intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:43

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến này là nhằm đề xuất một số giải pháp linh hoạt, sáng tạo trong thiết kế bài học Tập đọc lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giờ học. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới

  1. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới MỤC LỤC 1 / 43
  2. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới PHẦN THỨ NHẤT. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài:   Như chúng ta đã thấy, việc đổi mới chương trình phổ thông tổng thể là  một vấn đề  nóng hổi đang được cả  nước quan tâm. Trong đó giáo dục bậc   tiểu học đóng vai trò rất quan trọng. Để  đạt được mục đích đó, việc dạy đủ  các môn học là yêu cầu không thể  thiếu được nhằm góp phần giáo dục học  sinh phát triển toàn diện. Đọc là một kỹ  năng quan trọng hàng đầu của con   người, không biết đọc con người không thể  tiếp thu được nền văn minh của  nhân loại, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng  nghĩa của từ  này trong xã hội hiện đại. Nhờ  biết đọc, con người có thể  tự  học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Chính vì vậy, dạy đọc  ở  trường phổ  thông, nhất là các lớp đầu cấp rất quan trọng.  Bộ Giáo dục và Đào tạo có quan điểm chỉ đạo đổi mới chương trình và   phương pháp dạy Tập đọc theo hướng giao tiếp. Điều này phù hợp với xu   thế  chung của thời đại. Đổi mới cả  về  cấu trúc và cách lựa chọn nội dung,   việc lựa chọn nội dung được mềm hoá, linh hoạt và đa dạng hơn trước. Cách  thực hiện chương trình cũng được mềm hoá, không cứng nhắc như trước đây.  Nhìn dưới góc độ  giao tiếp, có thể  thấy Tiếng Việt 2 lựa chọn khá  "đắt" các bài đọc. Những chủ  đề, chủ  điểm được đưa vào sách rất gần gũi  với học sinh, từ  những nghi thức lời nói đến các kỹ  năng làm việc và giao   tiếp cộng đồng như lập danh sách lớp, tra mục lục sách, đọc thời khoá biểu,  lập thời gian biểu, viết thư, gọi điện làm đơn, khai lý lịch... Đặc biệt, dạy  Tập đọc theo định hướng giáo tiếp là rèn cho học sinh các kỹ  năng đọc (đọc  thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó,  giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ bằng cách nêu ví dụ  cho học sinh hiểu, đặt câu với từ cần giải nghĩa, tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa  với từ  cần giải nghĩa, miêu tả  sự  vật đặc điểm biểu thị   ở  từ  ngữ  cần giải   nghĩa. Ngoài ra, học sinh cần hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện bài văn  bài thơ.  Tự  hào là người giáo viên tiểu học, người trực tiếp đưa chương trình  sách mới tiểu học vào thực tiễn, đem những đổi mới, hiện đại đến với học  2 / 43
  3. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới sinh tiểu học nhằm đưa chất lượng giáo dục tiểu học lên một tầm cao mới,  chúng tôi, những người đang giảng dạy chương trình sách mới thấy rõ những   ưu điểm nổi trội của sách mới và cũng thấy được những đòi hỏi cao đối với   người dạy về việc phát huy triệt để ưu thế cuả sách mới, phát triển khả năng  của học sinh ở mức độ cao nhất. Bởi vậy, để  tránh những lúng túng và khó khăn trong dạy học, bởi sự  mới lạ của sách mới, giúp người dạy, người học tiếp cận và nhanh chóng làm  quen với toàn bộ chương trình tiểu học mới, dạy và học sáng  tạo nhằm nâng   cao chất lượng giáo dục tiểu học, tôi đã lựa chọn nghiên cứu môn Tập đọc ­   môn học tạo đà cho mọi môn học  ở  bậc tiểu học, với đề  tài "Một số  biện   pháp dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới". 2. Mục đích nghiên cứu  Đề  xuất một số  giải pháp linh hoạt, sáng tạo trong thiết kế  bài học   Tập đọc lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giờ học. 3. Đối tượng nghiên cứu:  Học sinh lớp 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: ­ Khái quát cơ sở  lý luận của đổi mới phương pháp dạy học môn Tập  đọc ­ Phân tích thực trạng dạy học môn Tập đọc lớp 2, thực trạng nhận  thức về đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên tiểu học. ­ Đề  xuất một số  giải pháp linh hoạt, sáng tạo trong thiết kế  bài học  Tập đọc lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giờ học. 5. Phạm vi nghiên cứu:  Hoạt động dạy học môn Tập đọc lớp 2. 6 Phương pháp nghiên cứu: ­ Nghiên cứu tài liệu ­ Điều tra, quan sát, đàm thoại ­ Phân tích tổng hợp 3 / 43
  4. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới ­ Thực nghiệm, kiểm chứng PHẦN THỨ HAI. NỘI DUNG Chương I. Cơ sở lý luận 1. Cơ sở tâm sinh lý, đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học: Học sinh tiểu học ­ con người với cấu tạo đầy đủ  các bộ phận của cơ  thể đang phát triển. Trong đó, các cơ quan phát âm, ngôn ngữ phát triển mạnh,  phù hợp với sự  tiếp nhận và thực hiện dễ  dàng hoạt động mới theo chức   năng của chúng. Khả  năng nhận thức, tư  duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ  và nhân  cách học sinh đang được hình thành, tiềm  ẩn khả  năng phát triển và đang  được phát triển. Học sinh tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò,   thích hoạt động, khám phá, thường độc lập, tự  làm việc theo hứng thú của  mình. Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất, được trẻ  tôn sùng nhất, mọi  điều trẻ  đều nhất nhất nghe theo; sự  phát triển nhân cách hoc sinh tiểu học   phụ thuộc phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy cô trong nhà  trường tiểu học. Dạy Tập đọc cho học sinh tiểu học, đặc biệt  ở  các lớp đầu cấp là  bước đầu đem đến sự vận động khoa học cho bộ não và các cơ quan phát âm,   ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn hóa, cảm thụ văn học,rèn  luyện tình  cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, định hướng con đường  phát triển, hình thành nhân cách trẻ; phát triển khả năng học tập các môn học  khác, là điều kiện phát triển toàn diện học sinh tiểu học. Nhân cách học sinh tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc và phụ  thuộc quá trình giáo dục cuả người thầy tiểu học mà trong đó phương tiện là  4 / 43
  5. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới nghe, đọc, nói, viết, có được nhờ  học Tập đọc. Dạy học Tập đọc đòi hỏi   người thầy phải có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm sinh lý học  sinh tiểu học, phù hợp sự  phát triển tiến bộ  của khoa học, xã hội, đáp  ứng  nhu cầu ham hiểu biết của học sinh tiểu học và tăng cường giá trị  giáo dục  đạo đức, nhân cách trẻ. 2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy Tập đọc: Ngôn ngữ học đã chỉ rõ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngôn   ngữ  như: Chữ  viết, chính âm, chính tả, nghĩa của từ  ­ câu ­ đoạn ­ văn bản,  ngữ  điệu, nhịp điệu, tình cảm ngôn ngữ. Đó chính là những vấn đề  gắn bó  với việc dạy và học Tập đọc của thầy trò trường tiểu học. Văn học là nghệ  thuật, là tinh hoa của ngôn ngữ, là tình cảm đạo đức,  lý tưởng, tình yêu. Nó có được nhờ cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn   con người thêm phong phú, sâu sắc. Dạy Tập đọc cho học sinh tiểu học là dạy học sinh biết đọc đúng:  Tiếng, từ, câu, chữ, hiểu nội dung rồi đọc đúng ngữ  điệu, nhịp điệu, diễn  cảm,  cảm   nhận   được   ý   nghĩa   tình  cảm,   có   cảm   xúc,   biết  tư   duy,   tưởng   tượng, hình thành ý thức tốt đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp nghĩa là  học sinh biết đọc đúng chuẩn ngôn ngữ và biết cảm thụ văn học. Nghiên cứu về  ngôn ngữ  ta thấy vấn đề  về  ngữ  nghĩa đặc biệt quan  trọng, nó là yếu tố then chốt trong quá trình dạy học Tập đọc. Nghĩa của từ,  nghĩa của từ trong văn cảnh, nghĩa của câu, đoạn, bài văn. Khái quát lên, nó là  ý nghĩa giáo dục đối với học sinh. Làm sao để học sinh tiếp nhận ý nghĩa ấy  một cách tự nhiên, có cảm xúc, có sự cảm  thụ cảm nhận đúng ­ sai, tốt ­ xấu,  để  các em cảm thụ  được cái hay cái đẹp của văn học phát triển tâm hồn   phong phú. Đó là cả một nghệ thuật, nghệ thuật trong lao động dạy học sáng   tạo của người thầy tiểu học. Dạy Tập đọc sẽ  càng tinh tế, càng sáng tạo   càng hiệu quả khi ta nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu của ngôn ngữ  và văn học. 3. Cơ sở giáo dưỡng, giáo dục và phát triển: Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là hình  thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc thể hiện ở 4 yêu cầu về chất   lượng của "đọc", đó là : đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức (đọc hiểu) và   5 / 43
  6. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới đọc hay (đọc diễn cảm). Cần phải hiểu kỹ năng đọc có nhiều mức độ, nhiều   tầng bậc khác nhau. Đầu tiên là trong giải mã chữ  ­ âm một cách sơ  bộ  tiếp   theo đọc là phải hiểu được nghĩa của từ, tìm được các từ, câu "chìa khoá"  (chốt, trọngyếu) trong bài, biết tóm tắt nội dung của đoạn. Với những bài  văn: biết phát hiện ra những yếu tố  "văn" và đánh giá được giá trị của chúng   trong việc biểu đạt nội dung. Như  vậy, biết đọc đồng nghĩa với việc có kỹ  năng làm việc với văn bản. Nhiệm vụ  thứ  hai của dạy học là giáo dục lòng ham đọc sách, hình   thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Dạy Tập dọc   phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả  năng đọc có ích lợi   cho các em trong cả cuộc đời. Đọc là một trong những con đường đặc biệt để  tạo cho mình một cuộc sống đầy đủ và phát triển. Nhiệm vụ thứ ba của Tập đọc là làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời  sống và kiến thức văn học cho học sinh. Đọc giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi   dưỡng ở các em lòng yêu cái  thiện và cái đẹp, dạy các em biết suy nghĩ một  cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh… Dạy học không chỉ giáo dục tư  tưởng đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. Dạy   Tập đọc có ý nghĩa to lớn vì nó thực hiện cả  3 nhiệm vụ  : giáo dục, giáo   dưỡng và phát triển. Như vậy, ta thấy phương pháp dạy Tập đọc nói chung và Tập đọc lớp  2 nói riêng phải dựa trên cơ  sở  thực hiện các nhiệm vụ  của môn Tập đọc  trong nhà trường tiểu học: Giáo dưỡng ­ giáo dục và phát triển. 6 / 43
  7. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới Chương II. Cơ sở thực tiễn I. Khảo sát tài liệu dạy ­ học môn Tập đọc lớp2: 1. Sách giáo khoa: Tài liệu học tập của học sinh đối với môn học Tiếng Việt lớp 2 gồm   SGK và vở  bài tập, song do vở  bài tập Tiếng Việt không biên soạn bài tập   cho phân môn Tập đọc nên ta chỉ xem xét Tập đọc trên SGK Tiếng Việt lớp   2. Với tổng số 93 văn bản Tập đọc được dạy ­ học trong 124 tiết/ 31 tuần  thực học (không kể 4 tuần ôn tập) phân môn Tập đọc lớp 2 được chia ra các  mảng với 15 chủ điểm cụ thể. ­ Tiếng Việt lớp 2 ­ tập 1 với các bài Tập đọc tập trung vào các mảng:  Học sinh ­ nhà trường ­ gia đình, với 8 chủ  điểm : Em là  học sinh, Bạn bè,  Trường học, Thầy cô, ông bà, cha mẹ, anh em , bạn trong nhà. ­ Tiếng Việt lớp 2 ­ tập 2 với các bài Tập đọc tập trung vào các mảng:  Thiên nhiên ­ Đất nước, với 7 chủ  điểm: Bốn mùa, Chim chóc, Muông thú,  Sông biển, Cây cối, Bác Hồ, Nhân dân. (Mỗi chủ điểm được học trong 2 tuần được gọi là một đơn vị học) * Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 có nhiều ưu điểm: ­ Trình bày khoa học: kênh chữ  rõ ràng, ngắn gọn; kênh hình chiếm   khối lượng lớn, rõ nét, hình ảnh phong phú, màu sắc đẹp, hấp dẫn. ­ Nội dung các bài đọc mang tính thiết thực, gần gũi, tính hướng dẫn   giao tiếp rõ rệt, chứa đựng tình cảm cảm động hay vui nhộn, cuốn hút. ­ Hình thức diễn đạt trong sáng, ý nghĩa tư tưởng sâu sắc. Học sinh dễ  hiểu, dễ cảm nhận và xúc động. ý nghĩa giáo dục dễ dàng đi sâu vào tâm hồn  trẻ thơ một cách nhẹ nhàng, sâu sắc. ­ Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài là các yêu cầu tái  hiện hay dạng gợi   mở, bộc lộ ý kiến cá nhân giúp học sinh tiếp cận và thâm nhập bài đọc từ dễ  đến khó; từ  nhắc lại, nhớ  lại đến tư  duy độc lập sáng tạo để  có ý thức, có   hành động đúng. 7 / 43
  8. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới 2. Sách giáo viên: Trong sách giáo viên hướng dẫn việc dạy Tập đọc ở lớp 2 như sau: 1. Mục đích của việc dạy Tập đọc: 1.1. Phát triển các kĩ năng đọc, nghe, nói cho HS, cụ thể là: ­ Đọc thành tiếng: Phát âm đúng, ngắt nghỉ  hơi hợp lí, cường độ  và  tốc độ đọc vừa phải (khoảng 50 tiếng/1 phút) ­ Đọc thầm và hiểu nội dung: biết độc mấp máy môi không thành  tiếng, hiểu từ  ngữ  trong văn cảnh, nắm được nội dung câu, đoạn  hoặc bài. ­ Nghe: Nghe đọc mẫu, nghe hiểu câu hỏi, nghe và nhận xét bạn đọc. ­ Nói: Trả lời được câu hỏi, trao đổi với bạn về nội dung bài. 1.2. Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển ngôn ngữ, mở  rộng   hiểu biết về thế giới xung quanh: ­ Làm giàu vốn từ, vốn diễn đạt. ­ Bồi dưỡng vốn văn học, mở rộng vốn sống. ­ Phát triển một số thao tác tư duy. 1.3. Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn: ­ Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn với ông bà, cha mẹ,  thầy cô, đoàn kết bạn bè… ­ Hình thành tình yêu sách, ham đọc sách, khả năng cảm thụ văn học. 2. Nội dung dạy học: 2.1. Số bài, thời lượng học: Một tuần học sinh học 2 bài Tập đọc (giảm tải 1 bài), trong đó có 1 bài  học trong 2 tiết và 1 bài 1 tiết. Như vậy, học sinh học tổng cộng 62 bài  trong 93 tiết trong 31 tuần học (không kể 4 tuần ôn tập).  2.2. Thể loại: Các bài tâp đọc được chia ra 15 chủ đề: Học sinh, Bạn bè, Trường học,   Thầy cô, Ông bà, Cha mẹ, Anh em, Bạn trong nhà (ở  học kì 1), Bốn  mùa, Chim chóc, Muông thú, Sông biển, Cây cối, Bác Hồ, Nhân dân (ở  học kì 2). Xét về  thể  loại văn bản, các bài Tập đọc gồm văn xuôi và   thơ, văn bản khoa học, báo chí, hành chính. 3. Các biện pháp dạy Tập đọc: 8 / 43
  9. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới 3.1. Đọc mẫu: GV đọc cả  bài, đọc câu dài, đọc từ, cụm từ  khó, đọc diễn   cảm. 3.2. Hướng dẫn tìm hiểu nghĩa từ, hiểu nội dung bài: ­ Với các từ  mới, từ  địa phương, từ  khóa… giáo viên giúp học sinh  hiểu nghĩa bằng cách mô tả  bằng lời, tranh, đặt câu với từ, tìm từ  trái nghĩa, đồng nghĩa… ­ Để  giúp học sinh hiểu nội dung bài giáo viên đưa ra các câu hỏi   chính, câu hỏi phụ  để  học sinh trả  lời. Sau đó, giáo viên chốt lại ý  chính cần nhớ. 3.3. Hướng dẫn đọc và học thuộc lòng: ­ Luyện đọc thành tiếng: giáo viên tổ  chức cho học sinh đọc cá nhân,  đọc nhóm, đồng thanh. ­ Luyện đọc thầm: giáo viên giao nhiệm vụ  đọc thầm cụ  thể  và có  hình thức kiểm tra, khảo sát. ­ Luyện học thuộc lòng: hình thức xóa dần từ  ngữ  để  học sinh nhớ  dần dần. 4. Quy trình dạy Tập đọc: 4.1. Kiểm tra bài cũ: kiểm tra đọc và trả lời câu hỏi bài Tập đọc tiết trước. 4.2. Dạy bài mới: a) Giới thiệu bài: Trực tiếp hoặc gián tiếp. b) Luyện đọc: ­ GV đọc mẫu ­ Luyện đọc câu ­ Luyện đọc đoạn, bài c) Tìm hiểu bài: Học sinh đọc thầm và tìm hiểu bài dựa vào câu hỏi trong  SGK. d) Luyện đọc lại/ học thuộc lòng: Học sinh thể  hiện được giọng đọc cả  bài, thể hiện được giọng nhân vật, bước đầu biết nhấn giọng ở các từ  ngữ. ­ GV đọc mẫu ­ Gv hướng dẫn nhấn giọng 9 / 43
  10. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới ­ HS thi đọc ­ Hướng dẫn học thuộc lòng bằng cách xóa dần các từ (nếu có) e) Củng cố, dặn dò: Nhận xét tiết học, dặn dò về nhà. II. Thực trạng dạy Tập đọc ở lớp 2: ­ Một số câu hỏi trong các bài Tập đọc chưa thực sự phù hợp với đối  tượng học sinh lớp 2, một số  câu hỏi chưa tường minh, một số câu  hỏi không phát triển năng lực cho học sinh.  ­ Tiết Tập đọc lặp đi lặp lại theo 1 quy trình nên khô khan, nhàm  chán. ­ Hầu hết giáo viên khi thiết kế  bài giảng vả  dạy học trên lớp đều  phụ  thuộc vào sách giáo viên, tuân thủ  quy trình cứng nêu ra trong   sách. Giáo viên không mạnh dạn thay đổi, điều chỉnh, đổi mới về  nội dung cũng như  phương pháp, hình thức tổ  chức, đồ  dùng dạy  học. ­ Học sinh học Tập đọc một cách thụ  động, máy móc mà chưa chủ  động rèn luyện các kĩ năng cần thiết trong giờ Tập đọc. Để tiết học Tập đọc trở nên hấp dẫn, sinh động hơn mà vẫn đảm bảo   được mục tiêu giáo dục đề ra, giúp học sinh chủ động rèn luyện các kĩ năng,  phát huy được năng lực cá nhân, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp  dạy học Tập đọc theo định hướng năng lực. 10 / 43
  11. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới Chương III. Các biện pháp dạy học Tập đọc theo định hướng năng lực 1. Thay đổi các phương pháp, hình thức luyện đọc: 1.1. Đọc mẫu: Trước đây giáo viên thường chỉ dùng một hình thức là tự giáo viên đọc  mẫu cho học sinh. Cách đọc mẫu này có thuận lợi là giáo viên phát âm từ ngữ  chuẩn, không bị  phát âm tiếng địa phương, ngắt nghỉ  câu hợp lí, diễn cảm  đúng giọng của bài hay giọng của nhân vật. Tuy hiên nếu tiết nào cũng chỉ  dùng một hình thức đọc mẫu này sẽ gây nhàm chán, học sinh không được tạo  cơ hội để phát huy năng lực đọc sáng tạo của mình. Hơn nữa giọng diễn cảm  của giáo viên là giọng diễn cảm của người lớn, bị  ảnh hưởng bởi nhân sinh  quan của người lớn nên đôi khi không phù hợp để  làm mẫu cho học sinh bé,  học sinh sẽ khó luyện theo được.  Vì vậy ngoài hình thức giáo viên đọc mẫu, tôi đưa thêm một hình thức   nữa đó là cho học sinh đọc mẫu. Học sinh được chọn đọc mẫu có thể là học  sinh trong lớp đó (nếu trong lớp có học sinh diễn cảm tốt), hoặc giáo viên  chọn học sinh đọc tốt trong các lớp khác, trong các năm học khác nhau, cho   học sinh đọc mẫu rồi thu âm lại rồi bật cho học sinh nghe trong các tiết học  Tập đọc. Các bài đọc mẫu này, giáo viên lưu thành file âm thanh để  sử  dụng  được nhiều năm.  1.2. Luyện đọc: Trong tiết Tập đọc hiện nay, phần luyện  đọc có quy trình cứng là: Đọc  nối tiếp câu 2 lần với hình thức học sinh đọc các nhân nối tiếp theo 2 dãy.   Đọc nối tiếp đoạn 2 lần với hình thức lần 1 đọc cá nhân nối tiếp, lần 2 đọc   trong nhóm hoặc nối tiếp theo nhóm. Quy trình đó cứ lặp đi lặp lại trong các   tiết gây nên sự  nhàm chán, rập khuôn, học sinh đọc thụ  động. Hơn nữa số  lượng học sinh được đọc vỡ  câu không nhiều. Vậy nên tôi đã thay đổi một  chút hình thức luyện đọc như sau: ­ Ở lần luyện đọc câu lần 1, giáo viên vẫn tổ chức cho HS đọc nối tiếp   cá nhân theo dãy, cả lớp đọc thầm. Từ đó học sinh tự  phát hiện những  từ  ngữ  khó đọc. GV tổ  chức cho học sinh luyện đọc từ  cá nhân rồi  đồng thanh. ­ Đến lần luyện đọc câu lần 2, giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp câu  trong nhóm, học sinh đọc và nghe bạn đọc, sửa lỗi đoc sai cho nhau.  Nhờ  hình thức này 100% học sinh trong lớp được luyện đọc và có sự  11 / 43
  12. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới kiểm soát lẫn nhau khi đọc. Sau khi đọc xong, các nhóm tự  báo cáo,  nhận xét phần đọc của nhóm mình. ­ Ở  lần luyện đọc đoạn lần 1, giữ  hình thức cũ là đọc nối tiếp đoạn cá  nhân trước  lớp, cả lớp đọc thầm theo, từ đó học sinh phát hiện câu dài.  Khi luyện đọc câu dài, giáo viên không áp đặt cách ngắt hơi theo mẫu  mà cho học sinh ngắt hơi theo cảm nhận của mình, học sinh nghe và tự  chọn cách ngắt hơi hay và hợp lí.  ­ Đến lần đọc đoạn lần 2, giáo viên chọn 1 trong 2 hình thức tùy thời  gian: Cách 1: cho học sinh đọc nối tiếp đoạn theo nhóm, học sinh đọc,  nghe bạn đọc và sửa cho nhau.   Cách 2: các nhóm đọc đồng thanh nối tiếp đoạn trước lớp. Thậm chí  nếu có nhiều thời gian (với những bài Tập đọc dạy trong 2 tiết) giáo   viên có thể thực hiện cả 2 hình thức trên. ­ Phần luyện đọc diễn cảm: sau khi cho học sinh nghe đọc mẫu, hướng   dẫn giọng  đọc, từ  ngữ  nhấn giọng, giáo viên tổ  chức cho học sinh   luyện diễn cảm trong 2 phút, có thể  đọc thầm cá nhân, hoặc đọc theo  nhóm đôi để học sinh tự sửa cho nhau cách đọc, rồi mới tổ chức thi đọc   trước lớp. 2. Thay đổi nội dung, ngữ liệu bài Tập đọc: Như đã phân tích thực trạng dạy Tập đọc ở trên, nhiều bài Tập đọc có  câu hỏi chưa phù hợp, chưa tường minh, chưa phát triển năng lực cho học   sinh. Nên việc thay đổi, chỉnh sửa nội dung câu hỏi cho phù hợp, thêm câu hỏi  gợi mở… là một biện pháp để giúp học sinh học tốt phần tìm hiểu bài và phát  huy năng lực cho học sinh. Ví dụ: ­ Bài Tập đọc “Phần thưởng” (tr14­sgk) Đổi câu hỏi 4: “Khi Na được phần thưởng, những ai vui mừng? Vui  mừng như  thế  nào?” lên trước câu hỏi 3: “Em có nghĩ rằng Na xứng  đáng được thưởng không? Vì sao?” Sửa câu hỏi 4 thành 2 câu hỏi: “Khi Na được phần thưởng mọi người  cảm thấy thế nào? Dựa vào đâu em biết điều đó?” ­ Bài Tập đọc “Trên chiếc bè” (tr 35­sgk) Sửa câu hỏi 3 thành 2 câu hỏi: “Thái độ của các con vật đối với hai chú   dế như thế nào? Những từ ngữ nào nói lên điều đó?” ­ Bài “Ngôi trường mới” (tr 51­sgk): 12 / 43
  13. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới Câu hỏi 2: “Tìm những từ  ngữ  tả  vẻ  đẹp của ngôi trường?” Câu hỏi  này không phát triển năng lực cho HS vì trong câu hỏi đã kết luận luôn  ngôi trường đẹp. Nên thay đổi câu hỏi này thành 2 câu hỏi: “Tìm những   từ ngữ tả ngôi trường mới. Qua đó em có cảm nhận gì về  ngôi trường  mới?” ­ Bài “Người thầy cũ” (tr 57­sgk) Câu hỏi 2: “Khi gặp thầy giáo cũ, bố  của Dũng thể hiện sự  kính trọng  như  thế  nào?” Câu hỏi này không phát triển năng lực cho HS vì trong   câu hỏi đã kết luận luôn bố Dũng kính trọng thầy. Nên thay đổi câu hỏi   này thành 2 câu hỏi: “Khi gặp thầy giáo cũ, bố Dũng làm gì? Hành động  của bố Dũng thể hiện điều gì?” ­ Bài “Cây xoài của ông em” (tr 90­sgk) Câu hỏi 4 sửa thành 2 câu: “Ăn quả xoài cát chín nhà mình, bạn nhỏ có  suy nghĩ gì? Vì sao bạn nhỏ  lại nghĩ như  vậy?” Thay đổi câu hỏi như  vậy sẽ tạo được sự liên kết giữa các ý hợp lí hơn.  ­ Bài “Quà của bố” (tr107­sgk) Câu  hỏi  3:   “Những từ   ngữ   nào, câu  nào  cho  thấy  các  con  rất thích  những món quà của bố?” thay thành 2 câu: “Khi nhận được những món  quà của bố, các bạn nhỏ cảm thấy thế nào? Từ và câu nào cho con biết   điều đó?” ­ Bài “Gà tỉ tê với gà “ (tr 142­sgk) Câu hỏi 2 khó với học sinh do cách hỏi không tường minh. Giáo viên  thay bằng 3 câu hỏi: “Gà mẹ  báo cho con biết không có gì nguy hiểm   bằng cách nào? Gà mẹ báo cho gà con biết có mồi ngon bằng cách nào?  Gà mẹ báo cho gà con biết có tai họa bằng cách nào?” ­ Bài “Nội quy đảo Khỉ” (tr 44­sgk) Câu hỏi 2: “Em hiểu những điều quy định nói trên như  thế  nào?” Câu  hỏi này không tường mình, chưa rõ ý. Vậy cần thay câu hỏi này thành:  Những điều trong nội quy yêu cầu du khách lên đảo phải thực hiện  những việc gì?” ­ Bài “Bé nhìn biển” (tr 65­sgk) 13 / 43
  14. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới Câu hỏi 1 và 2: “Tìm những câu thơ  cho thấy biển rất rộng? Những   hình  ảnh nào cho thấy biển giống trẻ con?” không phát triển năng lực  cho HS vì trong câu hỏi đã nêu luôn ý chính của bài. Cần sửa 2 câu hỏi   này thành: “Tìm những câu thơ  tả cảnh biển, bãi biển, sóng biển? Qua  những câu thơ trên, em có cảm nhận gì về biển?” ­ Bài “Cháu nhớ Bác Hồ” (tr105­sgk) Câu 2: “Vì sao bạn nhỏ  phải cất thầm  ảnh Bác?” và câu 3: “Hình  ảnh   của Bác hiện lên như thế nào qua 8 dòng thơ đầu?” nên đảo vị trí câu 3  hỏi trước, câu 2 hỏi sau. Câu 4: “Tìm những chi tiết nói lên tình cảm  kính yêu Bác Hồ của bạn nhỏ?” nên thay bằng câu hỏi phát triển năng   lực hơn: “Qua bài thơ con thấy tình cảm bạn nhỏ dành cho Bác Hồ như  thế nào?” ­ Bài “Lượm” (tr131­sgk) Câu hỏi 1: “Tìm những nét ngộ nghĩnh, đáng yêu của Lượm trong 2 khổ  thơ đầu?” thay thành: “Trong 2 khổ thơ đầu chú bé Lượm được miêu tả  như thế nào? Qua những hình ảnh đó em có nhận xét gì về Lượm?” 3. Sử dụng các kĩ thuật dạy học mới để hướng dẫn tìm hiểu bài: Trong dạy học hiện nay, việc sử dụng các kĩ thuật dạy học mới đã bắt  đầu phổ  biến  ở  các nhà trường, các lớp học. Việc áp dụng các kĩ thuật dạy   học mới vừa có tác dụng phát triển năng lực cho học sinh, tạo điều kiện cho   HS được hoạt động, đồng thời mang lại sự  tươi mới, hấp dẫn cho tiết học.   Những kĩ thuật dạy học thường được áp dụng nhiều nhất trong các tiết Tập   đọc là: kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật sử  dụng sơ đồ  tư  duy.   3.1. Kĩ thuật khăn trải bàn: Là hình thức tổ  chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt  động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm: ­ Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực ­ Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS ­ Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn” ­ Hoạt động theo nhóm (4 học sinh / nhóm) (có thể nhiều học sinh hơn) ­ Mỗi học sinh ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa ­ Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...) 14 / 43
  15. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới ­ Viết vào ô mang số  của bạn câu trả  lời hoặc ý kiến của bạn (về  chủ  đề...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút ­ Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và   thống nhất các câu trả lời ­ Viết những ý kiến chung của cả  nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn   (giấy A0) Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật “Khăn trải bàn” ­ Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả  hơn, mỗi học sinh   đều phải đưa ra ý kiến của mình về  chủ  đề  đang thảo luận, không  ỷ  lại vào các bạn học khá, giỏi. ­ Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ  đề  nhỏ  trong  tiết học, toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề. ­ Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy  “khăn trải bàn” lên bảng để  cả  lớp cùng nhận xét. Có thể  dùng giấy  nhỏ hơn, dùng máy chiếu phóng lớn ­ Có thể  thay số  bằng tên của học sinh để  sau đó giáo viên có thể  đánh  giá được khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu. 15 / 43
  16. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới Trong dạy học Tập đọc, tôi thường sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn trong   phần tìm hiểu bài, với những câu hỏi khó. Ví dụ: ­ Bài “ Làm việc thật là vui” (tr16­sgk): Câu hỏi 1: “Các vật và con vật xung quanh ta làm những việc gì?”. Đây  là câu hỏi bao quát gần như nội dung cả bài, để trả lời câu hỏi này, HS  phải tìm nhiều ý trong bài nên rất có thể tìm thiếu, tìm sai. Vì vậy, với   câu hỏi này giáo viên cho HS làm việc cá nhân trong 2 phút: đọc thầm,  tìm ý và gạch vào sgk. Sau đó HS thảo luận nhóm 3 phút: nêu các ý mà   mình tìm được. Nhóm sẽ  tổng hợp các ý kiến cá nhân thành ý kiến  chung để trình bày. ­ Bài “Cây dừa” (tr 89­sgk) Câu hỏi 1: “Các bộ phận của cây dừa (lá, ngọn, thân, quả) được so sánh   với những gì?” Đây là câu hỏi khó và có nhiều hình  ảnh so sánh cần  tìm, nếu học sinh trả  lời cá nhân thì sẽ  không trả  lời đầy đủ. Vì vậy,   giáo viên cho học sinh làm việc các nhân 2 phút, tìm các hình  ảnh so  sánh và gạch vào sách. Sau đó các em sẽ  thảo luận nhóm trong 2 phút   nữa để tổng hợp ý kiến chung. 3.2. Kĩ thuật mảnh ghép: Là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết  giữa các nhóm nhằm: ­ Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề) ­ Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh: ­ Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ  hoàn  thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và   hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2). *Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép” VÒNG 1: Nhóm chuyên gia ­ Hoạt động theo nhóm 3 đến 8 học sinh [số  nhóm được chia = số  chủ  đề x n (n = 1,2,…)] ­ Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ  [Ví dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ  A;  nhóm 2: nhiệm vụ  B, nhóm 3: nhiệm vụ  C, … (có thể  có nhóm cùng   nhiệm vụ)] 16 / 43
  17. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới ­ Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về  câu  hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình. ­ Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều  trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở  thành  “chuyên gia” của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày lại câu  trả lời của nhóm ở vòng 2 VÒNG 2: Nhóm các mảnh ghép ­ Hình thành nhóm 3 đến 6 học sinh mới (1 – 2 học sinh từ nhóm 1, 1 – 2  học sinh từ nhóm 2, 1 – 2 học sinh từ nhóm 3…) ­ Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên trong nhóm  mới chia sẻ đầy đủ với nhau ­ Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả  nội dung  ở  vòng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết ­ Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả *Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật “Các mảnh ghép” ­ Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với nhiều chủ đề nhỏ  trong  tiết học, học sinh được chia nhóm  ở  vòng 1 (chuyên gia) cùng nghiên  cứu một chủ đề. ­ Phiếu học tập mỗi chủ đề nên sử dụng trên giấy cùng màu có đánh số  1,2,…,n (nếu không có giấy màu có thể đánh thêm kí tự A, B, C, ... . Ví  dụ A1, A2, ... An, B1, B2, ..., Bn, C1, C2, ..., Cn) ­ Sau khi các nhóm  ở  vòng 1 hoàn tất công việc giáo viên hình thành  nhóm mới (mảnh ghép) theo số  đã đánh, có thể  có nhiều số  trong 1   nhóm mới. Bước này phải tiến hành một cách cẩn thận tránh làm cho  học sinh ghép nhầm nhóm 17 / 43
  18. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới ­ Trong điều kiện phòng học hiện nay việc ghép nhóm vòng 2 sẽ  gây  mất trật tự. Trong dạy học Tập đọc, tôi thường sử  dụng kĩ thuật mảnh ghép trong  phần tìm hiểu bài, với những câu hỏi có nhiều ý. Ví dụ: ­ Bài “Tìm ngọc” (tr 139­sgk) Câu hỏi 3: “Mèo và Chó đã làm thế nào để lấy lại viên ngọc? a. Ở nhà người thợ kim hoàn. b. Khi ngọc bị cá đớp mất. c. Khi ngọc bị quạ cướp mất. Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm: Nhóm 1,2 trả lời ý a. Nhóm  3,4 trả  lời ý b. Nhóm 5,6 trả  lời ý c ­ Đây chính là giai đoạn nhóm  chuyên sâu. Sau đó đại diện nhóm trình bày câu trả lời của nhóm mình ­  Đây là giai đoạn nhóm mảnh ghép nhưng thay đổi  ở  chỗ: các nhóm  chuyên sâu không tách nhóm để lập thành nhóm mảnh ghép mà trình bày  luôn trước lớp để cả lớp theo dõi. ­ Bài “Vè chim” (tr 28­sgk) Câu hỏi 2: “Tìm những từ ngữ được dùng: a. Để gọi các loài chim. b. Để tả đặc điểm của các loài chim. Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm: Nhóm 1,2,3 thảo luận ý a.  Nhóm 4,5,6 thảo luận ý b. Sau đó đại diện 2 nhóm báo cáo trước lớp.   (như cách tổ chức ở bài “Tìm ngọc”) 3.3. Kĩ thuật sử dụng sơ đồ tư duy: Lược đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm  trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế  hoạch hay kết quả  làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ  tư duy có thể được   viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính. *Cách tiến hành ­ Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề. ­ Từ  chủ  đề  trung tâm, vẽ  các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết   một khái niệm, phản  ánh một nội dung lớn của chủ   đề, viết bằng  CHỮ  IN HOA. Nhánh và chữ  viết trên đó được vẽ  và viết cùng một  18 / 43
  19. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề  trung tâm. Chỉ  sử  dụng các  thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh. ­ Từ  mỗi nhánh chính vẽ  tiếp các nhánh phụ  để  viết tiếp những nội  dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ  trên nhánh phụ  được viết bằng   chữ in thường. ­ Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. *Một vài ý kiến cá nhân: Lược đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau như: ­ Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề; ­ Trình bày tổng quan một chủ đề; ­ Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng; ­ Thu thập, sắp xếp các ý tưởng; ­ Ghi chép khi nghe bài giảng. *Ưu điểm của kĩ thuật này là: ­ Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu; ­ Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng; ­ Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại; ­ Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng. Trong dạy học Tập đọc, tôi thường sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy trong  phần tìm hiểu bài để chốt ý từng đoạn và chốt ý toàn bài. Ví dụ: 19 / 43
  20. Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới ­ Bài “ Chuyện bốn mùa” (tr5­sgk): Ấp ủ mầm sống Giấc ngủ Đâm chồi, nảy ấm lộc MÙ Bếp lửa nhà MÙA A Cây lá tươi tốt sàn ĐÔN XU G ÂN BỐ N Đơm trái ngọt, hoa MÙ thơm Bưởi chín A vàng MÙ MÙ A A HẠ Được nghỉ Trăng rằm rước đèn TH hè phá cỗ U Trời xanh cao Ngày tựu trường ­ Bài “Cây xoài của ông em” (tr90­sgk) ­ Bài “Sông Hương” (tr73­sgk)  ­ 20 / 43
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2