intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:47

14
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế" với mục đích làm rõ khái niệm, nguồn gốc, biểu hiện và những tác động của xu thế toàn cầu hóa; tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tư liệu về chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế; hệ thống, khái quát về quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, những cơ hội, thách thức,.... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế

  1. MỤC LỤC 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa. Cùng với sự phát tiển của nhân loại, xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các khu vực, quốc gia, dân tộc trên thế giới. Toàn cầu hóa làm nảy sinh nhu cầu hội nhập quốc tế của tất cả các quốc gia; không phân biệt trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị hay tôn giáo. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển. Bước sang thế kỉ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế chủ yếu của các quốc gia trên thế giới , trong đó có Việt Nam. Quá trình này đã và đang tạo ra cho Việt Nam những cơ hội để bứt phá và phát triển. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế không chỉ đem đến những cơ hội mà còn đặt ra cho mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia nhỏ, yếu, đang phát triển những khó khăn, thách thức to lớn trên mọi phương diện. Đại hội XI của Đảng (2011) khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh... Bước phát triển này trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới. Việc tìm hiểu, nghiên cứu xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng. Ngoài việc góp phần bổ sung tài liệu chuyên 2
  3. sâu về xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế chuyên đề còn giúp chúng ta nhận thức rõ và có sự “chủ động và tích cực” trong xu thế chung của nhân loại. Đi sâu nghiên cứu xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế còn phục vụ công tác giảng dạy và liên hệ thực tiễn nội dung xu thế toàn cầu hóa, công cuộc đổi mới trong chương trình lịch sử lớp 12, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp ở trường phổ thông. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “ Xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế ” làm đề tài nghiên cứu. Mục đích của đề tài: - Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, biểu hiện và những tác động của xu thế toàn cầu hóa. - Tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tư liệu về chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế. - Hệ thống, khái quát về quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, những cơ hội, thách thức. - Vận dụng giải quyết một số câu hỏi cụ thể - Đề tài là tài liệu quan trọng cho giáo viên, học sinh khi giảng dạy, học tập chuyên đề quan hệ quốc tế và ôn luyện học sinh giỏi các cấp. 3
  4. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: XU THẾ TOÀN CẦU HÓA VÀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1. Xu thế toàn cầu hóa 1.1. Khái niệm toàn cầu hóa Khái niệm toàn cầu hóa xuất hiện từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh đễ diễn đạt một nhận thức của con người về một xu thế, một bộ phận trong quan hệ quốc tế hiện đại. Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức, hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế trên toàn cầu. Tùy vào góc độ tiếp cận từ nhiều phía như: nguồn gốc, biểu hiện, bản chất mà khái niện toàn cầu hóa được hiểu theo các cách khác nhau. “ Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng xảy ra ở vùng miền này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các cộng đồng người khác trên quy mô toàn thế giới”. Toàn cầu hóa là xu thế bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong các mặt đó toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm vừa là cơ sở thúc đẩy các lĩnh vực khác của toàn cầu hóa nói chung. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế ngày nay là sự phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi toàn cầu, sự hình thành trên thị trường thế giới và phân công lao động quốc tế, sự di chuyển tự do về tư bản, hàng hóa và nhân công trên phạm vi toàn cầu. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi ấy, khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sử dụng một cách phổ biến. Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi người ta cách điệu thành “siêu quốc gia”, ấy được gọi là quá trình quốc tế hoá. Đa số bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên bởi những tham vọng, lý tưởng chính trị không có nguồn gốc từ những cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực. Những quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành đến lúc tham dự một cách có ý thức vào một quá trình mới, hình thành hệ thống thế giới. Nó mở đường cho sự hình thành một hệ thống toàn thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc khái niệm “quốc tế hoá” được thay thế bởi khái niệm “toàn cầu hoá” 4
  5. Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế giới. Đó là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, và vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu. Toàn cầu hoá có thể được xem xét như một quá trình lịch sử tự nhiên. Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này. Ông gọi nó là quá trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên phạm vi nhỏ hơn diễn ra trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của R.Robertson là lịch sử toàn thế giới đi theo một tiến trình hợp nhất, thông qua việc hình thành nên những thực thể xã hội lớn dần – mà lớn nhất là thực thể toàn cầu – và ngay trong quá trình hình thành các thực thể trung gian đã hàm chứa quá trình toàn cầu hoá, dưới dạng manh nha. Ông cho rằng, tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV. Nó được mở rộng ra ngoài phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson phân quá trình này thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “toàn cầu hoá phôi thai”, còn từ 1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự “cất cánh” đưa đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác định với một hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá biện chứng về quá trình toàn cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng nhất toàn cầu, mà là sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa phương (the local). Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu sản phẩm và thị trường của địa phương theo từng hoàn cảnh cụ thể, tương thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm “glocalization” hay “local globalization” (toàn cầu hoá có tính địa phương. Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và hàng hoá nhằm tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài người, cả thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát triển – không thể có sự lựa chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hoá kia, hoặc 5
  6. chờ đợi làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người thua cuộc thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”. Như vậy, xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạng mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. 1.2 Nguồn gốc của toàn cầu hóa Từ những năm 40 của thế kỉ XX, khởi đầu từ nước Mĩ, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai bùng nổ. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay xuất phát từ: Những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người, nhất là trong tình hình bùng nổ dân số thế giới và sự vơi cạn nghiêm trọng các nguồn tài nguyên; Những thành tựu khoa học - kỹ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần hai; Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ là điều kiện để khoa học – kỹ thuật phát triển nhằm sáng chế ra nhưng vũ khí, phương tiện thông tin... Đặc điểm lớn nhất của cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại là khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học. Cách mạng khoa học và cách mạng kĩ thuật không tách rời nhau, mà gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại diễn ra trên quy mô rộng lớn, trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, phát triển với tốc độ nhanh và đạt được những thành tựu kì diệu chưa từng thấy. Cuộc cách mạng công nghệ trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học – kĩ thuật. – Trong các ngành khoa học cơ bản như Toán học, Vật lí học, Hoá học, Sinh học có nhiều phát minh mới… Đặc biệt là tạo ra được cừu Đôli bằng phương pháp sinh sản vô tính (tháng 3-1997), lập được “Bản đồ gen người” (tháng 6-2000), giải mã hoàn chỉnh bản đồ gien người (4-2003). 6
  7. – Trong lĩnh vực công nghệ đã xuất hiện những phát minh quan trọng, những thành tựu to lớn: + Những công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động…) + Nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử…) + Vật liệu mới (chất pôlime, những vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn…) + Công nghệ sinh học (công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh, công nghệ emzim, dẫn tới cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp) + Trong lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vận tải (cáp sợi thuỷ tinh quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hoả tốc độ cao) + Chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ). + Công nghệ thông tin với sự hình thành mạng thông tin toàn cầu (Internet), được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành kinh tế và hoạt động xã hội, đưa nền văn minh nhân loại sang một chương mới “văn minh thông tin”. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại đã có những tác động sâu sắc tới nền kinh tế quốc tế. Trước hết làm thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế: Tỉ trọng nông nghiệp, công nghiệp giảm, tỉ trọng dịch vụ tăng. Hiện nay, tỉ trọng nông nghiệp trong GDP ở các nước công nghiệp phát triển giảm mạnh, tỉ trọng của ngành công nghiệp có tăng chút ít ở một số nước, còn ở một số nước lại giảm xuống, tỉ trọng của ngành dịch vụ (bao gồm ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương nghiệp bán buôn và bán lẻ, các thiết chế tài chính – tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, các dịch vụ sinh hoạt, giao dịch và văn hóa – xã hội) tăng lên mạnh. Thứ hai: Trong nội bộ từng ngành cũng có nhiều sự thay đổi, đặc biệt là trong công nghiệp dịch vụ. Trong công nghiệp đã chuyển từ loại hình cơ cấu tiêu hao nhiều năng lượng, lao động, tài nguyên sang loại hình cơ cấu có hàm lượng khoa học, tri thức và công nghệ cao, tốc độ của những ngành này đã vượt tốc độ phát triển bình quân của sản phẩm công nghiệp. Thứ ba: Cùng với sự thay đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu việc làm cũng có sự thay đổi mới. Đội ngũ người lao động – lực lượng sản xuất cơ bản biến đổi cả về trình độ, cơ cấu và cả các yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa sức lao động. Cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tiến bộ, các yếu tố tái sản xuất sức lao động đã ngày càng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của quá trình tái sản xuất xã hội. Nền sản xuất xã hội bước dần sang nến sản xuất trí tuệ, đòi hỏi người lao động càng phải có trình độ 7
  8. khoa học, trình độ công nghệ, tay nghề cao, làm tỷ lệ công nhân cổ trắng ngày càng tăng. Thứ tư: Thay đổi trong hình thức sản xuất và tổ chức sản xuất. Xuất hiện hình thức mới là các khu công nghệ cao mà ở đó sản xuất và khoa học kết hợp làm một. Ðó là hình thức sản xuất mới của nền kinh tế tri thức, của xã hội thông tin. Các khu công nghệ cao hay còn gọi là các “công viên công nghệ cao” đang phát triển rất mạnh. Như vậy, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ với việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã trở thành điều kiện quan trọng để đưa lực lượng sản xuất tiến lên một bước phát triển mới làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, nguồn vốn, trình độ kĩ thuật, công nghệ, nguồn lực, trình độ quản lí…giữa các quốc gia thì sự trao đổi quốc tế là tất yếu khách quan và diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn, quy mô càng lớn hơn. Đối tượng tham gia vào việc trao đổi quốc tế được mở rộng rất nhiều, dẫn đến nhu cầu tất yếu về hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học công nghệ: chuyên môn hóa với hợp tác hóa quốc tế trong sản xuất và hợp tác với trao đổi quốc tế trong các lĩnh vực khác. Kết luận: Cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm tăng năng suất lao động , đưa tới sự hình thành một thị trường thế giới với xu thế toàn cầu hóa.Toàn cầu hóa chính là hệ quả quan trọng của cachs mạng khoa học công nghệ, xuất hiện từ đầu những năm 80 thế kỉ XX. 1.3 Biểu hiện của toàn cầu hóa Thứ nhất: Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế, các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau. Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, đây là một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các quốc gia vào sự phát triển kinh tế và sự phân công lao động. Do tác động của cách mạng khoa học công nghệ, năng suất lao động ngày càng tăng tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn, dẫn đến nhu cầu trao đổi thoát ra khỏi phạm vi thị trường quốc gia. Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực, trong đó thương mại là một trong những lĩnh vực được coi là trọng tâm Do vậy, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế ngày càng tăng. 8
  9. Thương mại quốc tế ngày càng tăng có nghĩa là nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc thế hóa của nền kinh tế thế giới tăng. Thứ hai: Sự phát triển và những tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia. Sự phát triển của lượng sản xuất dưới tác động của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình tich tụ và tập trung sản xuất hình thành các công ti có quy mô lớn. Quan hệ quốc tế ngày càng phát triển làm cho các công ty liên minh với nhau trong quá trình sản xuất và phân phối hàng hoá trên thị trường thế giới đã hình thành nên các công ty độc quyền quốc tế .Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một mức độ nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế.Tập trung sản xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành cơ sở kinh tế quan trọng của sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia có phạm vi hoạt động không biên giới. Các công ti xuyên quốc gia có vai trò và tác động lớn đến sự phát triển kinh tế thế giới. Các công ti xuyên quốc gia thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, đẩy mạnh quan hệ hàng hóa, tài chính trên phạm vi toàn cầu. Sự phát triển của các công ti xuyên quốc gia đã phá bỏ được những hàng rào biên giới quốc gia, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất. Các công ti xuyên quốc gia còn có tác động đến quá trình trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy đầu tư quốc tế, thúc đẩy tự do hóa đầu tư giữa các quốc gia. Bên cạnh đó các công ti xuyên quốc gia còn tạo cơ hội việc làm và thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực. Thứ ba: Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn, nhất là các công ti khoa học – kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Làn sóng sáp nhập này tăng lên nhanh chóng vào những năm cuối thế kỉ XX. Cạnh tranh ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Trong điều kiện phát triển mới, cường độ cạnh tranh không hề giảm bớt mà có xu hướng gia tăng với những kết quả hoặc những tổn thất không lường. Việc sáp nhập và hợp nhất các công ti đưa lại lợi ích to lớn giúp giảm chi phí đầu tư và hội tụ đầy đủ các tiềm lực 9
  10. và thuận lợi để các tập đoàn phát triển lớn mạnh và đạt được lợi thế cạnh tranh trên thương trường. Thứ tư: Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. (Quỹ tiền tệ quốc tế – IMF, Ngân hàng thế giới – WB, Tổ chức thương mại thế giới – WTO, Liên minh châu Âu – EU, Hiệp ước thương mại tự do Bắc Mĩ – NAFA, Khu vực thương mại tự do – ASEAN(AFTA)…). Xu thế toàn cầu hóa mà trọng tâm là toàn cầu hóa kinh tế, việc mở rộng thương mại quốc tế, sự phân công lao động quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Nhờ có sự phân công lao động trong các khối liên kết kinh tế, tài chính, thương mại mà mỗi nước sử dụng hiệu quả hơn, kinh tế hơn các thế mạnh tuyệt đối và tương đối của mình, - làm cho các thành tựu khoa học kỹ thuật được sử dụng tối ưu, tăng năng suất lao động ... Liên kết kinh tế khu vực giúp cho mỗi quốc gia tăng cường sức cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu của quá trình hội nhập toàn cầu và những bất lợi của quá trình đó để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế của quốc gia mình. Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa: Sự phát triển nhanh chống của quan hệ thương mại quốc tế; Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia; Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn; Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. 1.4. Tác động của toàn cầu hóa Toàn cầu hoá là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược. Nó có tác động tích cực và tiêu cực. * Tác động tích cực Toàn cầu hóa thúc đẩy rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao (nửa đầu của thế kỷ XX, GDP thế giới tăng hơn 2,7 lần, đến cuối thế kỷ thì đã tăng lên 5,5 lần). Toàn cầu hóa góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đưa tới bước chuyển dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài người. 10
  11. Mặt khác, toàn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành quả, những đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các dân tộc, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Toàn cầu hóa tạo nên khả năng phát triển rút ngắn của các quốc gia, mang lại những nguồn lực rất quan trọng, cần thiết cho các nước đang phát triển từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm. Toàn cầu hóa đã gây sức ép gay gắt về mặt cạnh tranh do dó đòi hỏi các nền kinh tế phải tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả. Mặt khác, toàn cầu hóa mở ra những thị trường mới, những đối tác mới cho từng nước như các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế giới tăng 2 lần, đến nửa sau thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan thuế nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một số ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Toàn cầu hóa còn là quá trình được mở rộng tới mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Đó là quá trình giao lưu, trao đổi, hội nhập và cả đấu tranh một cách tự nhiên giữa các nền văn hóa. Thông qua các hình thức liên kết kinh tế, chuyển giao công nghệ, luân chuyển vốn và mở rộng thị trường, các nền văn hóa khác nhau có điều kiện giao lưu, truyền bá, lan tỏa trở nên phong phú và đa dạng. * Tác động tiêu cực Toàn cầu hóa làm tăng thêm sự bất công xã hội, khoét sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn. Các nước công nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 85% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp của nước ngoài và 75% số máy điện thoại; trong khi đó các nước nghèo nhất chiếm 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra 1%GDP toàn thế giới. 11
  12. Toàn cầu hóa cũng làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người thêm kém an toàn, từ kinh tế, tài chính, văn hóa xã hội cho đến môi trường... Mặt khác, về mặt xã hội, toàn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc và nguy cơ nền độc lập tự chủ của các quốc gia bị xâm phạm. Kết luận: Xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các dân tộc, khu vực, quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hóa chính là thời cơ lịch sử, tạo ra cơ hội to lớn cho sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia nhưng đồng thời cũng đưa tới muôn vàn những khó khăn thử thách. 12
  13. CHƯƠNG II. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1. Bối cảnh lịch sử Sau Chiến tranh lạnh, hầu như các quốc gia đều ra ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm ... Mĩ cố gắng vươn lên “Trật tự đơn cực”. Trong khi đó, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc cố gắng duy trì “Trật tự đa cực”. Các nước lớn đã điều chỉnh các quan hệ đối với nhau chiều hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp hoặc tạo lập những tập hợp lực lượng riêng... Vai trò của Liên hợp quốc được tăng cường và đề cao trong việc duy trì trật tự, an ninh thế giới... Xu thế đối thoại, hợp tác, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, cùng tôn trọng lẫn nhau trong cùng tồn hoà bình đang ngày càng trở thành xu thế chủ yếu trong các mối quan hệ quốc tế. Tuy hòa bình là xu thế chủ đạo của tình hình thế giới sau Chiến tranh lạnh nhưng nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột, sự ổn định các quốc gia bị đe dọa bởi nguy cơ li khai, khủng bố ... Từ thập kỉ 80 thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ xu thế “toàn cầu hóa” ... Đây là xu thế khách quan’ đối với các nước đang phát triển đây vừa là thời cơ vừa là thách thức gay gắt trong đó có Việt Nam. Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976 – 1980 và 1981 – 1985), Việt Nam đạt được những kết quả nhất định trên cả hai phương diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội, do “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới. Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật trở thành xu thế thế giới, đặt ra yêu cầu phải đổi mới. Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khi các nước này đang tiến hành công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Tình hình đó cũng đòi hỏi Đảng và Nhà Việt Nam phải tiến hành đổi mới. 13
  14. Kết luận: Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất, đã trở thành xu thế chung của thời đại, đang tác động mạnh mẽ và làm biến đổi căn bản đời sống của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. 2. Chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà vào trào lưu phát triển chung của thế giới. Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra bước ngoặt trong tư duy và thực tiễn hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”. Nghị quyết Đại hội cũng xác định nội dung chính của chính sách kinh tế đối ngoại trước hết bao gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài... Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, mở ra bước đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại hội xác định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” Đại hội VIII của Đảng (1996) đã đưa ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh phải mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Bước vào thế kỷ mới, Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Đại hội xác định độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng 14
  15. hoá, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, không chỉ "sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng “là đối tác tin cậy của các nước" và "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Chủ trương hội nhập quốc tế tiếp tục được hoàn thiện thêm tại Đại hội X của Đảng (4/2006). Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội khẳng định quan điểm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội nhập quốc tế với sự khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh... Xuyên suốt quá trình gần 30 năm đổi mới, có thể thấy quan điểm về đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển; Tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. 3. Quá trình hội nhập quốc tế qua 30 năm đổi mới của Đảng ta 15
  16. Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74). Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta. Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng. Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm, đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, 16
  17. chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tiếp đó hội nhập kinh tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước, bởi chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu không hội nhập thì việc sử dụng trong nước sẽ bị lãng phí, kém hiệu quả. Thông qua hội nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua hợp đồng gia công hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế để tham 17
  18. gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế và mở rộng quá trình dân chủ hoá xã hội. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại – dù là toàn cầu hoá đang do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói đến tranh thủ những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển và đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã nói : “chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được” Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vô cùng phức tạp. Nó không chỉ đem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà còn có cả những thách thức và khó khăn mới nảy sinh. Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên thế giới còn rất xa. Học thuyết tự do mới về toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải mở toang cửa nền kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để tự do hoá thị trường bên trong và bên ngoài, phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải giảm mạnh vai trò kiểm soát của Nhà nước theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”. Vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng các nước khác. Mà xu hướng tự do hoá thương mại quốc tế càng phát triển thì cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt. Điểm đặc biệt là ta phải cạnh tranh ngay từ đầu, trên tất cả các mặt trận, với những thế lực mạnh hơn nhiều về thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhiều lần nhấn mạnh : “Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua kém nhiều nước xung quanh là điều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế” Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư theo chiều sâu để nền kinh tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách làm sao vừa bảo đảm cho đổi mới thành công, nền kinh tế phát triển bền vững; vừa phù hợp với cam kết quốc tế; lại có khả năng khắc phục những tiêu cực, rủi ro do hội nhập đem lại. Nhìn chung, nếu không vượt qua được những thách thức này, chúng ta không thể có chủ nghĩa xã hội trong thực 18
  19. tế. Mặt khác, toàn cầu hoá đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối trên các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ và vốn. Các nước tư bản đang mưu toan dinh những lợi thế này để gây sức ép đối với chúng ta. Thực tế này đe doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mòn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đe doạ sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội nhập, cần phân tích tính hai mặt của toàn cầu hoá để nhận thức được những mặt, những xu hướng, những tác động, những quy luật vận động của nó. Trên cơ sở đó chủ động tìm ra con đường, cách thức biện pháp phù hợp trong từng bước hội nhập để tiếp tục con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới. Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số quan điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta như sau: Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Thứ ba, hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; đồng thời vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” với nước ta. 19
  20. Ngày nay, trong thế giới luôn luôn có biến động không ngừng, xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đang nổi lên chiếm vị trí chủ đạo khuynh hướng phát triển của thế giới trong thời gian tới. Mỗi quốc gia đều hiểu rằng không thể đứng ngoài xu thế phát triển chung của thế giới hội nhập mở cửa đồng nghĩa hoà nhập trong xu thế đi lên của xã hội loài người; đóng cửa, biệt lập cũng đồng nghĩa với bảo thủ, tự giảm khả năng phát triển. Và trong quá trình hội nhập các quốc gia phải có biện pháp cụ thể để tận dụng ở mức tốt nhất những cơ hội để phát triển. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài mục đích này. Nhưng với một tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam đứng trước những thử thách, khó khăn to lớn. Trong đó nổi bật là nguy cơ tụt hậu khoảng cách phát triển với các quốc gia tiên tiến ngày càng mở rộng hơn. Đây là hạn chế, khó khăn căn bản bởi vì củng cố tiềm lực kinh tế càng mạnh sẽ có cơ hội trong việc giữ vị thế, tiếng nói chủ động trong quá trình hội nhập và đặc biệt thương mại quốc tế. Tuy nhiên với thành tựu đạt được qua thời gian gần 20 năm đổi mới cùng với chủ trương đúng đắn phát huy nội lực trong phát triển kinh tế, nước ta sẽ vượt qua khó khăn để đạt mục tiêu tới năm 2020 trở thành quốc gia công nghiệp và xa hơn nữa, vươn lên sánh kịp với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc. Toàn cầu hóa đã tác động không nhỏ đến việc hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta khi chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung thống nhất, xóa bỏ chủ trương phát triển nền kinh tế khép kín dựa trên nguyên tắc "tự lực cánh sinh", hạn chế các mối liên hệ với nền kinh tế thế giới. Và đã từng bước đi vào nền kinh tế thị trường quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh kiểu chiến lược các quan hệ kinh tế đối ngoại là quan hệ thị trường thì còn có những chính sách như: bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng để mở rộng kinh tế đối ngoại, khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại, sửa đổi và ban hành các luật pháp cần cho kinh tế đối ngoại và phù hợp với các thông lệ quốc tế mà ta sẽ cam kết,…đã phát huy sức mạnh và đạt được những thành tựu nhất định. Như vậy, có thể nói trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, đất nước ta đã từng bước hội nhập và mở cửa và đưa ra những chính sách phù hợp. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0