intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hệ thống bài tập phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

13
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Hệ thống bài tập phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 5" được nghiên cứu với mục tiêu nhằm tìm hiểu thực tế về việc dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, nhằm tích lũy thêm những kiến thức, kĩ năng khi dạy môn Tiếng Việt 5 cho học sinh; Đề xuất một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh góp phần tạo tiền đề cho sự phát triển trí tuệ và phẩm chất của học sinh và nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 5.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hệ thống bài tập phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 5

  1. 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Người Việt Nam nói Tiếng Việt và học Tiếng Việt, nhưng hiểu cho hết cái hay, cái đúng, cái đẹp của Tiếng Việt còn là một vấn đề để chúng ta phải bàn nhiều, phải nghiên cứu, học hỏi mới đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay: “Giáo dục Tiểu học là nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất cho trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu để cho sự phát triển toàn diện về nhân cách con người Xã hội chủ nghĩa". Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Như thế việc dạy Tiếng Việt hết sức quan trọng giúp học sinh có kỹ năng giao tiếp tốt, để từ đó các em thêm yêu quý và biết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Nội dung nghĩa của từ trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, được biên soạn có hệ thống nằm trong phân môn Luyện từ và câu. Trong đó, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là các loại từ quan trọng, được xem như là “hiện tượng đặc thù” của ngôn ngữ Tiếng Việt. Như vậy việc nhận diện hai loại từ này đối với người lớn đã khó, với các em lớp 5 lại càng khó rất nhiều. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy học sinh (kể cả học sinh có năng khiếu) đều rất khó khăn, hay nhầm lẫn khi xác định nghĩa để phân biệt từ, đặc biệt là những từ xuất hiện trong văn cảnh. Xuất phát từ điều đó, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm để hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Dưới đây là những biện pháp tôi đã áp dụng đối với học sinh lớp 5 trường tôi, xin được mạnh dạn đưa ra để trao đổi cùng đồng nghiệp dưới dạng một sáng kiến kinh nghiệm có tựa đề: “ Hệ thống bài tập phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 5.” 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Tìm hiểu thực tế về việc dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, nhằm tích lũy thêm những kiến thức, kĩ năng khi dạy môn Tiếng Việt 5 cho học sinh. - Đề xuất một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh góp phần tạo tiền đề cho sự phát triển trí tuệ và phẩm chất của học sinh và nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 5. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp, cách thức phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lí luận. - Phương pháp điều tra thực tiễn. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
  2. . Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt đó chính là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, trong đó giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt. Như vậy, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt được giáo viên hết sức quan tâm. Ngôn ngữ Tiếng Việt thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ. Để có thể giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cá nhân tôi tập trung hướng dẫn học sinh phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa. Nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa được xem là một hiện tượng độc đáo của tiếng Việt, nó góp phần làm cho Tiếng Việt thêm phong phú và mang nét riêng mà không thể lẫn với một thứ ngôn ngữ nào khác. Nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong (SGK Tiếng Việt 5 tập1) nêu trong khi dạy và học về từ nhiều nghĩa, tuy nhiên khi xác định và phân biệt trong văn bản cụ thể thì thì có nhiều trường hợp, giáo viên và học sinh vẫn còn nhầm lẫn. Vì thế, cần nắm vững những quy luật cơ bản trong Tiếng Việt để dễ dàng hơn trong cách phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. 2.2. Thực trạng vấn đề 2.2.1.Thực trạng chung: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5, tôi nhận thấy việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa môn Tiếng Việt cho học sinh ở Tiểu học còn gặp một số khó khăn: - Do một số giáo viên chủ quan, nhận thấy bài dạy ngắn gọn, ít bài tập nên dễ dạy. Một số khác nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp chưa kĩ càng nên việc sử dụng phương pháp, hình thức và kỹ thuật dạy học chưa linh hoạt, chưa sáng tạo dẫn đến hiệu quả. - Đây là mảng kiến thức khó trong chương trình Tiếng Việt, khó về kiến thức nên một số giáo viên nghĩ rằng học sinh sẽ nắm bắt tiếp ở các lớp trên. - Trong quá trình dạy học phần trên mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học là rất ít nên giáo viên chưa có thể lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đa dạng bài được. Vì thế sau các bài học đó học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách trừu tượng. Trong quá trình giảng dạy nội dung này, một số giáo viên còn gặp khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể trong thực tế đời sống để minh hoạ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. - Hầu hết học sinh học xong bài học này chỉ nắm bắt kiến thức về lí thuyết một cách thụ động đã có sẵn ở sách giáo khoa. - Do vốn từ nghèo nàn, chưa hiểu rõ bản chất nghĩa của từ. Do đó các em chỉ phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa qua những ví dụ mà giáo viên đưa ra minh họa. - Một số em đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa nhưng lại chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu. 2
  3. Trong thực tế cho thấy, học sinh khi làm các bài tập về từ đồng âm nhanh hơn và ít sai hơn so với khi làm bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể do từ nhiều nghĩa trừu tượng hơnể phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. 2.2.2.Thực trạng Để kiểm tra khả năng phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa Nôi dung đề kiểm tra: Bài 1: Cặp từ ngữ nào dưới đây có từ đồng âm: a, xương sườn- sườn núi b, vách đá - đá bóng c, mắt cá - mắt lưới d, cái miệng – miệng hố Bài 2: Dòng nào dưới đây gồm các từ nhiều nghĩa a, ăn cơm – ăn ảnh – tàu ăn hàng b, đỏ tươi- đỏ thắm – đỏ chót c, thơ thẩn - thơ ca - thơ ngây. Bài 3: những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau Bay: - Bác thợ nề cầm bay để trát tường. - Đàn cò đang bay ở trên trời. - Đạn bay vèo vèo. 2.3. Các biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất. - Tôi nghiên cứu kĩ lưỡng bài dạy, lựa chọn nội dung phù hợp với từng đối tượng học sinh nhưng phải đạt theo yêu cầu của chuẩn kiến thức, năng lự và phẩm chất cho học sinh. - Tôi lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo phù hợp với từng hoạt động của bài dạy. - Tôi lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy. Đồng thời dự kiến các tình huống và cách xử lí tình huống trong dạy học. Tôi tự đặt câu hỏi: Sau mỗi tiết học bài mới học sinh làm được những gì? Các em biết vận dụng kiến thức đã học để phát triển những năng lực, phẩm chất nào? Ví dụ: Bài dạy: Từ Đồng âm –Tuần 5, Tiếng Việt 5/ tập 1. ( Giáo án và tiến trình dạy học cụ thể ở phần phụ lục) + Làm bài tập, phân tích yếu tố ngữ pháp bài đề cập đến. Cụ thể là giải nghĩa từ, đối chiếu nghĩa và hình thức ngữ âm các từ làm nổi bật hiện tượng ngữ pháp bài nói đến. +Nhận xét, rút ra tiểu kết, từ các tiểu kết, đi đến kết luận. +HS nhắc lại, GV đưa ghi nhớ lên bảng. 3
  4. + HS lấy ví dụ làm rõ thêm phần ghi nhớ. + Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập để củng cố lí thuyết vừa học. + Bước củng cố bài cần làm rõ để học sinh biết cách phân biệt từ đồng âm - từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc – nghĩa chuyển. +Chú ý tìm cách rút ngắn thời gian nhận xét, tăng thời gian thực hành. +Qua kiến thức hình thành năng lực, phẩm chất cần thiết cho học sinh. Qua thực tế, tiết học đã diễn ra sôi nổi, hứng thú. Nhờ có hình ảnh trực quan học sinh tiếp thu và cảm nhận rõ ràng hơn về từ đồng âm, khắc sâu được kiến thức cho học sinh, phát triển tốt năng lực hợp tác và tự giải quyết vấn đề, phẩm chất trung thực, chăm học cho học sinh . - Đối với tiết dạy về bài: Từ nhiều nghĩa giáo viên cũng cần hết sức quan tâm đến cách thức, phương pháp tổ chức cho học sinh thực sự được hoạt động để từ đó giúp các em nắm được kiến thức, phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. Như vậy, việc dạy học hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy Luyện từ và câu và vận dụng một số phương pháp, hình thức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. - Riêng đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để có thể giúp học sinh củng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu và cuối cùng xác định đúng nghĩa của từ. Biện pháp 2: Giúp học sinh so sánh rút ra điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. * Sự khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa 4
  5. Từ đồng âm Từ nhiều nghĩa - Là hai hoặc nhiều từ có cùng hình - Là một từ nhưng có thể có nhiều thức ngữ âm. (hòn) đá và đá (bóng) nghĩa: (hòn) đá và (nước) đá. - Các nghĩa của từ hoàn toàn khác - Các nghĩa của từ giữa chúng có mối biệt nhau chúng không có bất cứ liên quan với nhau. mối liên hệ gì: Ví dụ: (hòn) đá là chỉ chất rắn có sẵn - Ví dụ: hòn (đá) chỉ chất rắn có trong trong tự nhiên, thường thành tảng, tự nhiên, thường thành tảng, khối vật thành hòn rất cứng. Còn đá (bóng) cứng. Còn (nước) đá chỉ loại nước chỉ hành động dùng chân tác động nhưng đông cứng lại thành tảng mạnh vào một vật nhằm đưa vật đó giống như đá. ra xa hoặc làm tổn thương đối tượng tác động vào.. - Không thể giải thích nghĩa của từ - Chúng do cơ chế chuyển nghĩa tạo được bằng cơ chế chuyển nghĩa. thành. VD: Mũi dọc dừa (chỉ bộ phận trên cơ thể người, có hình dạng nhô ra phía trước, đẹp) / mũi thuyền/ mũi kim/ tiêm ba mũi. Biện pháp 3: Xây dựng hệ thống bài tập nhằm củng cố và khắc sâu kiến thức cho học sinh về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong các tiết luyện, tiết tự học. A. Về từ đồng âm: 1. Củng cố về khái niệm: Thế nào là từ đồng âm? Ví dụ: cái bàn (1), bàn (2)bạc Từ “bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” nếu xét về hình thức ngữ âm thì chúng hoàn toàn giống nhau. Còn xét về nghĩa thì chúng laị hoàn toàn khác nhau: Trong khi “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc hoặc làm việc, còn “bàn” (2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến. Hơn nữa, trong các tiết tự học, ôn luyện tôi đã mở rộng cung cấp thêm kiến thức về từ đồng âm cho học sinh biết như: Ví dụ: Kiến bò (1)đĩa thịt bò(2). Bò(1) trong kiến bò là chỉ hoạt động của con kiến, còn bò(2) trong thịt bò là danh từ chỉ con bò "bò" là từ đồng âm. Ví dụ: Bác(1) bác(2) trứng. Tôi(1) tôi(2) vôi. Bác(1) là một từ xưng hô, bác(2) là hoạt động làm cho chín thức ăn bằng cách đun nhỏ lửa và quấy thức ăn cho đến khi sền sệt, Vậy chúng là từ đồng âm. 5
  6. Tôi(1) là một từ xưng hô, tôi(2) là hoạt động đổ vôi sống vào nước để làm cho tan ra. Từ "tôi" là từ đồng âm. - Từ đồng âm hình thành theo nhiều cơ chế: + Đồng âm ngẫu nhiên: Ví dụ: Chim bay, tụi bay,...( Các từ thuần Việt) + Hoặc sự vật A được đặt tên ngẫu nhiên trong các từ Hán Việt. Ví dụ: Đại biểu, đại thụ + Đồng âm giữa vay mượn với sẵn có. Ví dụ: nốt la, con la, la mắng. + Đồng âm do vay mượn các từ nước ngoài có âm trùng với các từ vốn có trong nước như cua (con cua) và cua (khúc ngoặt trên đường đi của xe cộ, tiếng Pháp là coude) + Đồng âm do mượn từ các tiếng địa phương khác nhau dùng trong ngôn ngữ toàn dân. Ví dụ: thơm (hương thơm) và thơm (quả dứa ở miền nam) + Đồng âm giữa rút gọn với sẵn có. Ví dụ: 5 kí gạo, chữ kí + Đồng âm do chuyển nghĩa mà thành. Ví dụ: Cây tre, cây số Có đồng âm cùng loại nhưng lại có đồng âm khác loại: Con rắn, chất rắn; Màu sắc, dao sắc;... Khi được nắm rõ, học sinh sẽ thuận lợi hơn trong việc hiểu và phân biệt từ đồng âm trong văn cảnh. Hơn nữa vốn từ của các em cũng phong phú dần thêm. Sau đây là một số bài tập tôi đã cho học sinh làm trong các tiết ôn luyện. 2. Xây dựng hệ thống bài tập: Bài tập 1: Phân biệt nghĩa của những từ đồng âm trong mỗi cụm từ sau: Đậu tương – chim đậu trên cây– thi đậu Vàng lưới – nắng vàng – vàng bạc. Bài tập 2: Tìm từ đồng âm trong mỗi câu câu sau và nêu nghĩa của mỗi từ. a. Ông ấy đang la(1) con la(2). b. Bà đang trút giá(1) vào rổ rồi để lên giá(2) bếp. c. Anh thanh niên hỏi giá(1) chiếc sơ mi đang treo trên giá(2). Đáp án: a. la(1): mắng mỏ, đe nẹt; la(2): chỉ con la. b. giá(1): đỗ (đậu) xanh được ngâm mọc mầm dùng để ăn. giá(2): giá đóng trên tường ở trong bếp dùng để đồ dùng sinh hoat rổ,rá... c. giá(1): giá tiền một chiếc áo là bao nhiêu; giá(2): đồ dùng để treo quần áo. Bài tập 3: Hãy đặt câu để phân biệt từ đồng âm: đỏ, lợi, mai, đánh Đáp án: a) Phượng nở đỏ rực cả một góc trường. Số tôi dạo này rất đỏ. 6
  7. b) Em bé ngã bị chảy máu lợi. Lợi dụng người khác là không nên. c) Sáng mai, lớp em đi tham quan quê Bác. Tết đến, hoa mai nở vàng rực rỡ. d) Cô bé đánh một giấc ngủ ngon lành. Mẹ em đánh phấn trông rất xinh. Bài tập 4: Hãy tìm từ đồng âm với mỗi từ sau: đá, là, rải, đường, chiếu, cày, đặt câu với mỗi từ đó và giải thích. Đáp án: a) Đá: Tay chân đấm đá. Mưa lớn làm vách đá hai bên đường sạt lở. - "Đá" trong "đấm đá" là dùng chân để đá, còn "đá" trong " vách đá" là núi bằng đá. b) Đường: Bé thích ăn đường. Con đường rợp bóng cây. - "Đường" trong "ăn đường" là đường (làm từ mía) để ăn còn "đường" trong "con đường" là đường đi. c) Là: Mẹ là quần áo. Bé Mai là em của em. - "Là" trong "là quần áo" là hoạt động dùng “cái bàn là” ủi phẳng đồ; còn "là" trong "là của em" thuộc sở hữu của mình. d) Chiếu: Ánh trăng chiếu qua cửa sổ. Cơm rơi khắp mặt chiếu. - "Chiếu" trong " trăng chiếu" chỉ hoạt động chiếu toả, chiếu rọi của sáng sáng mặt trăng. Còn "chiếu" trong "mặt chiếu" là cái chiếu dùng để ngồi, trải giường. e) Cày: Con trâu đang cày ruộng. Hôm qua, bố em mới mua một chiếc cày. - "Cày" trong "cày ruộng" là hoạt động làm cho đất lật lên còn "cày" trong "chiếc cày" là chỉ tên cái cày. Bài tập 5: Các câu sau đã sử dụng từ đồng âm nào để chơi chữ? Hãy gạch chân. a) Chín người cùng ngồi ăn nồi khoai chín. b) Cô ấy đã bác ý kiến của bác tôi. c) Mẹ em đậu xe lại mua cho em một nắm xôi đậu d) Bác tôi đang tôi một xe vôi. Đáp án: a) Chín người cùng ngồi ăn nồi khoai chín. 7
  8. b) Cô ấy đã bác ý kiến của bác tôi. c) Mẹ em đậu xe lại mua cho em một nắm xôi đậu d) Bác tôi đang tôi một xe vôi. - Tôi hỗ trợ giải thích thêm cho học sinh hiểu rõ nghĩa của những câu trên. Bài tập 6: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B A B 1. Sao trên trời lấp lánh. a. Chép lại hay tạo ra văn bản khác theo 2. Sao lá đơn thành nhiều bản đúng bản chính ban đầu bản b. Tẩm thứ chất nào đó rồi sấy khô 3. Sao tẩm chè c. Nêu thắc mắc do không biết rõ nguyên 4. Sao ngồi lâu thế? nhân 5. Đồng lúa mượt mà làm sao d. Nhấn mạnh sự ngạc nhiên, thán phục e. Các thiên thể trong vũ trụ Đáp án: 1-e, 2-a, 3-b, 4-c, 5-d Bài tập 7: Tìm các từ đồng âm và giải thích nghĩa của chúng. a) - Cái nhẫn bằng bạc. - Đồng bạc trắng hoa xoè. - Cờ bạc là tệ nạn cần lên án. - Ông Ba tóc đã bạc. - Bà An sống rất bạc tình. - Cái quạt máy hỏng phải thay bạc. b) - Cây đàn ghi ta. - Vừa đàn vừa hát. - Lập đàn để tế lễ. - Bước lên diễn đàn. - Đàn chim én đi tránh rét trở về. Bài tập 8: Đọc các cụm từ sau chú ý từ in đậm. a) Sao trên trời lấp lánh huyền ảo. b) Sao lá đơn thành nhiều bản bản. c) Sao tẩm chè. d) Sao ngồi lâu thế? e) Đồng lúa mượt mà sao! 8
  9. Hãy cho biết nghĩa của từ “sao” được nói tới dưới đây phù hợp với từ “sao” trong cụm từ nào câu nào ở trên? 1- Chép lại hay tạo ra văn bản khác theo đúng bản chính ban đầu. 2- Tẩm thứ chất nào đó rồi sấy khô. 3- Nêu thắc mắc do không biết rõ nguyên nhân. 4- Nhấn mạnh sự ngạc nhiên, thán phục. 5- Các thiên thể trong vũ trụ. Đáp án: 1- b, 2- c, 3- d, 4- e, 5- a. B. Về từ nhiều nghĩa: 1. Củng cố về khái niệm từ nhiều nghĩa. Ví dụ: cái bàn, bàn phím. Tôi giải thích: Từ “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn phím”: hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau còn về nghĩa thì “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân dùng làm đồ nội thất; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn ( nhạc cụ) hoặc máy tính. Như vậy sách giáo khoa mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp khái niệm và ví dụ cho học sinh hiểu. Muốn học sinh nắm chắc hơn tôi đã cung cấp thêm cho các em một số kiến thức sau: - Từ nhiều nghĩa là từ được dùng để gọi tên cho nhiều sự vật, hiện tượng có những thuộc tính giống nhau. Từ nhiều nghĩa còn được hình thành trên cơ sở tiết kiệm ngôn từ. Khái niệm trong thế giới khách quan là vô hạn nhưng ngôn từ thì có hạn. Bởi vậy, khi thấy sự vật A có điểm nào đó giống sự vật B (đã có tên trước) thì con người lấy luôn tên của A đặt cho B. Nghĩa A nghĩa ban đầu gọi là nghĩa gốc, nghĩa B được hiểu trên cơ sở của nghĩa A gọi là nghĩa chuyển. Vì vậy, từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có một nghĩa gốc, các nghĩa hiểu trên cơ sở của nghĩa gốc gọi là nghĩa chuyển. - Chuyển nghĩa dựa trên cơ sở so sánh 2 đối tượng có nét giống nhau. VD: Có dáng nhọn, nhô ra nhất so của sự vật gọi là mũi: như mũi người hay mũi động vật , đồ vật như (mũi dao, mũi kéo, mũi tên, …) VD: Vật ( dao, kéo..) được mài mỏng cắt xén dễ dàng gọi là “sắc” (bén), người tháo vát giải quyết công việc nhanh hẹn, dễ dàng gọi là “sắc” (tay),… - Chuyển nghĩa hoán dụ nhiều khi phải đặt vào ngữ cảnh mới hiểu gọi là chuyển nghĩa có tính không ổn định. VD: Nhà trắng đẹp hơn nhà vàng – Nhà Trắng mở rộng quan hệ đối ngoại. - Nghĩa được chuyển nhiều lần nên có hiện tượng nghĩa mẹ đẻ nghĩa con, nghĩa con sinh nghĩa cháu, … VD: từ “mũi”: trong “mũi dọc dừa” là nghĩa mẹ, 9
  10. trong “mũi thuyền”, “mũi đất”, “mũi kim”,… là nghĩa con; trong “tiêm ba mũi” là nghĩa cháu; … - Nhiều trường hợp, một nghĩa gốc lại chuyển nghĩa theo nhiều hướng khác nhau tạo thành hệ thống các nhánh nghĩa của từ. VD: đi: Nhánh 1: sự di chuyển từ vị trí này đến vị trí khác: đi họp, đi chơi, đi chợ, , xe đi, tàu đi, … Nhánh 2: Sự sử dụng phương tiện: đi xe, đi tàu, … Nhánh 3: Sự thay đổi hình thức: gầy đi, bớt đi, bán đi, xé đi, … Nhánh 4: dời xa vĩnh viễn: đi tong, đi đời, cụ đi hồi đêm, … Tôi lưu ý để các em hiểu: Các nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa đều có chung nghĩa gốc nên bao giờ chúng cũng có mối liên hệ với nhau. Tuy nhiên, có mối liên hệ với nhau không có nghĩa là lúc nào cũng phải có điểm chung. VD: “xuân” trong các câu: . + Mùa xuân1 là tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân2. ( Hồ Chí Minh) + Xuân này hơn hẵn mấy xuân 3 qua. ( Thư chúc Tết của Bác năm 1968) Tôi chỉ rõ cho các em thấy: xuân2 và xuân3 chỉ có mối liên hệ với nhau qua nghĩa gốc chứ nghĩa của bản thân nó không có nét giống nhau. - Mặt khác có những trường hợp nghĩa của từ vẫn mang nghĩa gốc, chỉ có nghĩa của câu mới được hiểu rộng ra. VD: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Tôi chỉ ra: ăn ở đây vẫn chỉ hoạt động đưa vào cơ thể qua miệng; ngồi ở đây vẫn chỉ hành động đặt mông xuống một chỗ. Tuy nhiên câu nói này có thể được hiểu rộng ra và không chỉ để nói chuyện ăn, chuyện ngồi ( trong thực tế câu tục ngữ này người ta chủ yếu dùng để nhắc nhở nhau khi ăn uống - phải để ý). Nhiều câu khác như Ăn có mời, làm có khiến; Học ăn, học nói, học gói, học mở ; … cũng có hiện tượng tương tự. Từ nhiều nghĩa thuộc từ loại động từ: Trường hợp này, từ nhiều nghĩa xảy ra khi chúng cùng từ loại với nhau và có thể có các trường hợp sau: -Từ mang nghĩa gốc và từ mang nghĩa chuyển đều là động từ chỉ hoạt động, trạng thái của người và sự vật hoặc là động từ chỉ hoạt động, trạng thái liên quan đến người và sự vật. Ví dụ: Hoa ăn(1) cơm. => ăn (1) mang nghĩa gốc Tàu vào ăn(2) than. => ăn(2) mang nghĩa chuyển 10
  11. Ví dụ: Hoa đi (1) trên đường. => đi(1) mang nghĩa gốc Bố đi (2) công tác xa. => đi (2) mang nghĩa chuyển - Từ mang nghĩa gốc và từ mang nghĩa chuyển đều là động từ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật và sự vật hoặc là động từ chỉ hoạt động, trạng thái liên quan đến con vật và sự vật. Ví dụ: Chim đậu(1) trên cành. => đậu (1) mang nghĩa gốc Xe đậu(2) ngay trên đường. => đậu (2) mang nghĩa chuyển c.Từ nhiều nghĩa thuộc từ loại tính từ: Điều đặc biệt từ loại tính từ không có từ nhiều nghĩa, nếu có xảy ra thì từ mang nghĩa gốc phải là danh từ, còn từ mang nghĩa chuyển là tính từ. 3. Xây dựng hệ thống bài tập củng cố: Bài tập 1: Từ đi trong các câu sau, câu nào có từ đi mang nghĩa gốc, câu nào có từ đi mang nghĩa chuyển? a) Ca nô đi nhanh hơn thuyền. b) Anh đi tàu hỏa, còn tôi đi máy bay. c) Ông cụ ốm nặng nên đã đi rồi. d) Em gái tôi đã đến tuổi đi học. e) Nó chạy còn tôi đi. g) Anh đi con xe, còn tôi đi con mã. Đáp án: - Câu có từ đi mang nghĩa gốc: Câu e. - Câu có từ đi mang nghĩa chuyển: Các câu còn lại. Bài tập 2: Đặt 4 câu với nghĩa chuyển của từ ăn? Gợi ý: - Ngọc Trinh ấy rất ăn ảnh. - An chơi bi rất hay ăn gian. - An- đrây cảm thấy rất ăn năn. - Bọn nhện ăn hiếp chị Nhà Trò. - Ông Nhụ muốn ăn đời, ở kiếp với cái làng cũ. Bài tập 3: Nối lời giải nghĩa cột B thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A sau đây: A B 1. Bé chạy lon ton trên sân. a. Hoạt động của máy móc. 2.Xe chạy bon bon trên đường. b. Khẩn trương để tránh những điều 3. Đồng hồ chạy đúng giờ. nguy hiểm sắp xảy đến. 4. Dân làng khẩn trương chạy lũ. c. Sự di chuyển của phương tiện giao 11
  12. thông d. Sự di chuyển nhanh bằng chân. Đáp án: 1-d, 2-c, 3-a, 4-b Bài tập 4: Thay thế từ ăn trong các câu sau bằng từ khác sao cho phù hợp Đáp án: a) Tàu ăn hàng ở cảng. - Từ thích hợp: Bốc, xếp hàng. b)Cậu làm như vậy dễ ăn đòn lắm. - Từ thích hợp: Bị đòn c) Da bạn ăn phấn lắm. - Từ thích hợp: Bắt phấn d) Hồ dán không ăn giấy. - Từ thích hợp: Không dính e) Hai màu này rất ăn nhau. - Từ thích hợp: Hợp nhau g) Rễ cây ăn qua chân tường. - Từ thích hợp: Mọc, đâm qua h) Mảnh đất này ăn sang xã bên. - Từ thích hợp: Thuộc về k) Một đô-la Mĩ ăn mấy đồng Việt - Từ thích hợp: Bằng Nam ? Qua các dạng bài tập học sinh được rèn luyện nhiều và đã giảm đáng kể sự khó khăn, lúng túng ban đầu. Cơ bản các em đều hiểu và làm đúng Luyện thêm một số dạng bài tập tổng hợp sau: Bài tập 1: Trong các từ gạch chân dưới đây, từ nào là từ đồng âm, từ nào là từ nhiều nghĩa? - Vàng: Giá vàng trong nước tăng đột biến. Tấm lòng vàng. Chiếc lá vàng cuối cùng cũng từ giã cành cây. - Bay: Đàn cò đang bay trên trời. Đạn bay vèo vèo. Chiếc áo đã bay màu. Trên tay bác thợ xây đang cầm chiếc bay. Bài tập 2: Với mỗi từ dưới đây của một từ, em hãy đặt 1 câu: a. Cân (là danh từ, động từ, tính b. Xuân (là danh từ, tính từ) *Đáp án: a) – Cái cân này là của nhà bà nội em. - Mẹ cân một con gà. - Đôi bên cân sức cân tài. b) - Mùa xuân đã về. - Mẹ em đã tuổi tứ tuần nhưng vẫn còn xuân sắc. 12
  13. Trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh năng khiếu, để giúp học sinh làm tốt các bài tập như trên, tôi yêu cầu các em phải nắm chắc nghĩa của từ và xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó, không được chủ quan ngộ nhận hoặc mới chỉ hiểu nghĩa mang máng mà đã vội kết luận mối quan hệ giữa các từ đó. Công tác kiểm tra đánh giá là khâu rất quan trọng mọi hoạt động học tập. Nó cũng góp phần không nhỏ trong việc dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học sinh đạt hiệu quả cao. Vậy trong giải pháp này ta cần làm gì? – Phải chấm chữa bài thường xuyên cho học sinh bởi: - GV sẽ nắm bắt được mức độ hiểu bài của học sinh, định hướng được và có thể thay đổi nội dung, phương pháp cách thức phù hợp để truyền đạt cho học sinh ở những tiết học sau. Khi được chấm bài học sinh sẽ phấn khởi hơn, đẩy nhanh tốc độ làm bài hơn, trau chuốt hơn cả về nội dung lẫn hình thức trong bài làm của mình. - GV sẽ chỉ rõ được cho học sinh một cách trực tiếp về những ưu điểm và những nội dung mà mình chưa nắm được, giúp học sinh có hướng khắc phục ngay những thiếu sót của mình sau tiết học đó. Nên tôi đã thực hiện: + Tôi chấm bài cho học sinh phải kĩ càng, chữa từng lỗi nhỏ nhất. + Tôi ghi vào sổ tay của mình các lỗi của học sinh mắc phải. + Sau khi chấm bài xong tôi thống kê số lượng bài đã hoàn thành hay chưa hoàn thành, có mấy bài làm tốt nhất để tuyên dương. + Khi chữa chung trước lớp tôi chọn bài mắc lỗi chung nhất cho cả lớp cùng sửa sai giúp bạn để bạn học hỏi đồng thời cũng là cơ hội cho học sinh học hỏi lẫn nhau. 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 2.4.1. Đối với giáo viên: Bản thân tôi đã đạt được: - Chuyển từ phương pháp truyền thụ sang phương pháp mới: Tích cực hoá hoạt động của học sinh, trong đó giáo viên đóng vai trò người tổ chức hoạt động học của học sinh, giúp học sinh tháo gỡ khó khăn, thắc mắc. Vì vậy trong tiết học, tôi không phải nói nhiều như trước đây. - Giữa giáo viên và học sinh có sự phối hợp nhịp nhàng, gây hứng thú cho cả giáo viên và học sinh. Giờ học sôi nổi, vui vẻ, nhẹ nhàng, không còn căng thẳng, nặng nề như trước. 2.4.2.Đối với học sinh: - Các em đón nhận tiết học rất sôi nổi, hào hứng và tự giác. - Các em ham thích đọc sách hơn, cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong tác phẩm văn học; Biết cách lập sổ tay văn học và có thói quen ghi chép lại những hình ảnh đẹp, những câu văn hay, những chi tiết xúc động. - Biết cách phối hợp cùng nhau trong giờ học (học nhóm), để bổ trợ cho nhau trong quá trình học tập chiếm lĩnh kiến thức mới; Biết cách trình bày, trao đổi, tranh luận về những vấn đề gần gũi với đời sống và phù hợp với trình độ của học sinh, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh đối với môn học này được nâng lên rõ rệt. - Các em học sinh có năng khiếu học tập môn Tiếng Việt đều nắm vững kiến thức về từ và câu, vận dụng khá thành thạo các kiến thức, kĩ năng đã học để làm các bài tập nâng cao. Các 13
  14. em đã biết cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái sáng tạo trong các bài thơ, bài văn một cách sâu sắc; biết dùng từ đặt câu, dựng đoạn, viết bài văn lôgic, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Đặc biệt là các biện pháp đã giúp các em hiểu bài nhanh hơn và làm bài hiệu quả hơn. Các em dễ dàng xác định được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và không còn thấy lúng túng như trước nữa. Nó để lại cho các em những ấn tượng tốt đẹp và chính những ấn tượng này đã giúp các em khắc sâu được kiến thức của mỗi tiết học. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận: Với đề tài này bản thân tôi đã vận dụng nó không chỉ trong khuôn khổ đối tượng là học sinh lớp tôi mà còn nhân rộng ra các giáo viên trong khối 5 trong trường. Theo chủ quan bản thân chúng tôi, tôi nghĩ với các biện pháp này không chỉ áp dụng được ở Trường Tiểu học nơi chúng tôi công tác mà với các đơn vị trường lân cận có cùng đặc điểm về kinh tế, cơ sở vật chất, trình độ học sinh cũng có thể áp dụng nó một cách thường xuyên và sẽ đem lại hiệu quả cao trong dạy học. Tôi hy vọng các biện pháp mình áp dụng sẽ được đồng nghiệp áp dụng rộng rãi ở các trường lận cận nhằm giúp học sinh có được hiệu quả cao trong việc bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và gây hứng thú trong các tiết học tiếp theo.. Sau thời gian áp dụng một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, muốn phát triển tốt năng lực, phẩm chất học tiếng Việt cho học sinh lớp 5, tôi mạnh dạn đưa ra một số lưu ý mà GV cần phải như sau: - Giáo viên cần giúp học sinh đồng thời mỗi thầy cô cần tự tích lũy kiến thức đa dạng về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong giao tiếp hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy. - Để bồi dưỡng cho học sinh vốn kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa ngoài kiến thức sẵn có thì lòng say mê và nhiệt tình không thể thiếu đối với người giáo viên tiểu học như chúng ta, qua đó hình thành cho học sinh nhiều năng lực, phẩm chất. Nhờ lòng say mê và sự nhiệt tình cộng với sự học hỏi của bạn bè đồng nghiệp, đọc tài liệu tham khảo như: Hỏi- đáp về dạy học Tiếng Việt 4, vở bài tập Tiếng Việt nâng cao, tạp chí thế giới trong ta, từ điển Tiếng Việt … Chính vì vậy mà kết quả học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt. 4. Kiến nghị- Đề xuất. Nhằm góp phần nâng cao kết quả giảng dạy và hòan thành chuyên môn của người giáo viên tiểu học tôi xin có một số đề nghị sau: Với những kinh nghiệm khi dạy Từ đồng âm - Từ nhiều nghĩa mà bản thân tôi đã áp dụng vào giảng dạy ở lớp mình phụ trách được trình bày ở trên. Rất 14
  15. mong sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và hội đồng khoa học để tôi được học hỏi, tích lũy thêm kiến thức và hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! Lê Thị Thu Thủy 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0