
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn giải các bài toán điển hình ở lớp 3
lượt xem 1
download

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm bâng cao chất lượng bồi dưỡng thường xuyên cho GV và HS, HS nắm vững kiến thức đối với các bài toán điển hình ở lớp 3; Có kế hoạch giảng dạy rõ ràng đối với Toán lớp 3 nói riêng và các môn học khác nói chung; Giúp học sinh có lòng say mê, yêu thích môn học, có hứng thú học tập cao để tránh tình trạng HS uể oải trong giờ học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn giải các bài toán điển hình ở lớp 3
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Năm học 2022 – 2023 là năm đầu tiền thực hiện chương trình GDPT 2018, một năm học tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục. Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của việc lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh trong học tập. Quá trình dạy học Toán lớp 3 góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ năng vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có để tìm ra con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong qua trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải.Từ đó không thể nói mọi học sinh đều tiếp thu kiến thức được như nhau. Trong điều kiện học tập như nhau, có học sinh có thể nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần một sự cố gắng đặc biệt, trong khi các em khác lại không đạt được kết quả như vậy mặc dù cố gắng nhiều, đó chính là các em học chậm về môn toán.Vậy làm thế nào để giúp những học sinh chậm về môn toán có thể tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu chương trình và sách giáo khoa quy định. Đó là điều không chỉ bản thân chúng tôi trăn trở suy nghĩ mà còn là nỗi lo chung của toàn bộ giáo viên khi trong lớp mình có những học sinh chậm tiêp thu kiến thức của môn toán. Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặt khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh chậm thì sẽ làm cho các em 1
- tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Chính vì lý do đó tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3.” 2. Phạm vi và đối tượng thực hiện - Học sinh lớp 3 trường Tiểu hoc…. 3. Mục đích biện pháp - Nâng cao chất lượng bồi dưỡng thường xuyên cho GV và HS, HS nắm vững kiến thức đối với các bài toán điển hình ở lớp 3. - Có kế hoạch giảng dạy rõ ràng đối với Toán lớp 3 nói riêng và các môn học khác nói chung. - Giúp học sinh có lòng say mê, yêu thích môn học, có hứng thú học tập cao để tránh tình trạng HS uể oải trong giờ học. PHẦN NỘI DUNG 1. Nội dung các biện pháp của tác giả đã thực hiện Biện pháp 1: Dạy học phân hóa đối tượng học sinh: Đối với biện pháp này Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát đánh giá nhận thức của các em , để biết được em nào nhận thức tốt em nào khá và em nào còn chậm. Sau đó tôi chọn lọc được nhóm học sinh chưa hoàn thành về môn Toán trong chương trình lớp 3 để có phương pháp theo dõi giúp đỡ các em suốt quá trình học tập. Đối với những em đọc chưa tốt tôi xếp vào một nhóm để tiện theo dõi Đối với học sinh lớp 3 là lớp giữa cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em chưa cao. Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, môn học xếp loại chưa hoàn thành khi điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao. 2
- Đối tượng học sinh chưa hoàn thành thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít quan tâm đến việc học. Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục: Đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, chất lượng đầu vào. Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Biện pháp 2: Biện pháp phụ đạo HS chưa hoàn thành bài học trong môn Toán về các dạng toán điển hình. Hàng ngày tôi dành ra 15 phút đầu giờ truy bài để kèm cặp thêm những em chưa hoàn thành môn Toán, tôi đến sớm hơn và lên lớp để hướng dẫn các em các dạng bài tập cơ bản trong chương trình và giảng dạy theo kế hoạch đã định. Ví dụ: Các dạng toán điển hình như rút về đơn vị, giải toán liên quan đến yếu tố hình học, đại số… Trong những đợt thao giảng, dự giờ của giáo viên ở trường và qua thăm các lớp khối 3 tôi nắm được chất lượng của học sinh, tôi nhận thấy việc dạy học dạng toán rút về đơn vị là hết sức cần thiết. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các con còn hạn chế về mặt suy luận, phân tích việc dạy “Toán rút về đơn vị ” góp phần giúp học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng quan sát, trí tưởng tượng cao và kỹ năng thực hành số học đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt môn toán ở các cấp học cao hơn. - Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán: Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: 3
- * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. * Bước 2: Tóm tắt đề toán. * Bước 3: Phân tích bài toán. * Bước 4: Viết bài giải. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. * Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc đề toán ít nhất 3 lần, mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những“dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. * Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh: * Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. * Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. * Cách 3: Tóm tắt bằng hình tượng trưng. * Cách 4: Tóm tắt bằng kẻ ô...... Tuy nhiên tôi luôn hướng dẫn các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ nhất, điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài. 4
- * Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?..... Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. * Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. * Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong là khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 5
- - Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân (kiểu bài 1): Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau: *Kiểm tra bài cũ: * Bài mới: * Luyện tập: * Củng cố dặn dò: Cụ thể: Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau: * Kiểm tra bài cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi ra đề như sau: “Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mật ong?” Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau: Bài giải. Bảy can như vậy chứa được số lít mật ong là: 5 x 7 = 35 ( l) Đáp số: 35 lít mật ong. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học (gấp một số lên nhiều lần) và giải thích cách làm (lấy số đó nhân với số lần), đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của cách giải một bài toán. * Bài mới: * Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em sẽ được học. 6
- * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài. - Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán (sử dụng phương pháp hỏi đáp): + Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can). + Bài toán hỏi gì? ( mỗi can chứa bao nhiêu lít mật ong). + Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng: 7 can : 35 l mật ong 1 can : ... l mật ong ? - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán. - Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài. - Giáo viên đưa bài giải đối chiếu. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (l) Đáp số: 5 lít mật ong. - Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm mỗi can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? ( phép tính chia). - Giáo viên giới thiệu: Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong mỗi can, để tìm được số lít mật ong trong mỗi can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần bằng nhau. - Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như: Bài 1: Có 300 kg gạo chia đều vào 5 bao. Hỏi mỗi bao gạo như thế đựng được bao nhiêu ki - lô - gam gạo? + Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề toán và nêu miệng phần tóm tắt và giải bài toán: 7
- Tóm tắt Bài giải 5 bao: 300kg Số ki-lô-gam gạo chứa trong mỗi bao là:: 1 bao:…… kg gạo? 300 : 5 = 60 (kg) Đáp số: 60 kg gạo. Bài 2: Có 15 kg đậu chia đều vào 3 túi. Hỏi mỗi bao như thế đựng được bao nhiêu ki-lô-gam đậu? Tóm tắt Bài giải 3 túi : 15 kg Số đậu đựng trong mỗi túi là: 1 túi : ….. kg đậu? 15 : 3 = 5 (kg) Đáp số : 5 kg đậu * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật ong? - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài: đọc cá nhân, đọc đồng thanh. - Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán. - Giáo viên ghi bảng (Phương pháp hỏi đáp) 7 can : 35 lít 2 can : ? lít. - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: (Phương pháp hỏi đáp) + Bài toán cho biết gì ? (7 can chứa 35 lít mật ong) + Bài toán hỏi gì ? (2 can chứa bao nhiêu lít mật ong) + Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? (mỗi can chứa được bao nhiêu lít mật ong) + Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong mỗi can? (Lấy số lít mật ong trong 7 can chia cho 7). + Yêu cầu học sinh nhẩm ngay số lít mật ong trong mỗi can: ..l ? (35 : 7 = 5 lít) + Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can. (Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2). 8
- - Học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (l) Số lít mật ong có trong hai can là: 5 x 2 = 10 (l) Đáp số:10 lít mật ong. - Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị ( Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.) - Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1: Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: + Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị (giá trị một phần trong các phần bằng nhau) - Thực hiện phép chia. + Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại (giá trị của nhiều phần bằng nhau) - Thực hiện phép nhân. - Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng. - Giáo viên ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích cách làm Bài 1: Có 45 kg ngô chia đều trong 3 túi. Hỏi với 8 túi như thế đựng được bao nhiêu ki-lô-gam ngô? Tóm tắt Bài giải 3 túi : 45 kg Số ki-lô-gam ngô có trong mỗi túi là: 8 túi : …kg ngô? 45 : 3 = 15 ( kg) Số ki-lô-gam ngô có trong 8 túi là: 15 x 8 = 120 ( kg) Đáp số: 120 kg ngô Bài 2: Có 20 gói bánh đựng trong 4 thùng. Hỏi 12 thùng như thế đựng được bao nhiêu gói bánh? 9
- Tóm tắt Bài giải 4 thùng : 20 gói. Số gói bánh đựng trong mỗi thùng là: 12 thùng :….gói bánh ? 20 : 4 = 5 (gói) Số gói bánh đựng trong 12 thùng là: 5 x 12 = 60 ( gói) Đáp số: 60 gói bánh Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập. * Luyện tập: Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần thay đổi hình thức luyện tập. Chẳng hạn có ba bài tập thì có thể chọn các hình thức như sau: Bài 1: - Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau đó 1 học sinh tóm tắt và giải bài toán trên bảng, cả lớp làm vào vở. - Củng cố bước rút về đơn vị. - Củng cố các bước giải bài toán này. Bài 2: - Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi. - Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng – Giáo viên kiểm tra các kết quả của cả lớp. - Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị. - Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán. Bài 3: Hướng dẫn học sinh làm bài cá nhân...... * Củng cố dặn dò: - Học sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị (kiểu bài 1) - Giao thêm bài về nhà dạng tương tự để hôm sau kiểm tra. - Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, giáo viên đều củng cố cách làm ở kiểu bài đó là: Bài giải được thực hiện qua 2 bước: 10
- Bước 1: ( Bước rút về đơn vị) : Tìm giá trị 1 đơn vị (Giá trị 1 phần). Thực hiện phép tính chia. Bước 2: Tìm nhiều đơn vị (từ 2 trở lên) . Thực hiện phép nhân. + Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị (nhiều phần). - Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2. - Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài : Để học sinh luyện tập tốt 2 kiểu bài này, tôi đã hướng dẫn các em so sánh các bước giải và nhận ra đặc điểm của mỗi kiểu bài: Các Kiểu bài 1 Kiểu bài 2 bước ( Tìm giá trị của các phần) ( Tìm số phần) 1 -Tìm giá trị của 1 phần: ( phép -Tìm giá trị của 1 phần: ( phép chia) (Đây là bước rút về đơn vị) chia) (Đây cũng là bước rút về đơn vị) 2 -Tìm giá trị của 1 phần -Tìm số phần. (phép nhân) (Phép chia) Lấy giá trị 1 phần nhân với số Lấy giá trị các phần chia cho giá phần trị 1 phần. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và giải các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song song với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau 11
- mỗi lần luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc các em không còn nhầm lẫn nữa. - Không nắm được cấu tạo số tự nhiên ( cách đặt tính)… Trong lớp chủ nhiệm có một số em thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắt). Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện. Ôn lại các cách đặt tính. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng. Ví dụ: 235 + 345 Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có 2 chữ số với số có 3 chữ số. Ví dụ: 46 +123 Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ lớn đến nhỏ, thì mới tính toán chính xác được. Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thành thạo dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng. 12
- Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần: Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản. Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ luyện vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em. Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, nhờ giáo viên giúp đỡ khi cần. Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước bài mới. Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời. Tóm lại: Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành 13
- nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học. Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao. - Đối với dạng bài giải toán có lời văn: Đưa ra những biện pháp tích cực nhất để rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3, qua đó giúp học sinh lớp 3 từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận logic,... Hướng dẫn học sinh giải cụ thể một số bài toán, dạng toán có lời văn ở lớp 3 , từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy - học giải toán có lời văn. Đồng thời phục vụ cho công tác giảng dạy của bản thân tôi trong năm học 2020-2021 nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học. Qua kết quả khảo sát cho thấy những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh thực hiện giải bài toán sai là do: Do nhầm lẫn trong thực hiện phép tính, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do kĩ năng nhận dạng toán, kỹ năng phân tích tóm tắt và giải các bài toán có lời văn của các em còn nhiều hạn chế. Phân tích tóm tắt bài toán chính là phản ánh sự hiểu bài và làm bài của các em. Em nào tóm tắt được bài toán thì khả năng làm bài giải đúng sẽ cao hơn. Chính vì thực trạng này đặt ra là: Dạy giải toán có lời văn như thế nào để các em ngoài việc nắm được kiến thức thì phải có kỹ năng giải những dạng bài tương tự như nhau. Và kỹ năng đó được nâng cao dần theo thời gian rèn luyện có như vậy mới nâng cao chất lượng dạy - học. 14
- Việc phối kết hợp nhịp nhàng giữa nội dung chương trình các em đang học trên lớp, với chương trình thực hành luyện tập là một phương pháp luyện tập thực hành thật sự mang lại hiệu quả. Các em tham gia thực hành nhiều thì kĩ năng nhận dạng và phân tích đề chính xác, tư duy logic hơn. - Hướng dẫn học sinh thực hiện các bước giải một bài toán có lời văn. * Ví dụ: Ba em Mai,Hoa ,Hưng, lần lượt cân nặng là 36kg, 38kg,40kg,.Hỏi ba em cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? Bước1: Tìm hiểu đề - Cho học sinh tự đọc đề bài nhiều lượt. - Hướng dẫn học sinh nắm các dữ liệu bài toán. + Bài toán cho biết gì? Ba em Mai,Hoa ,Hưng, lần lượt cân nặng là 36kg, 38kg,40kg + Bài toán yêu cầu tìm gì? Hỏi ba em cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? - Tóm tắt: Mai: 36kg Hoa:38kg Hưng: 40kg 3em:... kg? Bước 2: Lập kế hoạch giải Muốn tìm trung bình mỗi em bao nhiêu kg ta làm thế nào? (Ta lấy số cân nặng của 3 em cộng với nhau Bước 3: Giải bài toán Bài giải Trung bình mỗi em nặng số kg là: 36+38+40 = 104 kg Đáp số: 104kg 15
- - Dạy bài toán gấp một số lên nhiều lần: Mục tiêu: Giúp HS nắm vững các bước giải toán cơ bản của dạng toan gấp một số lên nhiều lần Cách thực hiện: Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào cácphương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. * Bước 2: Tóm tắt đề toán. * Bước 3: Phân tích bài toán. * Bước 4: Viết bài giải. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: * Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc đề toán ít nhất 3 lần, mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những“dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. * Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh: 16
- + Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. + Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. + Cách 3: Tóm tắt bằng hình tượng trưng. + Cách 4: Tóm tắt bằng kẻ ô...... Tuy nhiên tôi luôn hướng dẫn các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ nhất, điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài. * Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?..... Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. * Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. Ví dụ: Bài toán: Đoạn thẳng AB dài 2cm , đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB. Hỏi đoạn thẳng CD dài mấy xăng –ti-mét? Tóm tắt: A B C D Bài giải: 17
- Độ dài đoạn thẳng CD là: 2 x 3 = 6 (cm) Đáp số: 6 cm GV khắc sâu: Muốn gấp một số lên nhiều lần ta lấy số đó nhân với số lần. - Sử dụng phương pháp dạy học trực quan trên sơ đồ đoạn thẳng. Mục tiêu: Mang lại hiệu quả về việc lĩnh hội tiếp thu kiến thức một cách lâu hơn , sâu hơn. HS phát huy hết được năng lực học tập. Chủ động sáng tạo trong giải toán. Cách thực hiện: Sau khi đã nắm được các bước cơ bản để giải bài toán ở giải pháp 1. GV dẫn dắt HS thảo luận nhóm trao đổi để tìm ra phương pháp Ưu Việt nhất có thể áp dụng trong dạng bài toán này. Đây cũng chính là giải pháp quan trọng và cần thiết đê phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, tư duy trực quan cho HS lớp 3 . Ví dụ: Dạng bài toán giải bằng 2 phép tính Bể thứ nhất có 4 con cá .Bể thứ hai có nhiều hơn bể thứ nhất 3 con cá .Hỏi cả hai bể có bao nhiêu con cá.? Áp dụng Giải pháp 1 trong toàn bộ quá trình giải bài toán. + Bước 1: Đọc kĩ đề toán: HS đọc 2,3 lượt + Bước 2: Tóm tắt đề toán: Trong bước 2 áp dụng giải pháp 3. HS vẽ sơ đồ đoạn thẳng theo dữ liệu đề bài. Tóm tắt : 4con Bể thứ nhất 3 con ? con cá Bể thứ hai + Bước 3: Phân tích bài toán. 18
- Đề bài cho: Bể thứ nhất có 4 con cá .Bể thứ hai có nhiều hơn bể thứ nhất 3 con cá Tìm :cả hai bể có bao nhiêu con cá.? + Bước 4: Viết bài giải. Bài giải Bể thứ hai có số con cá là: 4 + 3 = 7 (con cá) Ca hai bể có số con cá là: 4 + 7= 11 (con cá) Đáp số: 11 con cá. Biện pháp 3: Biện pháp phụ đạo HS chưa hoàn thành trong các buổi ngoài giờ lên lớp. Ngoài việc giảng dạy trên lớp vào giờ chính tôi đã xin phép ban giám hiệu nhà trường cho tổ chức giúp đỡ các em học yếu luyện tập thêm vào các buổi trống như các buổi chiều hay là thứ 7 hàng tuần . Giành thêm thời gian cho các em luyện các dạng toán để các em có thể bắt nhịp được với việc học trên lớp cùng các bạn Đối với những buổi học đó tôi cũng tiến hành lập kế hoạch bồi dưỡng phụ đạo bằng việc có giáo ánn giảng dạy rõ ràng . Tôi xác định từng điểm yếu của các em để kịp thời uốn nắn. Với các buổi học đó hoàn toàn không thu phí , bản thân tôi muốn giúp đỡ các em nâng cao chất lượng học Toán Biện pháp 4: Biện pháp tác động giáo dục khác + Xây dưng đôi bạn cùng tiến trong học tập - Giữa học kỳ I, tôi tiến hành xây dựng cho lớp “đôi bạn cùng tiến”: Bạn giỏi kèm bạn chưa hoàn thành môn Toán, bạn giỏi sẽ dò bài cho bạn chưa hoàn thành môn Toán vào đầu giờ học và đầu giờ buổi chiều. Từ những điều học sinh giỏi tiếp thu được các em sẽ ghi nhớ rất sâu và truyền thụ lại cho bạn một cách 19
- dễ tiếp thu hơn. Đồng thời khi bạn giỏi kèm mình cũng khích lệ các em chưa hoàn thành môn Toán phải cố gắng học để không thua bạn. - Tôi thường xuyên kiểm tra việc dò bài của các em. Thời gian đầu tôi theo sát từng cặp, quan sát để kịp thời uốn nắn, hướng dẫn cho các em. Tôi sắp xếp chỗ ngồi hợp lý để học sinh giỏi thực hiện nhiệm vụ một cách dễ dàng đưa ra tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm. Cuối tháng tôi ra đề kiểm tra xem các em tiến bộđến mức nào. Tôi tiếp tục rèn để các em nắm chắc hơn. Đồng thời, tôi thường xuyên động viên, khuyến khích và tuyên dương những đôi bạn làm việc tích cực và có tiến bộ. +Nêu gương và khen thưởng - Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi đã thường xuyên động viên khích lệ các em HS chưa hoàn thành môn Toán có tiến bộ - Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện cha mẹ HS về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:. - Tặng một phần quà cho HS chưa hoàn thành môn Toán nếu có tiến bộ rõ rệt trong từng tuần - Sau mỗi tuần thi đua, đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm. Sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng. - Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng. - Ngoài ra, lớp tôi còn tổ chức sinh nhật cho các em theo tháng để tạo không khí vui vẻ và thân thiện khi các em tới trường. 2.4. Kết quả đạt được: 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p |
462 |
67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p |
249 |
30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3
27 p |
192 |
24
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p |
225 |
21
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p |
185 |
17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p |
172 |
16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p |
197 |
16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p |
145 |
15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p |
194 |
14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p |
144 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p |
185 |
10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p |
128 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p |
154 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p |
154 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p |
170 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p |
206 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp huấn luyện chạy cự ly ngắn cho học sinh
14 p |
117 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trường Tiểu học Cổ Đô
40 p |
35 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
