chương trình sách giáo khoa, nội dung kiểm tra có thể bao quát từ vấn đề lớn có tính chất tổng quát đến vấn đề nhỏ, học sinh phải diễn đạt câu trả lời bằng ngôn ngữ viết. Xét theo dạng thức của bài kiểm tra có hai loại kiểm tra viết là kiểm tra viết dưới dạng tự luận và kiểm tra viết dưới dạng trắc nghiệm khách quan. 1.3.3 Phương pháp trắc nghiệm khách quan Một bài trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu thường được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản hay một từ, một cụm từ. Câu trắc nghiệm khách quan bao gồm các loại sau: ­ Loại câu nhiều lựa chọn; ­ Loại câu đúng – sai; ­ Loại câu điền vào chỗ trống; ­ Câu ghép đôi. 1.3.4 Phương pháp kiểm tra thực hành Phương pháp kiểm tra thực hành là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh tiến hành các hoạt động thực tiễn, qua đó thu được những thông tin về kỹ năng thực hành của học sinh. Trong thực tế nhiều yếu tố của các bài kiểm tra thực hành không thể kiểm tra trên giấy bút được nhưng có thể đo lường bằng công cụ và kỹ thuật quan sát Quan sát trực tiếp, có hệ thống là kỹ thuật quan trọng để thu thập số liệu đánh giá học sinh về kỹ năng, thái độ. Đánh giá kỹ năng bao gồm: Đánh giá cách thức tiến hành hoạt động và đánh giá sản phẩm. Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là kiểm tra được kỹ năng thực hành của người học, giúp cho việc rèn luyện kỹ năng, khắc phục tình trạng học tập lý luận xa rời thực tiễn. Tuy nhiên kiểm tra bằng phương pháp này cần nhiều thời gian hơn, công tác tổ chức và việc chuẩn bị công phu hơn so với các phương pháp khác. 10
  11. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH 1.4. Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá 1.4.1 Thực trạng của việc kiểm tra đánh giá trong giai đoạn hiện nay ở các trường THPT, Trung tâm GDTX, trung tâm KTTH - HN Hiện nay, việc kiểm tra và đánh giá nói chung vẫn còn phổ biến ở hình thức ra đề tự luận. Kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết (45 phút), … đều bằng thi viết. Câu hỏi kiểm tra chủ yếu dùng tự luận, hình thức này phần nào đã đánh giá được kết quả học tập của trò và phương pháp dạy của thầy, song trong giai đoạn hiện nay nó đã bộc lộ một số hạn chế như: ­ Do thời gian làm bài kiểm tra hạn chế trong nên mỗi bài kiểm tra viết bằng hình thức tự luận chỉ tập trung vào một số kiến thức trọng tâm, không bao quát rộng. Cũng do đó, học sinh có thể đoán được và chỉ học tủ một số vấn đề và bỏ qua các kiến thức khác. Trong quá trình làm bài kiểm tra học sinh có thể quay cóp, sử dụng tài liệu, trao đổi bài, … ­ Đề kiểm tra không bao trùm được nội dung học bài, phụ thuộc vào giáo viên ra đề nên độ tin cậy không cao; ­ Việc đánh giá làm bài của học sinh phụ thuộc vào người chấm, mất nhiều thời gian, đôi khi gây cảm giác nặng nề cho giáo viên; ­ Kết quả khó xác định đúng trình độ học tập của học sinh do chưa xác định được các chuẩn mực mới để đánh giá kết quả học tập của học sinh; ­ Cách tổ chức kiểm tra đánh giá phức tạp, tốn kém nhất là trong các kỳ thi lớn như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh vào các trương Đại học, Cao đẳng. Năm học 2005­2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng với môn Ngoại ngữ. Tuy nhiên, ngoài tài liệu hướng dẫn học sinh cách làm bài thi trắc nghiệm, hướng dẫn giáo viên cách coi thi và thu bài thi giáo viên không được hướng dẫn gì thêm. Cho nên hình thức kiểm tra và đánh giá này vẫn còn xa lạ đối với học sinh và cả giáo viên do bởi cả những lý do sau: ­ Đa số các trường THPT chưa có phần mềm soạn thảo, chấm điểm và đánh giá hệ thống câu hỏi trắc nghiệm; ­ Việc sử dụng hệ thống kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm chỉ được nhà trường khuyến khích giáo viên sử dụng dưới góc độ thử nghiệm; 11
  12. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH ­ Các tổ bộ môn chưa có kế hoạch xây dựng ngân hàng đề thì trắc nghiệm khách quan cho bộ môn mình giảng dạy; ­ Đa số các giáo viên chưa nắm bắt được cách thức xây dựng một bài kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan, cách đánh giá một câu hỏi trắc nghiệm theo độ tin cậy và độ phân biệt; ­ Học sinh còn ít được kiểm tra, đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm khách quan nên chưa có kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm. 1.4.2 Tại sao phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá Hiện nay việc kiểm tra và đánh giá ở các trường phổ thông còn chưa được coi trọng và bị phê phán là thiếu chính xác, không đủ độ tin cậy và làm sai lệch chất lượng giáo dục. Phần lớn các giáo viên đều quan niệm, việc ra đề kiểm tra cho học sinh đơn giản là có điểm số ghi vào sổ điểm. Từ đó, có căn cứ để cuối học kỳ, cuối năm đánh giá học sinh. Còn các cán bộ quản lý giáo dục thì cho rằng, đó là công việc của giáo viên chứ không phải của hiệu trưởng. Trong tình hình đó vấn đề đổi mới trong đánh giá chất lượng dạy và học đang được quan tâm và cần được nghiên cứu. Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, bởi lẽ dạy học là một quá trình bao gồm các khâu cơ bản như: Thiết kế bài giảng, thực hiện bài giảng và kiểm tra đánh giá. Đổi mới phương pháp dạy học với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng dạy học, trong đó đổi mới kiểm tra đánh giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả của đổi mới dạy học nói chung, do đó phương pháp kiểm tra đánh giá cũng cần phải đổi mới. 1.4.3 Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải được chuyển biến mạnh theo hướng phát triển trí thông minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực. Thống nhất với quan điểm đổi mới phương pháp đánh giá như trên, việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục 12
  13. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH tiêu giáo dục môn học ở từng lớp, cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục tiêu đã được xác định. Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá được bổ sung các hình thức đánh giá khác nhau như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm, chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát hoạt động này. Xóa bỏ tư tưởng thành tích trong đánh giá, xóa bỏ dạy thêm, học thêm tràn lan ở các cấp học. Xây dựng ngân hàng đề thi kiểm tra theo qui trình khoa học và trình độ chuẩn của chương trình để tiến tới kiểm tra đồng loạt trong phạm vi cả nước hoặc từng vùng theo các bộ đề chung cho từng giai đoạn học tập. 1.4.4 Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập các môn Nghề phổ thông Việc kiểm tra đánh giá bao gồm cả lý thuyết và thực hành, hình thức có thể là tự luận hoặc trắc nghiệm, kiểm tra vấn đáp, trên giấy hoặc trên máy. Nội dung các môn Nghề phổ thông rất thuận lợi cho ra đề thi trắc nghiệm. Do đó cần tăng cường sử dụng phương pháp này để có thể kiểm tra trên phạm vi kiến thức rộng và tiết kiệm thời gian. Đặc điểm khá đặc trưng của môn Nghề phổ thông là kiến thức đi đôi với thực hành. Tuy nhiên không nên lạm dụng quá nhiều phần thực hành. Có nhiều phần cần nắm chắc nguyên lý hoạt động trước khi có thể thao tác trực tiêp trên máy móc. Có thể đánh giá học sinh thông qua: ­ Mức độ nắm vững kiến thức cơ bản: có thể thực hiện thông qua bài kiểm tra bằng trắc nghiệm; ­ Mức độ thành thạo các kĩ năng: Thông qua các bài tập thực hành, thao tác trên máy và tạo ra các sản phẩm; ­ Khả năng giải quyết vấn đề thể hiện qua khả năng biết đề xuất phương hướng giải quyết và biết lựa chọn công cụ thích hợp để giải quyết: có thể thực hiện kiểm tra bằng giao vấn đề, bài tập lớn; ­ Khả năng làm việc theo nhóm: có thể giao nhiệm vụ, chủ đề, đề án nhỏ. 13
  14. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH 2. Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm 2.1. Khái niệm, phân loại 2.1.1 Khái niệm Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định. Trắc nghiệm mà đối tượng là con người có thể được hiểu theo định nghĩa sau: “Trắc nghiệm là một phương pháp khoa học cho phép dùng một loạt những tác động xác định để nghiên cứu một hay nhiều đặc điểm nhân cách phân biệt được bằng thực nghiệm với mục tiêu đi tới những mệnh đề lượng hóa tối đa có thể được về mức độ biểu hiện tương đối của đặc điểm cần nghiên cứu”. Trắc nghiệm là một phương pháp khoa học, trắc nghiệm phải được phát triển dựa trên những quy tắc có căn cứ khoa học, chẳng hạn: thử nghiệm trắc nghiệm, phân tích bài tập, đánh giá độ tin cậy và xác định tính hiệu quả. Trong giáo dục, trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kì thi, kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, đối với một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học, hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào một khoá học. 2.1.2 Phân loại Có thể chia trắc nghiệm ra thành 3 loại như sau: 1. Loại quan sát: Giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý thức, những kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức, chẳng hạn cách giải quyết vấn đề trong một tình huống đang được nghiên cứu. 2. Loại vấn đáp: Có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong một tình huống cần kiểm tra. Trắc nghiệm vấn đáp thường được dùng khi tương tác giữa người chấm và người học là quan trọng, chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn, … 3. Loại viết: Thường được sử dụng nhiều nhất vì nó có những ưu điểm sau: ­ Cho phép kiểm tra nhiều học sinh cùng một lúc; ­ Cho phép học sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời; ­ Đánh giá được một loại tư duy ở mức độ cao; ­ Cung cấp bản ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng khi chấm; ­ Dễ quản lý hơn vì bản thân người chấm không tham gia vào bối cảnh kiểm tra. 14
  15. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH Trắc nghiệm viết thường được chia thành hai nhóm: Trắc nghiệm Tự luận (Essay) và Trắc nghiệm Khách quan (Objective test). ­ Trắc nghiệm tự luận (Essay): Là nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả lời theo dạng mở, học sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra. Phương pháp tự luận này khá quen thuộc với tất cả mọi người; ­ Trắc nghiệm khách quan (Objective test): Là nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn cùng với những thông tin cần thiết sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu. Ta có sơ đồ về các phương pháp trắc nghiệm như sau: 2.2. Phương pháp kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan 2.2.1 Các kiểu câu hỏi trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Gọi là khách quan vì cách cho điểm (đánh giá) hoàn toàn không phụ thuộc vào người chấm. Trắc nghiệm khách quan được chia thành các kiểu câu hỏi cơ bản sau: a. Trắc nghiệm Đúng/Sai (Yes/No questions) Trước một câu dẫn xác định (thông thường không phải là câu hỏi), học sinh đưa ra nhận định và lựa chọn một trong hai phương án trả lời Đúng hoặc Sai. Loại câu hỏi này có 50% xác suất trả lời đúng nên chỉ thích hợp cho việc kiểm tra những kiến thức sự kiện, khái niệm, công thức. Chúng thường đòi hỏi trí nhớ, ít kích thích suy nghĩ, khả năng phân loại học sinh rất thấp.
  16. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH Ưu điểm: ­ Đây là loại câu hỏi đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến thức về những sự kiện; ­ Loại câu hỏi trắc nghiệm “đúng – sai” giúp cho việc trắc nghiệm bao gồm một lĩnh vực rộng lớn trong một khoảng thời gian ít ỏi; ­ Có thể viết được nhiều câu hỏi trong một khoảng thời gian ngắn hơn so với việc soạn câu hỏi nhiều lựa chọn. Ngoài ra nó cũng mang tính chất khách quan khi chấm điểm. Nhược điểm: ­ Có thể khuyến khích sự đoán mò; ­ Khó dùng để chẩn định yếu điểm của học sinh; ­ Có độ tin cậy thấp; ­ Khoảng lựa chọn quá hạn hẹp. Các lưu ý khi soạn câu trắc ngiệm “đúng – sai”: ­ Nên dùng những chữ chính xác và thích hợp để câu hỏi đơn giản và rõ ràng; ­ Nếu có thể được, nên cố gắng soạn các câu hỏi thế nào cho nội dung có nghĩa hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai; ­ Cần chú trọng điểm văn phạm; ­ Tránh dùng các câu ở thể phủ định; ­ Nên cố viết những câu để áp dụng kiến thức đã học; ­ Nên dùng các từ định lượng hơn định tính để chỉ các số lượng; ­ Tránh khuynh hướng dùng số câu trả lời đúng nhiều hơn câu sai hay ngược lại. b. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn (multiple choice questions) Đây là loại trắc nghiệm thông dụng nhất. Loại này thường có hai phần: phần đầu được gọi là phần dẫn, nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu một câu hỏi; phần sau là các phương án để chọn thường được dấnh dấu bằng các chữ cái A, B, C, D hoặc các số 1, 2, 3, 4. Trong các phương án đã chọn chỉ có duy nhất một phương án đúng hoặc một phương án đúng nhất còn các phương án khác được đưa vào với tác dụng gây nhiễu, còn gọi là câu mồi. Do vậy khi các câu lựa chọn được chuẩn bị tốt thì một người không có kiến thức chắc chắn về vấn đề đó sẽ không thể 16
  17. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH nhận biết được trong tất cả các phương án đã chọn đâu là phương án đúng, đâu là phương án nhiễu. Ưu điểm: ­ Có thể đo được khả năng tư duy. GV có thể dùng loại này để đánh giá mục tiêu giảng dạy, học tập khác nhau như: + Xác định mối tương quan “nhân – quả”. + Nhận biết các điều sai lầm. + Ghép các kết quả hay điều quan sát với nhau. + Định nghĩa các thành ngữ. + Tìm nguyên nhân của một số sự kiện. + Nhận biết đặc điểm tương đồng hay dị biệt giữa 2 hay nhiều vật. + Xác định nguyên lý hay ý niệm tổng quát từ các sự kiện. + Xác định thứ tự hay cách xếp đặt giữa nhiều vật. + Xác định nhiều vấn đề đang được tranh luận dưới nhiều quan điểm. ­ Độ tin cậy cao hơn. Yếu tố đoán mò may rủi giảm đi so với các loại TNKQ khác khi số phương án lựa chọn tăng lên; ­ Học sinh phải xét đoán và phân biệt rõ ràng khi trả lời các câu hỏi; ­ Tính chất giá trị tốt hơn. Loại trắc nghiệm này có độ giá trị cao hơn nhờ tính chất có thể dùng đo mức độ tư duy khác nhau; ­ Có thể phân tích được tính chất mỗi câu hỏi. Dùng phương pháp phân tích tính chất mỗi câu hỏi, chúng ta có thể xác định câu hỏi nào quá dễ, câu hỏi nào quá khó, câu hỏi nào mơ hồ hay không có giá trị với mục tiêu cần trắc nghiệm; ­ Tính chất khách quan khi chấm. Nhược điểm: ­ Khó soạn câu hỏi. Điều khó do ở chỗ phải cho được câu trả lời đúng nhất trong lúc các câu, các phương án trả lời khác để chọn cũng phải có vẻ hợp lý. Thêm vào đó các câu hỏi phải đo được các mục tiêu ở mức năng lực nhận thức cao hơn ở mức nhớ. Vì vậy cần yêu cầu cao ở GV khi soạn câu hỏi; 17
  18. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH ­ Thí sinh có óc sáng kiến có thể tìm ra những câu trả lời hay hơn phương án đúng đã cho, nên họ có thể không thỏa mãn hay cảm thấy khó chịu; ­ Các câu trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời để lựa chọn có thể đo được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo một cách hiệu nghiệm bằng câu hỏi tự suy luận soạn kỹ. Các lưu ý khi soạn câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn: ­ Phần chính hay phần dẫn của câu hỏi phải diễn đạt rõ ràng một vấn đề. Các câu trả lời để chọn phải là các câu khả dĩ thích hợp với vấn đề đã nêu; ­ Phần chính hay câu dẫn của câu hỏi nên mang trọn ý nghĩa và phần câu trả lời để chọn nên ngắn gọn; ­ Nên bỏ bớt các chi tiết không cần thiết; ­ Tốt nhất nên có 4 phương án trả lời để chọn cho mỗi câu hỏi; ­ Nên tránh 2 thể phủ định liên tiếp; ­ Các câu trả lời để chọn phải có vẻ hợp lý; ­ Phải chắc chắn chỉ có một câu trả lời đúng; ­ Độ dài của các câu trả lời trong các phương án cho sẵn để chọn phải gần bằng nhau; ­ Các câu trả lời trong các phương án để chọn lựa phải đồng nhất với nhau; ­ Các câu trả lời nhằm đo sự hiểu biết, suy luận, hay khả năng áp dụng các nguyên lý vào những trường hợp mới nên được trình bày dưới hình thức mới; ­ Lưu ý đến các điểm liên hệ về văn phạm có thể giúp HS nhận biết câu trả lời; ­ Các câu trả lời đúng nhất hay hợp lý nhất phải được đặt ở các vị trí khác nhau một số lần tương đương nhau; ­ Vị trí các câu trả lời để chọn lựa nên được sắp xếp theo một thứ tự “tự nhiên” nào đó có thể được; ­ Nên tránh dùng câu dẫn dạng phủ định. Nếu dùng phải gạch dưới hoặc in đậm chữ “không” để nhắc học sinh thận trọng khi trả lời; 18
  19. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH ­ Rất hạn chế dùng các phương án như: Các câu trên đều đúng; Các câu trên đều sai; Em không biết; Một kết quả khác…. c. Trắc nghiệm điền khuyết (supply items) Còn được gọi là trả lời ngắn (short answer), đây là dạng trắc nghiệm khách quan có câu trả lời tương đối tự do. Thường chúng ta nêu ra một mệnh đề có khuyết một bộ phận, học sinh nghĩ ra nội dung trả lời thích hợp để điền vào chỗ trống, thường là những câu trả lời có nội dung ngắn ngọn hoặc một vài từ. Ưu điểm: ­ Thí sinh có cơ hội trình bày những câu trả lời khác, thường phát huy óc sáng kiến; ­ Thí sinh mất cơ hội đoán mà câu trả lời như trong các loại trắc nghiệm khách quan khác; ­ Dễ soạn hơn các loại trắc nghiệm khác; ­ Loại này rất thích hợp cho những vấn đề như tính toán, cân bằng phương trình hóa học, nhận biết các vùng trên bản đồ, giản đồ; ­ Giúp học sinh luyện trí nhớ và vận dụng chúng trong giờ học. Khuyết điểm: ­ Người soạn thường trích nguyên văn các câu trả lời từ sách giáo khoa; ­ Việc chấm bài mất nhiều thời gian và không khách quan; ­ Khi có nhiều chỗ chừa trống trong câu hỏi, người làm sẽ rối trí hơn. Các lưu ý khi soạn câu trắc nghiệm điền khuyết : ­ Lời chỉ dẫn phải rõ ràng, tránh viết các câu diễn tả mơ hồ; ­ Tránh lấy các câu nguyên văn từ sách ra để khỏi khuyến khích học sinh học thuộc lòng; ­ Đừng nên chừa trống quá nhiều chữ trọng yếu; ­ Các khoảng cách nên có chiều dài bằng nhau cho người làm không đoán được câu trả lời. d. Trắc nghiệm ghép đôi (matching items) Có thể xem đây là một dạng đặc biệt của dạng trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn, dạng câu hỏi này thường gồm hai cột thông tin, một cột là những câu hỏi (hay câu dẫn) một cột là những câu trả lời (hay còn gọi là câu lựa chọn), yêu cầu học 19
  20. TRUNG TÂM TH NN - HN KH KTTH sinh phải tìm cách ghép các câu trả lời ở cột này với câu hỏi ở cột khác sau cho hợp lý. Ưu điểm: ­ Các câu ghép đôi dễ viết và dễ dùng, đặc biệt rất thích hợp khi cần khẳng định các mục tiêu ở tư duy thấp; ­ Khi được soạn kỹ, loại câu ghép đôi đòi hỏi người làm phải chuẩn bị rất tốt kiến thức vì yếu tố đoán mò giảm đi rất nhiều, nhất là phải ghép những cột có ít nhất 8 đến 10 phần tử với nhau; ­ Người ta có thể dùng trắc ngiệm loại ghép đôi để đo các mức trí năng khác nhau. Nếu được khéo léo soạn thảo, loại trắc nghiệm này có thể được dùng như loại có nhiều trả lời cho sẵn để tránh trắc nghiệm ở những mức trí năng cao hơn. Khuyết điểm: ­ Trắc nghiệm loại này không thích hợp cho thẩm định các khả năng như sắp đặt, áp dụng kiến thức nguyên lý; ­ Người đọc sẽ mất nhiều thời gian để đọc cả một cột mỗi lần muốn ghép đôi; ­ Dễ trả lời thông qua loại trừ; ­ Không cho thấy khả năng sử dụng các thông tin ghép đôi. Các lưu ý khi soạn câu hỏi ghép đôi: ­ Phải xác định rõ tiêu chuẩn để ghép một phần tử của cột trả lời và phần tử tương ứng của cột câu hỏi; ­ Số phần tử để chọn lựa trong cột trả lời nên nhiều hơn số phần tử trong cột câu hỏi hoặc mỗi phần tử trong cột trả lời có thể dùng nhiều lần; ­ Các câu hỏi nên có tính chất đồng nhất hoặc liên hệ nhau. 2.2.2 Các nguyên tắc, yêu cầu, mức độ nhận thức khi ra đề kiểm tra và thi trắc nghiệm khách quan. Việc ra đề thi dựa trên cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ học sinh ở 6 mức độ từ đơn giản đến phức tạp: Nhận biết, ghi nhớ tri thức; Thông hiểu, lí giải; Vận dụng; Phân tích; Tổng hợp; Đánh giá, bình xét. Trước hết học sinh phải nhớ các kiến thức đơn giản đó là nền tảng vững vàng có thể phát triển năng lực nhận thức ở mức độ khác nhau của nhận thức. Tùy theo tính chất, yêu cầu của mỗi kỳ thi để định ra lượng kiến thức đưa vào phù hợp với từng mức độ nhận thức. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2