intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giải pháp quản lí hoạt động của tổ chuyên môn trường tiểu học

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:50

9
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điểm mới của sáng kiến là đưa ra một số giải pháp quản lí hoạt động của TCM góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường tiểu học, đáp ứng công cuộc đổi mới Giáo dục phổ thông trong tình hình mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giải pháp quản lí hoạt động của tổ chuyên môn trường tiểu học

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn sáng kiến: Trong nền kinh tế  tri thức ngày nay, giáo dục có vai trò vô cùng quan  trọng: “Giáo dục và đào tạo có sứ  mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn  nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây   dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”, đáp  ứng yêu cầu công nghiệp  hóa, hiện đại hóa đất nước.   Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 ­ 2020 đã được Thủ  tướng Chính phủ phê duyệt có nêu: Xây dựng nền giáo dục có tính nhân  dân,  tính dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác ­ Lê Nin  và Tư tưởng Hồ  Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong  giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để  đạt được mặt bằng  chung, đồng thời tạo điều kiện cho các địa phương và các cơ  sở  giáo dục có  điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước đạt trình độ  ngang bằng với các  nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để  ai cũng được đi học, học tập suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu   số, người nghèo, con em diện chính sách.  Kết luận số  51­KL/TW ngày 29/10/2012 Hội nghị  lần thứ  sáu Ban  Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) chỉ rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện  giáo dục và đào tạo là một yêu cầu khách quan và cấp bách của sự  nghiệp   đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc  ở  nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào  tạo bao gồm: đổi mới tư  duy; đổi mới mục tiêu đào tạo; hệ  thống tổ  chức,  loại hình giáo dục và đào tạo; nội dung, phương pháp dạy và học; cơ  chế  quản lí; xây dựng đội ngũ GV, cán bộ  quản lí; cơ  sở  vật chất, nguồn lực,  1
  2. điều kiện bảo đảm…, trong toàn hệ thống (giáo dục mầm non, giáo dục phổ  thông, giáo dục đại học, đào tạo nghề)” Hội nghị  đã đề  ra phương hướng   phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020: “Quán triệt đầy đủ và thể hiện  bằng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể quan điểm giáo dục ­ đào tạo  là quốc sách hàng đầu, phải đi trước và được đầu tư trước”. Đổi mới giáo dục phổ  thông, đổi mới quản lí nhà trường, trong  đó  đổi mới quản lí hoạt động của tổ  chuyên môn (TCM) trở  thành đòi hỏi cấp  bách để nâng cao chất lượng giáo dục. Đối với nhà trường tiểu học thì TCM  là đơn vị  quản lí trực tiếp triển khai các hoạt động chuyên môn. Hoạt động  chuyên môn của TCM là một hoạt động thiết yếu, chủ  lực cho tất cả  hoạt   động giáo dục. Vai trò quản lý của tổ  trưởng góp phần không nhỏ  vào việc   nâng cao chất lượng giáo dục. Mọi công tác chuyên môn được bàn bạc, thống  nhất và đi đến việc thực hiện đều phải qua các sinh hoạt giữa các thành viên   trong tổ  nhằm đảm bảo hiệu quả  đúng theo mọi tiến độ  của kế  hoạch năm  học đã được xây dựng. Một trong những   hoạt động chủ  yếu trong nhà trường là hoạt động  chuyên môn. Các TCM là tổ chức quan trọng và nòng cốt trong các nhà trường   nói chung, trường tiểu học nói riêng. Bởi lẽ  hoạt  động chủ  yếu của nhà   trường là hoạt động chuyên môn. Vì vậy TCM là đơn vị  cơ  sở  gắn bó với  người giáo viên giảng dạy.  Ở  đây diễn ra mọi hoạt động có liên quan đến  toàn bộ hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên. TCM cũng là nơi người  giáo viên có thể chia sẻ mọi tâm tư, nguyện vọng cũng như những vấn đề có   liên quan đến nghề nghiệp, đời sống vật chất và tinh thần của mình. Có thể  nói, hoạt động của TCM trong nhà trường là nhân tố  quan trọng  ảnh hưởng   trực tiếp đến chất lượng dạy học của các trường tiểu học hiện nay. Do đó,  quản lí hoạt động chuyên môn là nhiệm vụ  hàng đầu, là trọng tâm trong quá  2
  3. trình quản lí của nhà trường. Nâng cao chất lượng hoạt động của TCM trong  các nhà trường sẽ  phát huy tinh thần sáng tạo của giáo viên trong tập thể sư  phạm, tính đoàn kết nội  bộ, phát huy năng lực  điều hành hoạt  động của  TTCM, đồng thời tạo động lực thôi thúc giáo viên trong các TCM phát huy  nhiều sáng kiến, kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực giảng dạy và giáo dục.  Mặt khác, TCM còn có vai trò quan trọng trong việc góp phần bồi dưỡng đội  ngũ giáo viên tại chỗ  thông qua hoạt động dự  giờ, trao đổi rút kinh nghiệm   các tiết dạy, sinh hoạt chuyên đề, thao giảng, hội giảng để  nâng cao chất  lượng dạy và học của nhà trường. Những năm qua, ngành giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) cả  nước nói  chung, huyện nhà nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng bên  cạnh đó, vẫn còn những tồn tại, bất cập như  Kết luận số  51­KL/TW ngày  29/10/2012 Hội nghị lần thứ sáu khóa XI: “Công tác quy hoạch phát triển đội   ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa được quan tâm”, “Quản lý giáo  dục và đào tạo còn nhiều bất cập, thiếu dự báo nguồn nhân lực cho quá trình   công nghiệp  hóa, hiện đại hóa đất nước”, trong đó có vấn đề  quản lý hoạt  động tổ chuyên  môn. Vấn đề quản lí hoạt động của TCM ở trường tiểu học   sao cho có hiệu quả thiết thực để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy  và giáo dục trong các nhà trường chưa được các cấp quản lí của ngành giáo  dục tổng kết, rút kinh nghiệm. Đội ngũ tổ  trưởng chuyên môn cũng chưa  được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý TCM một cách có hệ  thống, chưa  có phương pháp quản lý điều hành thực sự  khoa học, thiếu tính đồng bộ,  chưa có sự  nhanh nhạy và quyết đoán trong việc cải tiến công tác điều hành  quản lý tổ  dẫn tới hiệu quả, chất lượng giáo dục còn chưa cao. Với nhận  thức đó, tôi chọn đề  tài: “Giải pháp quản lí hoạt động của tổ chuyên môn   trường tiểu học” để nghiên cứu. 3
  4. 1.2. Điểm mới của sáng kiến Đưa ra một số giải pháp quản lí hoạt động của TCM góp phần nâng cao  chất lượng giáo dục  ở  trường tiểu học, đáp ứng công cuộc đổi mới Giáo dục  phổ thông trong tình hình mới.  1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến “Giải pháp quản lí hoạt động của tổ chuyên môn trường   tiểu học” áp dụng được trong công tác quản lý của cán bộ quản lý ở  trường  tiểu họctôi đang công tác và có thể  áp dụng rộng rãi trong các trường có HS   tiểu học trong toàn huyện. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1.Thực trạng quản lí hoạt động của tổ chuyên môn trường tiểu  học” 2.1.1. Thực trạng hoạt động của tổ chuyên môn ở trường tiểu học  hiện nay 2.1.1.1. Cơ cấu tổ chuyên môn ở các trường tiểu học Điều lệ  trường tiểu học quy định, TCM  bao gồm GV, viên chức làm  công tác thư viện, thiết bị giáo dục. Mỗi tổ có ít nhất 3 thành viên. TCM có tổ  trưởng, nếu có từ 7 thành viên trở lên thì có một tổ phó. Hiện nay mỗi trường   tiểu học trong huyện từ 2 đến 3 tổ,  các tổ được ghép từ 2 hay 3 khối lớp, GV  bộ môn. Việc biên chế TCM trong nhà trường phụ thuộc vào cơ cấu và thành  phần GV các bộ môn.  2.1.1.2. Thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ chuyên môn   Qua nắm bắt kế hoạch hoạt động của TCM ở trường tiểu học tôi đang  công tác  về  việc tổ  chức các hoạt động chuyên môn trong nhà trường,  tôi  nhận thấy các TCM ở trường chủ yếu có các hoạt động cơ bản sau:   TTCM hàng tháng có lên kế  hoạch hoạt động chung cho tổ, tổ  chức  4
  5. sinh hoạt chuyên đề, thao giảng, dự  giờ, kiểm tra việc thực hiện kế  hoạch   giảng dạy, soạn giảng của GV và có chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao tay   nghề  cho GV qua dự  giờ  rút kinh nghiệm. TCM hoạt động căn cứ  vào kế  hoạch hoạt động chuyên môn, kế  hoạch thực hiện nhiệm vụ  năm học của  trường và các tiêu chí theo chỉ đạo của HT. Trong tổ chức thực hiện các hoạt động, số GV trẻ ít kinh nghiệm trong  việc nghiên cứu những điểm mới trong nội dung, chương trình sách giáo khoa  mới, đổi mới PPDH, sử  dụng trang thiết bị  dạy­học còn lúng túng... Vì vậy,  các TCM thực hiện các kế hoạch của tổ và các kế hoạch của nhà trường còn  hạn chế.    Theo quy định, TCM sinh hoạt định kỳ  2 tuần một lần và các buổi  sinh hoạt khác khi có nhu cầu, nội dung buổi sinh hoạt ph ải được chuẩn bị  chu đáo, nhưng thực tế có những nơi không thực hiện đầy đủ, cắt xén thời   gian, không đảm bảo chất lượng dẫn đến nội dung sinh hoạt không đảm  bảo, GV khi gặp khó khăn không được giúp đỡ kịp thời. Các văn bản chỉ đạo  không được tìm hiểu kĩ càng dẫn đến thực hiện không tốt,  ảnh hưởng hiệu  quả giảng dạy của GV và người chịu thiệt thòi chính là HS. Đặc biệt là nội   dung sinh hoạt  đơn điệu, (như  thực tập, dự  giờ, góp ý giờ  dạy…) nhàm  chán, GV không muốn bày tỏ ý kiến chủ quan của mình trong khi thảo luận.   Một  số  tổ  trưởng  không  đủ  khả   năng  để   điều  hành, chỉ   đạo hoạt  động  chuyên môn của tổ làm mất lòng tin của GV. Kết quả khảo sát nội dung sinh hoạt của TCM ở trường tôi đang  công tác đầu năm học . Đối tượng và kết quả khảo sát Nội dung sinh hoạt HT + PHT  TT+TP.CM GV (12 lượt) (12 lượt) (102 lượt) của TCM SL % SL % SL % 5
  6. 1. Thao giảng, dự giờ 9 75,0 10 83,3 84 82,4 2. Bàn về đổi mới PPDH 5 41,7 5 41,7 42 41,2 3.   Bàn   về   viết   sáng   kiến   kinh  4 33,3 4 33,3 26 25,5 nghiệm 4. Bàn về sử dụng TBDH 4 33,3 3 25,0 33 32,4 5.   Bàn   về   bồi   dưỡng   HS   năng  7 58,3 7 58,3 32 31,4 khiếu. 6. Bàn về phụ đạo HS yếu kém 5 41,7 5 41,7 34 33,3 Kết quả  khảo sát cho thấy, kế  hoạch sinh hoạt TCM được các HT,   PHT; TTCM, TPCM và GV đồng ý đánh giá là bàn về các nội dung như: thao   giảng, dự  giờ; đổi mới PPDH; bồi dưỡng HS năng khiếu, phụ  đạo HS yếu  kém và các nội dung khác. Nội dung về  hoạt động thao giảng dự  giờ  cũng   được nhận xét tương đối cao (từ  75,00 % đến 83,3%). Tuy nhiên các nội  dung: đổi mới PPDH chỉ đạt từ 41,2 % đến 41,7 %, sử dụng TBDH thấp hơn  từ 25,0% đến 33,3%; phụ đạo HS yếu kém từ 33,3 % đến 41,7% và viết sáng  kiến kinh nghiệm chỉ  có từ  25,0 % đến 33,3 %. Điều này cho thấy nội dung   sinh hoạt TCM chưa được TTCM đưa ra bàn bạc và thống nhất chọn một số  nội dung chính, thiết thực phục vụ  cho công tác giảng dạy ­ giáo dục. Điều   đó cho thấy một số  nội dung cần thiết trong sinh hoạt TCM trong giai đoạn  hiện nay chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức như  sử  dụng TBDH;  viết sáng kiến kinh nghiệm, đổi mới PPDH và phụ  đạo HS còn hạn chế  về  năng lực và phẩm chất.  2.1.1.3. Thực trạng thực hiện các loại hồ sơ sổ sách theo quy định của   nhà trường   Hồ  sơ  tổ  chuyên môn bao gồm: Kế  hoạch hoạt động TCM, biên bản  sinh hoạt chuyên môn, tường thuật giờ  dạy, phân phối chương trình, hồ  sơ  lưu các văn bản quản lý và chỉ  đạo chuyên môn được thực hiện đầy đủ  với   6
  7. các nội dung cơ bản, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể của năm học, từng tháng, từng  tuần, phân công chuyên môn và phân công công tác trong tổ. Tuy nhiên trong  sổ biên bản sinh hoạt chuyên môn chưa thể hiện được các nội dung về ý kiến   của các thành viên và giải đáp ý kiến, kết luận của TTCM trong cuộc họp.   Phân phối chương trình cập nhật ghi chú khi có thay đổi chưa kịp thời.  Hồ sơ cá nhân GV tương đối đầy đủ, 100% GV soạn bài bằng máy vi  tính. GV ghi chép và lập kế  hoạch giảng dạy tương đối đầy đủ. Tuy nhiên   việc dự giờ thăm lớp của GV chưa thường xuyên. Việc nhận xét đánh giá ­ tư  vấn ­ xếp loại giờ  dạy còn mang tính chung chung. Sổ  tích lũy chuyên môn  mới   chỉ  dừng  lại   ở   việc  ghi chép  các  chuyên  đề, tập  huấn, hội thảo về  chuyên môn; các nội dung sưu tầm, học tập và tích luỹ kinh nghiệm của bản  thân chưa được GV quan tâm.  2.1.1.4. Thực trạng xây dựng nề  nếp dạy ­ học của giáo viên và học   sinh trong tổ  ­ Hiện nay các nhà trường đã rất quan tâm đến việc xây dựng nề  nếp  dạy học của GV và học sinh. Bởi công việc này nó sẽ  quyết định đến chất  lượng giáo dục trong cả  một năm học và cả  một giai đoạn học tập của học  sinh. Các nhà quản lý chuyên môn đã có sự phân công công việc phù hợp với   khả năng, năng lực của từng GV; quản lý tốt việc thực hiện chương trình dạy   học theo phân phối chương trình SGK, sách GV theo chương trình học do Bộ  GD&&ĐT quy định; quản lý tốt việc soạn bài, điều chỉnh nội dung dạy học  theo quy định dạy học theo các vùng miền của Bộ  GD&&ĐT; chỉ  đạo và  quản lý  tốt  ngày giờ  công, việc thực hiện các nội quy, quy chế  của nhà   trường cũng như của ngành; quản lý và chỉ đạo tốt việc dạy học 2 buổi/ngày;  Việc sinh hoạt chuyên môn theo định kỳ đã được tiến hành 2 lần/ tháng  song thời gian, thời lượng, chất lượng chưa cao. Việc tham gia hội gi ảng,   7
  8. kiểm tra, bồi dưỡng GV của các tổ, việc tự học tập nâng cao trình độ chuyên   môn, nâng cao trình độ  Ngoại ngữ  của GV cũng như  việc  ứng dụng CNTT   trong dạy học của một số GV chưa tích cực.   2.1.1.5. Thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học  Ngay từ đầu năm học, HT nhà trường đã chỉ đạo cho các TCM học tập   lại những văn bản quy định về  hoạt động chuyên môn và để  tất cả  các giáo   viên trong nhà trường nắm vững những công việc cụ  thể của giáo viên; thực  hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy, giáo dục; soạn bài, chuẩn bị đồ dùng  dạy học theo quy định; kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh  theo thông tư  số  22/2016/TT­BGDĐT  ngày 22 tháng 9 năm 2016 ban hành kèm  theo  thông  tư   số  30/2014/TT­BGDĐT ngày  28  tháng  8  năm  2014  của  bộ  trưởng Bộ  GD&ĐT. Tuy nhiên khi đánh giá định kì kết quả  học tập, ranh   giới giữa mức hoàn thành tốt: “thực hiện tốt các yêu cầu học tập của môn  học hoặc hoạt động giáo dục” và Hoàn thành “thực hiện đượ c các yêu cầu  học tập của môn học hoặc hoạt động giáo dục” khá mơ  hồ. Để  đánh giá  chính xác đòi hỏi GV trong quá trình đánh giá thườ ng xuyên phải thu thập   nhiều minh chứng. Bên cạnh đó, kết quả  học tập của HS tiểu học  thườ ng  thiếu tính  ổn định, có thể  hôm nay các em hoàn thành tốt, đạt điểm 9 ­10   nhưng   ngày  mai   lại   không  hoàn   thành,   đạt   điểm  kém.   Còn   khi  đánh   giá  thườ ng xuyên, GV dùng lời nói chỉ  ra cho học sinh biết  đượ c chỗ  đúng,   chưa đúng và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở  hoặc sản phẩm học tập   của học sinh khi cần thi ết. Đối với GV dạy các môn văn hóa, điều này khá  phù hợp bởi cô có nhiều thời gian bên HS, số lượng HS chỉ là HS trong một   lớp nên có thể  nhớ  hết đặc điểm của từng em học sinh. Còn GV dạy các   môn chuyên có thể phải dạy đến hàng  trăm học sinh nếu chỉ ghi chép, nhận  xét khi cần thiết thì khi đánh giá định kì, liệu có nhớ đượ c từng học sinh để  8
  9. đánh giá được chính xác?  KT ­ ĐG hiệu quả  giảng dạy và giáo dục của GV trong tổ  thông qua  việc kiểm tra hàng tháng việc soạn, chấm chữa bài của GV. GV trước khi lên  lớp có đầy đủ  giáo án giảng dạy, thiết kế bài dạy chi tiết, cụ  thể  theo từng  phân môn. Tuy nhiên việc kí duyệt của TTCM chưa kịp thời, việc chấm bài,  nhận xét HS thường xuyên chưa được sâu sát. Trong các buổi sinh hoạt TCM,  các nhiệm vụ trọng tâm, nội dung cần trao đổi, kế  hoạch chung, các bài dạy  khó, tiết khó, những vấn đề  mới đều được đem ra bàn bạc để  thống nhất   cách dạy trong tổ. Song việc sinh hoạt TCM một số buổi ch ưa đảm bảo thời   gian, thời lượng, nội dung sơ sài, chưa thu hút được GV. 2.1.2. Thực trạng công tác quản lí hoạt động của tổ chuyên môn ở  trường tiểu học. 2.1.2.1 Thực trạng nhận thức của cán bộ  quản lý và giáo viên về  vai   trò, vị trí của tổ chuyên môn ở trường tiểu học Công tác sinh hoạt chuyên môn thường xuyên của TCM đã được ban   giám hiệu các nhà trường quan tâm, chỉ  đạo theo tinh thần tự  chủ, tự  chịu   trách nhiệm cho các TCM. Mọi quan điểm chỉ  đạo của cấp trên đều được  chuyển hóa thành các nghị  quyết chuyên môn và các việc làm cụ  thể. Tuy  nhiên, nhận thức của một bộ  phận giáo viên chưa sâu sắc, chưa tích cực về  vấn đề này. Họ  còn coi nhẹ các giờ  sinh hoạt trao đổi chuyên môn ở  cấp tổ,  còn dựa nhiều vào sự  chỉ  đạo trực tiếp của ban giám hiệu, chưa phát huy  được tính tư  duy sáng tạo. Chất lượng SHCM  ở cấp tổ  chưa phát huy được   hiệu quả  theo đúng tiềm năng thực tế  vốn có của nó. Nhiều GV còn mang  nặng tư  tưởng các buổi SHCM là theo quy định bắt buộc của ngành, của   trường chứ chưa nhận thấy được đây là quyền lợi chính đáng của người GV   mà họ  đang được hưởng. Chính vì thế  mà vai trò, vị  trí của TCM  ở  trường   9
  10. tiểu học chưa phát huy có hiệu quả. 2.1.2.2. Thực trạng nội dung quản lý hoạt động của tổ  chuyên môn  ở   trường tiểu học. ­ Thực trạng công tác kế hoạch hoạt động của tổ chuyên môn Qua khảo sát tìm hiểu chúng tôi thấy hiện nay HT  ở trường ti ểu h ọc   đang sử  dụng một số  giải pháp nhằm quản lí các loại kế  hoạch của TCM   là: + HT quản lí công tác kế hoạch hoạt động TCM. + HT quản lí nội dung sinh hoạt TCM.  + HT uỷ quyền cho TTCM ký duyệt giáo án của GV. + Quản lí việc thực hiện nội dung, chương trình dạy học của GV. + HT dự giờ đột xuất GV và kiểm tra chất lượng HS. + HT dự giờ đột xuất GV và kiểm tra chất lượng HS.  + Quản lí công tác kiểm tra đánh giá và thanh tra hoạt động sư  phạm   nhà giáo. + HT trực tiếp quản lí công tác tự học, tự bồi dưỡng của GV. + HT quản lí việc kiểm tra đánh giá HS của các GV trong TCM. + Quản lí công tác quản lí bồi dưỡng, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp  vụ và viết sáng kiến kinh nghiệm.  Hoạt động này được thực hiện ngay từ  đầu năm học, có thể  HT trực   tiếp kiểm tra hoặc giao cho PHT phụ  trách chuyên môn kiểm tra. Việc xây  dựng các kế  hoạch hoạt động của tổ  phải căn cứ  vào kế  hoạch hoạt động  của Nhà trường và phải được các cán bộ, GV bàn bạc thống nhất trong Hội   nghị cán bộ viên chức đầu năm học.  ­ Thực trạng tổ chức hoạt động của tổ chuyên môn 10
  11. Việc   thực   hiện   nội   dung,   chương   trình   môn   học   đúng   theo   khung  chương trình chuẩn của Bộ  GD&ĐT là quy định bắt buộc đối với mỗi GV  trong   quá   trình   dạy   học.   Sau   khi   có   khung   chương   trình   chuẩn   của   Bộ  GD&ĐT các trường tự soạn phân phối chương trình theo chuẩn kiến thức kỹ  năng. Các nhà trường thực hiện công tác này phải được kiểm tra thường  xuyên. Thực tế  ở trường tiểu học, HT kiểm tra đột xuất hoặc phân công cho  Phó HT phụ trách theo kế hoạch chung của toàn trường. TTCM trực tiếp chỉ  đạo GV trong tổ thực hiện các quy định chuyên môn nhưng hầu như  ít kiểm   tra và quan tâm đến công tác này một cách thường xuyên. Việc thực hiện chuyên môn đúng theo khung chương trình chuẩn của  Bộ  GD&ĐT  ở  mức độ  tốt trung bình chỉ  mới đạt 63,3% và khá 23,7%; việc   thực hiện chuyên môn đúng theo kế  hoạch của tổ   ở  mức độ  tốt chỉ  mới đạt  58,44%, một số ý kiến cho rằng còn 1,86%% GV chưa đạt yêu cầu ở quy định  này, trong đó các ý kiến của BGH và các TTCM, TPCM đánh giá GV chưa đạt  yêu cầu ở quy định này nhiều hơn. Việc thực hiện chuyên môn theo kế hoạch  giảng dạy của cá nhân được thực hiện  ở  mức độ  tốt cao hơn (TB: 63,7%).   Như vậy, kế  hoạch của TCM chưa được GV quan tâm thực hiện, một phần   do sự  thiếu kiểm tra của BGH và các quy định để  đánh giá thi đua và các cơ  chế khác để yêu cầu GV thực hiện có hiệu quản hơn. Qua đó cho thấy vai trò  của TCM chưa được quan tâm đúng mức. ­ Thực trạng chỉ đạo các hoạt động của tổ chuyên môn   BGH trường tiểu học đoàn kết, nhất trí cao trong các quan điểm chỉ  đạo tổ  chức SHCM  ở  các khối, TCM của nhà trường. Hoạt động của TCM  gồm nhiều nội dung, nó quyết định cho sự thành công và hoàn thành nhiệm vụ  năm học. Một số HT quản lí hoạt động của TCM thông qua TTCM, số  khác   thì giao cho PHT trực tiếp quản lí và báo cáo cho HT trong các buổi họp giao  11
  12. ban.  ­ Thực trạng kiểm tra, đánh giá cá hoạt động của tổ chuyên môn Kiểm tra, đánh giá là một trong những chức năng quan trọng của quản   lí, đặc biệt trong quản lí hoạt động chuyên môn thì việc KT ­ ĐG của HT có ý   nghĩa hết sức quan trọng. KT ­ ĐG là biện pháp để đánh giá chất lượng giảng   dạy của GV và chất lượng học tập của HS. Qua đó kịp thời chỉ đạo các hoạt   động giáo dục, phương pháp dạy học giáo dục, hình thức tổ  chức dạy học,  phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo dục cao nhất. Những năm qua tôi đã tiến hành chỉ  đạo kiểm tra, đánh giá hoạt động  chuyên môn của TCM, của GV với nhiều nội dung để  nâng cao chất lượng  hoạt động chuyên môn trong nhà trường.  ­ Thực trạng cơ  sở  vật chất phục vụ  hoạt động tổ  chuyên môn  ở  các   trường tiểu học. Hiện nay hầu hết nhà trường đã có đủ phòng học, phòng hành chính và  các phòng chức năng… Các hạng mục khác như  hàng rào bao quanh, cổng   trường, các khu vệ  sinh cũng đã hoàn thành, tạo ra một không gian liên hoàn   tương đối thuận lợi cho các hoạt động dạy và học cũng như  các hoạt động  giáo dục khác. Hệ  thống các trường học thoáng mát, sạch sẽ, môi trường  xanh ­ sạch ­ đẹp. Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhu cầu của đổi mới, nâng  cao chất lượng dạy và học hiện nay thì các phòng thực hành thiếu trang thiết  bị, không đạt chuẩn, phòng học năng khiếu, nhà đa chức năng chưa có làm  ảnh hưởng không nhỏ  đến các hoạt động dạy và học, các hoạt động ngoài  giờ  lên lớp. Nhà  trường đã phải cố  gắng sắp xếp một cách tối  ưu nhất để  làm sao sử  dụng các phòng hiện có một cách hiệu quả, tránh tình trạng lãng   phí và phát huy tối đa CSVC hiện có. Công tác quản lí CSVC nói chung,  TBDH nói riêng những năm gần đây đã được lãnh đạo các nhà trường quan   12
  13. tâm hơn trước.  Hiện nay nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, tiếp tục hưởng  ứng  PPDH lấy HS làm trung tâm, thực hiện tốt đường lối chủ  trương của Đảng   và Nhà nước, học phải đi đôi với hành, lí luận phải gắn liền với thực tiễn”,  một vấn đề cấp thiết đặt ra cho lãnh đạo nhà trường là phải xây dựng CSVC,  thiết bị  đủ  số  lượng, đảm bảo chất lượng; đề  ra một số  biện pháp quản lí  TBDH hữu hiệu để công tác dạy và học của trường thực sự đi vào chiều sâu,  có hiệu quả  và thiết thực, (đặc biệt trong quá trình đổi mới GDPT chương   trình sách giáo khoa lớp 1­5 mới bắt đầu từ  năm học 2020 ­ 2021), góp phần   đưa giáo dục của nhà trường lên tầm cao mới, góp phần vào công cuộc đổi  mới đất nước, đưa đất nước từng bước đi lên theo xu hướng công nghiệp   hoá, hiện đại hoá.  Như vậy, với những thực trạng  nêu trên, cần thiết phải có những giải  pháp quản lí hoạt động của TCM  ở  trường tiểu học nhằm nâng cao chất   lượng dạy và học đáp  ứng với yêu cầu của đổi mới giáo dục tiểu học hiện   nay. 13
  14. 2.2. Một số giải pháp quản lí hoạt động tổ chuyên môn ở trường tiểu  học.  2.2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí và giáo viên về vị trí, vai   trò, tầm quan trọng của tổ chuyên môn Quản lí hoạt động TCM là một trong những nhiệm vụ  quản lí nhà  trường của HT. Đưa các TCM đi vào hoạt động đúng với những quy định của  Điều lệ trường tiểu học do Bộ GD&ĐT ban hành không phải là chuyện khó.  Dường như không một HT nào lại không ý thức được rằng: TCM là một bộ  phận cấu thành trong bộ  máy quản lí của nhà trường, có chức năng giúp HT   điều hành các hoạt động nghiệp vụ  chuyên môn liên quan đến dạy và học.  TCM trực tiếp quản lí GV theo nhiệm vụ quy định, là đầu mối để HT quản lí  nhiều mặt, trong đó, chủ yếu vẫn là hoạt động dạy học trong nhà trường. Tuy  nhiên, nhận thức đầy đủ  những quy định như  trên tuy đúng, nhưng vẫn mới  chỉ  dừng lại  ở khuôn mẫu nặng tính công thức, được định chế  hoá trong các  văn bản của cấp trên, chưa thể  hiện được sự  năng động, sáng tạo cũng như  chưa in được dấu ấn riêng trong năng lực quản lí của người lãnh đạo. Muốn  nâng cao chất lượng hoạt động của các TCM trong nhà trường thì CBQL nói  riêng và GV nói chung phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của đơn vị này.   Sự nhận thức đó, chung quy thể hiện như sau: Trước hết, nếu mỗi trường học được xem như một đơn vị sản xuất, thì  mỗi TCM là một "đội sản xuất" trực tiếp làm ra sản phẩm đặc thù: sản phẩm   giáo dục. Cũng như nhiều hoạt động khác trong xã hội, giáo dục phải là hoạt   động có tổ  chức, có bộ  máy, mỗi đơn vị  trong bộ  máy giữ  những chức năng   nhất định, không thể  thay thế  cho nhau. HT đương nhiên là giữ  vai trò đầu   tàu, là "vị  chỉ  huy" tối cao trong nhà trường, đề  ra những quyết sách để  nhà   trường có định hướng phát triển trước mắt cũng như  lâu dài. Các bộ  phận   14
  15. trong trường như  tổ  chức Đảng, Đội TNTP HCM, Công đoàn,... có những  chức năng khác nhau, giúp cho nhà trường hoạt động đúng hướng, có hiệu  quả. Thế  nhưng, xét cho cùng, những tổ  chức  ấy không trực tiếp tạo ra sản  phẩm giáo dục. Nhìn từ khía cạnh này mới thấy TCM có vai trò, vị trí như thế  nào trong cơ cấu tổ chức của nhà trường.  Vì kiến thức khoa học mà HS tiểu học phải tiếp thu được trong quá  trình học tập được cụ  thể  hoá  ở  các môn học: Toán, Tiếng việt, Khoa học,  Lịch sử  & địa lý, Thủ  công (Kỹ  thuật), TN&XH, Đạo đức, Âm nhạc, Mỹ  thuật, Thể  dục và các môn năng khiếu (Tiếng Anh ­ Tin học). Mỗi môn học   có những nét đặc thù về nội dung tri thức, về phương pháp mà chỉ  có những  thành viên trong TCM mới được trang bị đầy đủ. Và cũng chỉ họ  mới có khả  năng giải quyết các vấn đề  nảy sinh trong quá trình thực hiện chương trình,  SGK của môn học. Để  quản lí TCM, HT vừa phải rất sâu sát hoạt động của từng tổ, vừa  phải tôn trọng đặc thù về  chuyên môn của các tổ. Mỗi HT đều từng là GV,   từng được đào tạo về các môn học cụ thể trong các trường Sư phạm. Có thể,  trước đây, trong tư  cách một GV, HT đã đạt những thành tích về  dạy học  ở  một môn nào đó. Nhưng khi đảm nhiệm công việc quản lí toàn diện một  trường học, HT phải luôn biết tôn trọng những yếu tố  cá biệt  ở  từng TCM   trong trường. Thành tích về  chuyên môn và giáo dục của trường học phải là  kết quả của tất cả các tổ trong nhà trường. Thứ  hai, bản chất hoạt động của TCM là hoạt động nhóm ­ một vấn  đề được nói đến nhiều trong khoa học và nghệ  thuật quản lí. Cho nên trước  một vấn đề, mỗi người sẽ  có một cách quan sát, đánh giá khác nhau. Ý kiến   của cá nhân có thể  đúng, nhưng chưa chắc đã đủ. Cùng nhau góp sức giải   quyết công việc, sự thành công sẽ đảm bảo chắc chắn hơn. 15
  16. Một tập thể  có tính gắn kết cao hơn khi được cấu trúc hợp lý. Do đó,  mối liên hệ giữa các thành viên cũng trở nên gần gũi hơn. Một nghiên cứu của  Sundstrom từ  năm 1960 đã chỉ  ra: “Nếu cấu trúc của tập thể  cho phép các  thành viên làm việc cạnh nhau, tập thể đó sẽ đạt hiệu suất cao hơn nhiều so   với một tập thể được cấu trúc lỏng lẻo và ít tiếp xúc.”  Thứ  ba, hiệu quả  hoạt động của TCM quyết định hiệu quả  giáo dục  của nhà trường.  Điều 3 ­ Điều lệ trường Tiểu học quy định: Trường Tiểu học có những  nhiệm vụ và quyền hạn:   1. Tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng   theo mục tiêu, chương trình giáo dục phổ  thông cấp Tiểu học do Bộ  trưởng  Bộ GD&ĐT tạo ban hành.  2. Huy động trẻ em đi học đúng độ  tuổi, vận động trẻ  em khuyết tật,   trẻ em đã bỏ  học đến trường, thực hiện phổ  cập giáo dục và chống mù chữ  trong cộng đồng. Nhận bảo trợ  và giúp các cơ  quan có thẩm quyền quản lí  các hoạt động giáo dục của các cơ  sở  giáo dục khác thực hiện chương trình  giáo dục tiểu học theo sự phân công của cấp có thẩm quyền. Tổ  chức kiểm   tra và công nhận hoàn thành chương trình tiểu học cho HS trong nhà trường và   trẻ em trong địa bàn trường được phân công phụ trách.  3. Xây dựng, phát triển nhà trường theo các quy định của Bộ  GD&ĐT  và nhiệm vụ phát triển giáo dục của địa phương.  4. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục.  5. Quản lí cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh.  6. Quản lí, sử  dụng đất đai, cơ  sở  vật chất, trang thiết bị và tài chính  theo quy định của pháp luật.  7. Phối hợp với gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực   16
  17. hiện hoạt động giáo dục.  8. Tổ  chức cho cán bộ  quản lí, giáo viên, nhân viên và học sinh tham  gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng.  9. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp  luật.  Với 9 nhiệm vụ được qui định đối với trường tiểu học, nhiệm vụ “Tổ  chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng theo mục tiêu,   chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ trưởng Bộ  GD&ĐT ban  hành” được đặt ở vị trí thứ nhất. Chất lượng một trường tiểu học được đánh   giá bởi nhiều chỉ số, trong đó, chỉ số về chất lượng dạy học có tính chất quyết  định. Không thể không thấy rằng, tính chất "đầu tàu" của hoạt động dạy học  trong tổng thể  các hoạt động giáo dục của nhà trường được đảm bảo trước  hết bởi chất lượng của TCM. Có nhận thức rõ ràng điều đó, HT mới có những  tìm tòi, sáng tạo trong quản lí hoạt động của các TCM trong nhà trường. Từ  phân tích trên đây cho thấy, nhận thức của HT về tầm quan trọng   của TCM là yếu tố  có tính chất then chốt. Các văn bản được ban hành dù là  kết quả  của sự  nghiên cứu rất kĩ lưỡng của các chuyên gia, thì đó cũng mới   chỉ là công thức chung, mang tính gợi dẫn. Muốn có giải pháp tích cực, năng   động trong quản lí, HT phải thấu suốt vấn đề, phải làm sao để  công thức  chung trở thành tư tưởng riêng cụ thể, sống động của bản thân. Tổ chức thực hiện giải pháp  Điều 20 ­ Điều lệ  trường tiểu học đã qui định rõ nhiệm vụ  và quyền  hạn của HT, trong đó có những điểm liên quan trực tiếp đến việc quản lí của  HT đối với tổ chuyên môn, thể hiện ở các mục: ­ Mục a) Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế  hoạch và  tổ  chức thực hiện kế  hoạch dạy học, giáo dục; báo cáo, đánh giá kết quả  17
  18. thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền; ­ Mục  c) Phân công, quản lí, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình  tuyển dụng, thuyên chuyển; khen thưởng, thi hành kỉ  luật đối với giáo viên,  nhân viên theo quy định. Nếu thuần tuý dựa vào những điều quy định trong văn bản nêu trên, HT   không mong tìm thấy "cẩm nang" cho công việc quản lí các mặt của mình,  chưa nói đến các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các TCM.  Nhiều lắm, HT chỉ mới tránh được các sai phạm và thật khó có được những  thành công nổi bật. Cho nên, HT thực sự  năng động phải là người biết tự  trang bị  thêm nhiều tri thức lý luận về  quản lí, cập nhật thông tin mới mẻ,   hiện đại, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đối với quản lí TCM,   trên cơ  sở  nhận thức tầm quan trọng của đơn vị  này, HT phải có biện pháp  quản lí thiết thực, bao gồm: ­   Phân  công  cụ   thể  nội   dung  phần  việc   đối  với  Phó   HT  phụ  trách   chuyên môn. Phải làm sao để Phó HT phụ trách chuyên môn thực sự là "cánh  tay nối dài" của HT để  thực thi có hiệu quả  kế  hoạch đề  ra. Trong sự  phối  hợp công việc giữa HT và PHT, có sự  phân công rõ ràng, dung hoà các chủ  kiến, các mâu thuẫn, tìm sự đồng thuận để tạo sức mạnh tổng hợp. ­ Tạo điều kiện để TTCM phát huy cao nhất năng lực, vai trò của mình  trong việc quản lí hoạt động của tổ mình.  ­ Đáp  ứng  ở  mức cao nhất trong hoàn cảnh cụ  thể  của nhà trường   những yêu cầu về điều kiện hoạt động cho các TCM. ­ Phát hiện và xử lý kịp thời những bất cập nảy sinh ở các TCM. ­ Thường xuyên kiểm tra, đánh giá đúng thực chất về  chất lượng của  các TCM. Tránh đánh giá chung chung, hình thức, chiếu lệ  về  các cá nhân  cũng như về các TCM. 18
  19. 2.2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lí cho đội ngũ Tổ  trưởng   chuyên môn Nhận thức của HT về tầm quan trọng của TCM phải đi liền với nhận  thức về  vai trò của TTCM. Một TCM có chất lượng tốt được quyết định  không chỉ bởi các thành viên có trình độ nghiệp vụ cao, đồng đều, mà còn bởi  người đứng đầu có tố  chất "thợ  cả", vừa hoàn thành xuất sắc những nhiệm  vụ  chuyên môn của cá nhân, vừa có tầm  ảnh hưởng sâu rộng, tích cực đến  các thành viên trong tổ. Từ   đó có  thể  thấy, khâu lựa chọn và bồi dưỡng  TTCM có ý nghĩa như thế nào đối với hiệu quả hoạt động của tổ.  TTCM là những người quản lý trong phạm vi hẹp vì vậy tôi luôn biết   phát huy năng lực của các tổ  trưởng. Họ  như  cánh tay nối dài của cán bộ  quản lý nhà trường. Một tổ  trưởng giỏi là một tổ  trưởng cũng có năng lực   như một người quản lý. Đó là:  ­ Năng lực lập kế hoạch.  ­ Năng lực tổ chức, điều hành.  ­ Năng lực chỉ đạo.  ­ Năng lực kiểm tra, đánh giá. Vì vậy để các tổ trưởng phát huy được vai trò, thực thi tốt nhiệm vụ cần   phải quan tâm đến việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, chỉ  đạo… Biện pháp bồi dưỡng là: Yêu cầu tổ trưởng nắm vững các văn bản chỉ  đạo, nắm vững chương trình, chuẩn kiến thức kĩ năng cơ  bản các môn học  của các lớp thuộc khối lớp trong tổ phụ trách. Các văn bản về chỉ đạo chuyên   môn và các hoạt động giáo dục HS nhà trường cần được chuyển đến tận tay  của tổ  trưởng thông qua các phương tiện khác nhau, yêu cầu họ  nghiên cứu  kỹ  và đề  xuất giải pháp hoặc có thể  nêu những khó khăn khi thực hiện để  BGH nhà trường tháo gỡ. 19
  20. Thông qua các buổi hội ý chuyên môn, họp lãnh đạo nhà trường hay góp  ý bổ  sung khi duyệt kế  hoạch tổ, nhà trường chú trọng đến việc bồi dưỡng   các kiến thức, kĩ năng xây dựng và tổ  chức thực hiện kế  hoạch tổ  theo năm  học, học kỳ, tháng, tuần cho từng tổ trưởng. Bồi dưỡng về nghiệp vụ kiểm tra nội bộ bằng cách điều các tổ trưởng   tham gia kiểm tra toàn diện GV, kiểm tra một chuyên đề  nhà trường thường  yêu cầu tổ trưởng kiểm tra trước các thành viên trong tổ  mình như: kiểm tra   hồ sơ sổ sách, việc thực hiện chương trình, TKB; kiểm tra hiệu quả giáo dục  của các thành viên trong tổ; kiểm tra việc sử dụng sách, thiết bị dạy học của   các thành viên trong tổ. Bồi dưỡng cho tổ trưởng kĩ năng đánh giá GV theo Chuẩn nghề nghiệp  GV Phổ thông theo Thông tư 20/2018/BGD­ĐT ngày 22/8/2018. Bồi dưỡng những kĩ năng tổ  chức, sắp xếp nội dung sinh hoạt TCM   cho cả  năm học, cho từng buổi cụ  thể. Bồi dưỡng năng lực tổ  chức, điều  hành một buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ  chức  các chuyên đề, đặc biệt là tổ  chức sinh hoạt theo nghiên cứu bài học hay tổ  chức   một cuộc thi trong tổ;  một số  kĩ năng ra đề  kiểm tra cho HS trong các đợt kiểm tra định kỳ, phân   công nhiệm vụ  cho các thành viên trong tổ  đúng người, đúng việc, kiểm tra,   đôn đốc để điều chỉnh và giúp đỡ GV một cách kịp thời.  Muốn lựa chọn được TTCM giỏi HT phải căn cứ vào hệ thống tiêu chí  cơ bản sau đây: Phải đạt các tiêu chuẩn theo CV hướng dẫn của PGD­TCCB về  việc   hướng dẫn công tác bổ  nhiệm tổ  trưởng tổ phó chuyên môn trong các cơ  sở   giáo dục trực thuộc PGD. Trong đó:  TTCM phải là người có khả năng xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ.  Đầu mỗi năm học, kế  hoạch chung của nhà trường do HT dự  thảo, được  thông qua và nhận sự  góp ý xây dựng, hoàn thiện của tổ  chức Đảng, Hội  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2