intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt hiệu quả

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

13
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt hiệu quả" với mục tiêu tìm hiểu thực trạng việc dạy học toán có lời văn lớp 2 và đưa ra các biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 trong nhà trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt hiệu quả

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH QUỲNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN ĐẠT HIỆU QUẢ Lĩnh vực : Toán Cấp học : Tiểu học Tên tác giả: Hoàng Thị Thảo Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh Chức vụ: Giáo viên NĂM HỌC 2022 – 2023
  2. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Cùng với các môn học khác ở Tiểu học, môn Toán có một vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng cần thiết cho người lao động, cần thiết cho các môn học khác. Nó góp phần to lớn vào sự phát triển tư duy, trí tuệ của con người. Đồng thời góp phần hình thành các phẩm chất cần thiết, quan trọng cho người lao động.Trong những năm gần đây, xu thế chung của ngành giáo dục cũng đang đổi mới về phương pháp dạy học, về cách đánh giá nhằm phát huy tính tích cực.Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Chương trình Toán lớp 2 đang có nhiều thay đổi theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo đó đối với môn Toán trong giáo trình Toán lớp 2 mới vẫn bao gồm các kiến thức sau: Số tự nhiên, hình học, toán giải, đo lường. Chương trình Toán lớp 2 có nhiều thay đổi so với phiên bản hiện hành, được cập nhật và phổ biến trên toàn quốc. Điều này giúp giáo viên có thể đánh giá chất lượng toàn diện của học sinh và là điều kiện tiên quyết để xét lên lớp Mỗi phần kiến thức trong chương trình mới đều được đặt trong một mạch nhất định xen kẽ và bổ sung cho nhau nhằm nỗ lực đạt được sự thống nhất và hoàn chỉnh tương đối. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thay đổi trình độ môn Toán tương ứng với lứa tuổi của học sinh lớp 2. Nội dung chương trình Toán lớp 2 mới được biên soạn theo định hướng kết nối tri thức với cuộc sống trong đó đảm bảo tính cơ bản sáng tạo và dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản: đáp ứng các yêu cầu chung đối với sách giáo khoa mới, truyền tải thông điệp" kết nối tri thức với cuộc sống", kế thừa các ưu điểm của bộ sách giáo khoa trong nước và quốc tế, đổi mới phương pháp giảng dạy. Một số điểm mới của giáo trình Toán lớp 2 mới cụ thể như: Về cấu trúc nội dung của chương trình Toán 2 mới so với chương trình Toán lớp 2 hiện hành có một số điểm đổi mới căn bản khi thiết kế các nội dung theo chủ đề thay vì tiết học. Cách tiếp cận này sẽ giúp giáo viên linh hoạt hơn trong phương pháp giảng dạy tùy vào tình hình thực tế của lớp học. Xây dựng tuyến nhân vật xuyên suốt Theo nội dung chương trình Toán Học lớp 2, sách sẽ xây dựng tuyến nhân vật xuyên suốt cả giáo trình. Điều này giúp học sinh cảm thấy gần gũi và tương tác
  3. nhiều hơn với cuốn sách. Các nhân vật trong chương trình Toán lớp 2 mới bao gồm hai chị em Mai, Mi và hai bạn Việt và Nam học cùng lớp với Mai, bạn Robot - nhân vật đặc biệt rất thông minh và tinh nghịch. Các nhân vật trong bộ sách mới sẽ lớn lên theo từng lớp và trở thành những người bạn thân thiết của mỗi học sinh trong những năm tháng học trò. Hỗ trợ đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học Tiếp đến chương trình học toán lớp 2 mới sẽ hỗ trợ phương pháp và thay đổi hình thức tổ chức dạy học. Nội dung của sách giáo khoa toán lớp 2 được lồng ghép nhiều hoạt động và các trò chơi giúp cho giáo viên cùng học sinh có thể trải nghiệm, tổ chức lớp học một cách đa dạng, góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy và học. Lồng ghép tích hợp nội môn và liên môn Không chỉ có nội dung toán học, chương trình Toán lớp 2 mới lồng ghép giữa bo mạch kiến thức, nhằm giúp học sinh củng cố các kiến thức, kĩ năng toán học một cách bền vững. Đồng thời, nhiều nội dung của các môn như lịch sử, văn học, đạo đức, địa lý, văn hóa, khoa học và công nghệ đều được lồng ghép, không chỉ giúp học sinh cảm thấy gần gũi mà còn tăng thêm vốn hiểu biết, vốn sống của các em. Minh họa sách được chú trọng Do đặc thù của sách Toán tiểu học đòi hỏi phải đẹp và hấp dẫn nên công tác minh họa đặc biệt được chú trọng. Trong đó, nhiều hình ảnh minh họa trong sách được thiết kế có bối cảnh đảm bảo nội dung Toán học, có tính thẩm mỹ cao, có tính logic, đồng thời còn ẩn chứa nhiều nội dung giáo dục. Cả các chi tiết nhỏ như trang phục, bối cảnh, vùng miền đều được cân nhắc hết sức kỹ lưỡng. Hệ thống bài tập được xây dựng phong phú đa dạng phát triển năng lực nhằm định hướng hỗ trợ công tác kiểm tra và đánh giá, chương trình môn Toán lớp 2 xây dựng hệ thống bài tập vô cùng phong phú, đa dạng. Hiện nay việc đánh giá xếp loại học sinh Tiểu học dựa vào thông tư 27 của Bộ GD&ĐT có rất nhiều điểm mới trong qua trình đánh giá thường xuyên, thông tư không yêu cầu chấm điểm mà chỉ nhận xét và động viên các em. Đây cũng là lý do để giáo viên cần quan tâm tỉ mỉ và thường xuyên hơn với tất cả đối tượng học sinh trong lớp khi học sinh học các môn học trong đó có môn Toán. Năm học 2022 – 2023 tôi được phân công dạy lớp 2A4. Tôi nhận thấy việc dạy các em giải toán có lời văn trong chương trình toán ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2A4 nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn chưa phát triển về mặt suy luận, phân tích. Việc dạy giải toán có lời văn ởTiểu học sẽ góp phần giúp học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng suy luận, và kĩ năng giải toán đặt
  4. nền móng vững chắc cho các em học tốt trong việc giải toán ở các lớp trên.Với những lí do trên tôi đã chọn đề tài: " Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt hiệu quả. " 2. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu thực trạng việc dạy học toán có lời văn lớp 2 và đưa ra các biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 trong nhà trường. 3. Đối tượng nghiên cứu. - Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt hiệu quả. - Những biện pháp giúp học sinh giải tốt các dạng toán có lời văn. 4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp thu thập và xử lí số liệu. - Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm. 5. Phạm vi và thời gian nghiên cứu - Phạm vi: Quá trình dạy môn Toán,lớp 2 năm học 2022 - 2023 - Thời gian: Từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 3 năm 2023
  5. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Môn Toán cấp Tiểu học là một bộ phận trong chương trình môn Toán phổ thông. Môn Toán cấp tiểu học có một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh Tiểu học. Học Toán góp phần hình thành và giáo dục các em nhiều mặt như rèn luyện phương pháp luận, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, tính cần cù chịu khó trong mỗi con người. Môn Toán cấp Tiểu học nhằm trang bị cho các em những kiến thức sơ giản ban đầu về kiến thức toán học, là nền tảng trong hệ thống kiến thức toán học đa dạng và phong phú. Môn Toán lớp 2 là một bộ phận của môn Toán cấp Tiểu học. Môn Toán ở lớp 2 nhằm giúp học sinh bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, phép nhân, phép chia và bảng nhân chia 2; 5 tên gọi các thành phần và mối quan hệ của phép tính,… Trong các bài học của môn Toán thì dạng bài giải toán có lời văn giữ một vai trò rất quan trọng. Thông qua việc giải toán ở tiểu học các em bắt đầu làm quen với nhiều khái niệm toán học cơ bản ban đầu, biết được mối quan hệ giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán, rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, thói quen làm việc có kế hoạch, xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những ưu điểm và khắc phục những mặt còn hạn chế trong học tập và trong các hoạt động giáo dục khác. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng vấn đề Giải toán có lời văn là dạng Toán khó đối với học sinh lớp 2. Vì vậy giáo viên cần có một số biện pháp giúp học sinh giải các bài toán có lời văn đạt hiệu quả. 2.1.1. Thuận lợi: * Về phía giáo viên: - GV được nhà trường trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, đồ dùng, tranh ảnh, tài liệu dạy học. - GV có kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, luôn quan tâm, chú ý rèn luyện khả năng, năng lực cho học sinh. * Về phía học sinh:
  6. - Đa số học sinh ngoan, có ý thức học tập tốt. - HS được PHHS trang bị cho con đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học Toán. 2.1.2. Khó khăn - Học sinh thường nhút nhát, thiếu tự tin, khả năng tiếp thu chậm. - Dạng toán có lời văn là một dạng khó, nhiều em còn ngại làm, lười suy nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết sơ sài. Cách dùng từ đặt lời giải chưa đúng, thực hiện phép tính chưa chính xác, bài giải chưa có sự sáng tạo. - Khảo sát về kỹ năng giải Toán có lời văn qua phiếu kiểm tra đầu năm học hầu hết học sinh chưa đạt điểm cao, đặc biệt là phần giải toán có lời văn. Cụ thể: TSHS Kĩ năng Chưa nắm được Biết cách giải giải chậm cách giải 47 SL % SL % SL % 16 34 20 42,5 11 23,4 Qua bảng số liệu tôi nhận thấy rằng số học sinh biết cách giải toán có lời văn rất ít,trong khi đó số học sinh chưa nắm được cách giải khá nhiều, điều này cho thấy học sinh giải Toán có lời văn rất hạn chế… 2.2. Nguyên nhân Qua tìm hiểu và đánh giá tôi nhận thấy có những nguyên nhân như sau: + Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp… + Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều - phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán. 3. Một số biện pháp giúp học sinh giải toán có lời văn 3.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ nội dung yêu cầu bài toán có lời văn Việc đọc thông thạo, lưu loát là một trong bốn kỹ năng của học sinh cần đạt. Các em muốn học tốt các môn trong đó có môn toán thì các em phải đọc tốt. Để tìm hiểu được nội dung bài toán việc đầu tiên cần phải có đó là học sinh phải đọc thông thạo. Do vậy mà trong các tiết Tiếng Việt tôi đã kết hợp việc đọc đúng, đọc hiểu cho học sinh để các em thuận lợi hơn khi học Toán. Trong các bài toán muốn để học sinh hiểu và giải đúng thì tôi lưu ý hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài toán 2 đến 3 lần với các hình thức như đọc thầm, đọc thành tiếng trước lớp để từ đó học sinh có thể xác định yêu cầu bài: bài toán cho biết
  7. gì? Hỏi gì? Đối với học sinh lớp 2 việc hướng dẫn các em đọc kĩ đề bài toán là việc làm quan trọng vì các em mới ở lớp một lên, các em chỉ đọc thuộc các chữ nhưng chưa hiểu nội dung mình đọc là gì? Bước này trước khi học sinh đọc đề bài toán (thời điểm đầu năm học) giáo viên định hướng để các em đọc mà hiểu chứ không đọc suông. Đối với các bài toán giải giáo viên chuẩn bị các đề bài toán trên bảng phụ ( chuẩn bị đồ dùng dạy học) trong các tiết học Toán. Khi đọc cần giúp học sinh hiểu nghĩa một số từ khóa quan trọng nói lên tình huống toán học bị che lấp bởi cái vỏ ngôn ngữ thông thường như: "ít hơn", "nhiều hơn", tất cả", " cả hai"... khi đọc giáo viên nên gạch chân dưới các từ đó để học sinh dễ nhìn thấy ( đối với thời gian đầu năm học, về sau không cần gạch chân các từ đó). Nếu học sinh chưa hiểu tôi sẽ giúp các em hiểu nghĩa các từ đó. Ví dụ: Bài toán: "Trên thuyền có 12 hành khách, đến bến có 3 hành khách lên thuyền. Hỏi lúc đó trên thuyền có bao nhiêu hành khách?" (Bài 5 trang 20 sách Toán 2 tập một Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống) Đối với các đề toán như thế này giáo viên thực hiện theo các bước sau: + Giáo viên đọc yêu cầu bài toán, khi giáo viên đọc lưu ý nhắc học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên cần thể hiện ngữ điệu gây sự chú ý cho học sinh những yêu cầu bài toán cần giải quyết. + Gọi học sinh đọc lại yêu cầu từ 2 đến 3 em, giảm giản về sau. + Hướng dẫn phân tích giáo viên phải đưa ra một số câu hỏi dẫn dắt để học sinh nhận biết các điều kiện đã có và điều kiện cần phải giải quyết với hệ thống các câu hỏi như sau: ? Bài toán đã cho biết gì? ? Bài toán hỏi gì ? Bài toán yêu cầu tìm gì? Hoặc: Trong bài toán đã cho em biết gì và cần tìm gì?... Ví dụ: Bài toán:
  8. "Mai 7 tuổi, bố 38 tuổi. Hỏi bố hơn Mai bao nhiêu tuổi?" (Bài 3 trang 17 sách Toán 2 tập một Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống) Hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu nội dung bài toán như sau: - Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết Mai 7 tuổi, bố Mai 38 tuổi). - Bài toán yêu cầu làm gì? ( Bài toán yêu cầu tìm bố lớn hơn Mai bao nhiêu tuổi) Đối với hệ thống câu hỏi giáo viên có thể nâng dần lên về sau khi học sinh đã có kĩ năng phân tích đề bài. Tuy nhiên ở bước này giáo viên có thể hướng dẫn các em tự đặt câu hỏi với nhau thông qua thảo luận nhóm ( học sinh có năng lực giúp các em còn hạn chế). Qua đây giúp các em tự tóm tắt bài toán về sau. Lưu ý ở bước này giáo viên nên phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh. Có thể các em đưa ra một số hệ thống câu hỏi khác ý giáo viên nhưng theo suy nghĩ của các em, không nhất thiết phải máy móc rập khuôn theo giáo viên. Thông qua đây giúp học sinh xác định định được đúng yêu cầu bài, nắm rõ cách giải toán và phát huy tính sáng tạo của học sinh. 3.2. Biện pháp 2: Kĩ thuật hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán Sau khi tìm hiểu nội dung yêu cầu bài toán xong giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách tóm tắt bài toán bằng lời, sơ đồ, mẫu vật... để từ đó học sinh có thể xác định được cách giải bài toán. Thời gian đầu giáo viên vừa hỏi học sinh giáo viên vừa tóm tắt trên bảng. Đối với học sinh lớp hai tóm tắt bằng lời và sơ đồ, mẫu vật là thuận lợi cho học sinh nhận diện bài toán. Mức độ nâng dần lên về sau với hình thức học sinh tự đọc hiểu, phân tích và tóm tắt bài toán dưới sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên. Bước tóm tắt bài toán giúp các em nhận diện được bài toán từ đây các em có cơ sở để đặt phép tính đúng cho bài toán.Thông qua hệ thông câu hỏi tìm hiểu nội dung bài toán giáo viên dẫn dắt các em cách tóm tắt cho phù hợp với bài toán. Với dạng bài toán về nhiều hơn giáo viên cần định hướng cho các em tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng để học sinh dễ nhận biết yêu cầu cần tìm và giải quyết vấn đề dựa vào sơ đồ. Ví dụ Bài toán: "Mai 7 tuổi, bố 38 tuổi. Hỏi bố hơn Mai bao nhiêu tuổi?" (bài 3 trang 17 sách toán 2 tập một Kết nối tri thức với cuộc sống) Giáo viên cần dẫn dắt bằng các câu hỏi để học sinh nhận biết đoạn thẳng biểu thị số tuổi của Mai ngắn hơn đoạn thẳng biểu thị số tuổi của bố Mai. Khi vẽ đoạn thẳng biểu thị số tuổi của bố Mai giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu vì sao vẽ đoạn thẳng biểu thị số của bố Mai phải dài hơn đoạn thẳng biểu thị số tuổi Mai bởi vì số tuổi bố Mai nhiều hơn số tuổi của bạn Mai.
  9. Đoạn thẳng thứ nhất để biểu thị số tuổi của Mai, đoạn thẳng thứ hai dài hơn đoạn thẳng thứ nhất biểu thị số tuổi của bố Mai. Lưu ý độ dài các đoạn thẳng phải cân đối và phù hợp. Dạng Toán ít hơn: Bài toán: lớp 2A có 15 học sinh gái, số học sinh trai ít hơn số học sinh gái 3 bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai? Cách hướng dẫn như trên nhưng nâng dần về sau để học sinh tự tóm tắt Cũng có bài toán không tóm tắt bằng sơ đồ mà tóm tắt bằng lời học sinh dễ hiểu hơn. Với các dạng bài toán khác nhau giáo viên tìm cách tóm tắt như thế nào để học sinh dễ hiểu, từ đó học sinh nhìn vào tóm tắt để giải được bài toán đúng và viết phép tính đúng với yêu cầu.
  10. 3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn viết lời giải toán có lời văn và trình bày bài giải 3.3.1. Hướng dẫn giải Toán: Dựa vào tóm tắt bài toán để hướng dẫn học sinh xác định được dạng toán để tìm cách giải phù hợp. Toán lớp 2 thường có các dạng như sau: - Bài toán về nhiều hơn - Toán về ít hơn - Tìm một số trong một tổng Vì vậy khi dạy giải Toán cho học sinh cần hướng dẫn các em có kĩ năng nhận diện bài toán để biết cách đặt phép tính đúng cho bài toán, cách như sau: Sau khi học sinh đọc đề và phân tích bài toán giáo viên cho học sinh biết dạng bài toán bởi những câu hỏi gợi ý và sát với thực tế bài toán yêu cầu. Lưu ý khi hướng dẫn nhận dạng bài toán giáo viên nên dạy theo hệ thống và có logic với tất cả dạng các bài. Các tiết học trên lớp tránh giảng qua loa rồi chỉ cho học sinh biết bài này phải làm phép cộng, trừ, nhân hoặc chia. Việc hướng dẫn học sinh nhận diện dạng toán là nền tảng cho các em học toán và giải toán lên các lớp trên. Từ việc nhận dạng bài toán các em sẽ tư duy tìm ra phép tính đúng cho bài toán. Chẳng hạn như dạng bài toán: " Giải bài toán về nhiều hơn" Thì phép tính đúng của bài toán là phép cộng hoặc dạng :" giải bài toán về ít hơn" thì phép tính đúng cho bài toán đó là phép trừ. Ở lớp hai hầu hết các bài giải chỉ giải bằng một phép tính, không có giải bằng hai phép tính. Bước này giáo viên cần hướng dẫn các em với các dạng câu hỏi để nhận diện bài toán. Ví dụ : Bài toán "Việt đã tô màu 6 bông hoa, còn 4 bông hoa chưa tô màu. Hỏi số bông hoa chưa tô màu kém số bông hoa đã tô màu mấy bông?" (Bài 2 trang 17 sách Toán 2 tập một Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống) Đối với bài toán này sau khi phân tích, tóm tắt học sinh nhận biết được đây là dạng " Giải bài toán về ít hơn". Ở bước này giáo viên nên đặt câu hỏi để học sinh
  11. nhận biết như: Số bông hoa chưa tô màu như thế nào so với số bông hoa đã tô màu? ( Số bông hoa chưa tô màu ít hơn số bông hoa đã tô màu) Đây là bài toán có dạng gì? (Giải bài toán về ít hơn) Thời gian đầu là khó với các em, giáo viên có thể chỉ ra trực tiếp dạng toán và nâng dần về sau. Sau khi học sinh nhận dạng bài toán giáo viên cần hướng dẫn các em tìm cách giải quyết (nêu cách làm) với các câu hỏi như sau: Để tìm số bông hoa chưa tô màu em làm gì? (Ta lấy số bông hoa đã tô màu trừ đi số số bông hoa chưa tô màu) Bước này giáo viên không nên hỏi muốn tìm số bông hoa chưa tô màu em làm phép tính gì? Nếu đặt câu hỏi như thế sẽ không phát huy được tư duy của các em. Trước khi học sinh viết phép tính giáo viên cần Hướng dẫn các em tìm câu lời giải đúng với yêu cầu bài toán. Lưu ý với học sinh bài toán yêu cầu gì mình trả lời thế. Cụ thể bài toán hỏi gì các em chỉ việc gạch bỏ chữ hỏi và viết câu trả lời sau từ hỏi. Ví dụ: Bài toán trên ta viết câu lời giải như sau: Số bông hoa chưa tô màu là: Bông hoa chưa tô màu có: Ở bước này giáo viên không nên máy móc rập khuôn bắt học sinh viết một mẫu lời giải, mà phải để học sinh phát huy tính sáng tạo. Khi học sinh nêu câu lời giải giáo viên cần gọi nhiều học sinh nêu câu lời giải khác và hướng dẫn uốn nắn các em tìm ra câu lời giải chính xác, ngắn gọn. Trong giải Toán có lời văn bước này là bước giúp học sinh phát huy sáng tạo, qua đây giáo viên phát hiện và tìm ra học sinh có năng khiếu về môn Toán. Đồng thời cũng rèn cho các em có kĩ năng giải toán tốt. b. Hướng dẫn trình bày bài giải Hướng dẫn cách trình bày bài giải đây cũng là bước quan trong vì giáo dục học sinh có tính cẩn thận. Đối với bước này giáo viên cần có quy định cụ thể ngày từ đầu năm và tất cả các bài toán giải, để học sinh có thói quen và trở thành kỹ năng khi trình bày bài giải toán, cụ thể như sau: Trước hết viết bài giải giữa vở, viết lời giải phải xuống hàng khi viết từ lề vở trái lùi vào 3 ô, sau đó xuống hàng viết phép tính, phép tính lùi vào 4 ô , đáp số xuống dòng viết lùi vào 5 ô. Ví dụ: Bài giải Số bông hoa chưa tô màu là:
  12. 6 - 4 = 2 ( bông hoa) Đáp số: 2 bông hoa Trong các bài toán không yêu cầu cách trình bày bài giải cụ thể. Nhưng bản thân tôi trong quá trình giảng dạy các năm thì thấy việc trình bày bài bài giải như thế nào cho đẹp cũng rất cần thiết vì vậy thông qua kinh nghiệm bản thân và cách làm của đồng nghiệp tôi tự rút ra cách trình bày bài giải như thế là tối ưu nhất. 3.4. Biện pháp 4: Thực hiện qui định chấm chữa theo thông tư 27 Trong các môn học việc chấm chữa là không thể thiếu, việc chấm chữa có nhiều điểm mới đó là không chấm điểm bài làm học sinh bằng điểm số mà chỉ nhận xét đánh giá. Thông qua nhận xét đánh giá giáo viên sẽ đưa ra biện pháp hỗ trợ cho từng học sinh cụ thể với từng môn học cụ thể. Đây là điều kiện thuận lợi hơn giáo viên giúp đỡ trực tiếp các em trong học tập tốt hơn. Việc chấm chữa không chỉ giáo viên thực hiện mà học sinh cũng tham gia chấm. Học sinh đánh giá nhận xét bài mình làm và bạn làm với nhiều hình thức khác nhau như: Nhận xét bài làm của bạn, đưa ra cách làm của mình, đồng ý với cách làm của bạn... dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên. Trong bước này học sinh hoàn toàn chủ động trong việc chấm chữa bài của mình và bạn mình một cách tích cực. Ví dụ: Ở bài 3 của tiết “Luyện tập” (trang 81, 82), sau khi GV chữa bài của 1 HS trên bảng xong thì GV yêu cầu HS trong lớp đổi chéo vở và chấm, chữa cho nhau dưới sự quan sát của GV. Trong các bước giải toán thì bước chấm chữa không thể thiếu, việc chấm chữa diễn ra song song việc các em làm bài, tránh để học sinh làm xong các bài mới chấm một lần. Nếu làm như vậy học sinh khó phát hiện ra việc mình giải sai ở chỗ nào, nhiều bài quá học sinh sẽ nhầm bài này với bài khác. Từ đó các em sẽ khó nhận biết bài này vì sao sai, bài khác sai ở chỗ nào. .. các trường hợp sai thường rơi vào những học sinh gặp khó khăn trong giải toán, giải còn chậm, lúng túng. Các em sẽ nhận biết cách giải bài tiếp theo đối với các bài đồng dạng tiếp theo. Khi chấm chữa giáo viên cần chấm cụ thể từng em và từng bài cụ thể sai đâu sửa đó. Khi chữa bài giáo viên không nêu phép tính hoặc đọc cho học sinh viết lại bài giải mà cần định hướng, giảng lại để học sinh tự nhận ra điểm sai và tự giải lại. làm như vậy mới phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của các em và các em sẽ nhớ lâu hơn (Toán giải có nhiều câu lời giải khác nhau). Với việc việc chấm chữa theo thông tư 27, GV sẽ nhận xét được một cách chính xác nhất về quá trình học tập môn Toán của học sinh. 3.5. Biện pháp 5: Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập
  13. Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em Hoàn thành Tốt phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập. Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp hai nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“ Lấy học sinh làm trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 - 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học…. Tóm lại:Trongquá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ýđến rèn luyện kỹ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập. 4. Kết quả Qua quá trình giảng dạy môn toán lớp 2 năm học 2022 -2023, tôi nhận thấy học sinh lớp 2A4 nói riêng và học sinh trong khối hai nói chung các em phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Các giải pháp trên bản thân tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên trong khối thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của khối, các giáo viên đã vận dụng và có hiệu quả tốt trong dạy học toán. Giáo viên cùng học sinh luôn luôn hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả tốt. Đa số các em yêu thích học toán, biết tự tìm hiểu và phân tích bài toán. Từ đó các em đã tự tin khi giải các bài toán, viết được các câu lời giải đúng,
  14. có kĩ năng nhận dạng bài toán nhanh hơn so với đầu năm học. Hướng dẫn học sinh giải toán lời văn với những biện pháp cụ thể là một việc mà giáo viên dạy học ở tiểu học nên làm với những giải pháp trên các khối lớp ở cấp Tiểu học có thể vận dụng và nâng dần lên với các lớp học trên. Hiệu quả đề tài cho thấy sự tiến bộ của học sinh được thể hiện qua kết quả sau: số học sinh biết cách giải là 29 em (61,7%), còn lại số học sinh giải chậm là 18 em (38,3%), không còn học sinh chưa nắm được cách giải. Từ kết quả đạt được ở trên , chúng ta thấy rằng:Nếu khi chưa áp dụng các biện pháp đã nêu thì thực trạng ban đầu chỉ có 16 em tỉ lệ 34% có kĩ năng giải thành thạo, còn lại 20 em tỉ lệ 42,5% có kĩ năng giải chậm và có tới 11 em tỉ lệ 23,4% chưa nắm được kỹ năng giải, thế nhưng cuối năm học hiệu quả đạt được khá cao ( bảng 2) đó là số em có kĩ năng giải thành thạo đã có tới 29 em chiếm tỉ lệ 61,7% còn lại 18 em tỉ lệ 38,3 giải hơi chậm một chút, số không nắm được kỹ năng giải toán đã không còn. Từ kết quả thu được ở giải toán có lời văn thì , kết quả đạt được của môn toán cuối năm cũng tiến bộ vượt bậc so với đầu năm. Điều đó chứng tỏ những biện pháp tôi đã vận dụng nêu trên đã thực sự mang lại hiệu quả. KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Việc dạy – học giải toán có lời văn là vấn đề quan trọng trong việc dạy học toán nói chung và dạy học ở dạng này nói riêng . Việc dạy cho học sinh giải toán có lời văn thành thạo không phải là khó song cũng không phải là dễ, làm cho học sinh hiểu được mục đích quan trọng của nó đó là cơ sở ban đầu cho việc tiếp tục học tập của các lớp trên.Để đạt được hiệu quả cao trong việc dạy- học giải toán có lời văn nói chung và giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng thì giáo viên cần làm tốt các vấn đề sau: Giáo viên đứng lớp phải luôn xem việc chất lượng là hàng đầu. Các em chính là sản phẩm lao động của người giáo viên hôm nay sẽ là tương lai của đất nước mai sau. Ngoài việc cố gắng học hỏi đồng nghiệp ở chuyên môn, vận dụng phương pháp dạy học tối ưu…thì giáo viên phải luôn sáng tạo trong dạy học không quá cứng nhắc, vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp Phối kết hợp với phụ huynh học sinh đều đặn thông qua sổ liên lạc, gặp mặt trực tiếp để nắm bắt tình hình học tập của các em cũng như tâm lí của từng học sinh từ đó có các biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên luôn hiểu: Việc rèn các kĩ năng giải Toán cho các em là điều rất cần thiết cho học sinh Tiểu học. Kỹ năng đó là nền tảng cho các em học toán đối với
  15. các lớp trên…nên cần phải có những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh trong quá trình rèn các kĩ năng giải Toán cho các em, có như vậy các em mới nắm vững được các kĩ năng giải toán, từ đó giải toán được một cách thành thạo. Và để có kết quả tốt giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo từng bài học, tiết học (nghiên cứu kĩ bài soạn trước khi lên lớp). Các tiết dạy cần có và luôn sử dụng đồ dùng dạy học. Trong khi dạy giáo viên cần sử dụng lời nói ngắn gọn xúc tích dễ hiểu, gần gũi với các em để học sinh dễ nhận biết các dạng bài toán và giải bài toán một cách thuận lợi. Cần có các bài tập trong tiết học cũng như thực hành phải vừa sức với từng đối tượng học sinh. Giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ các thông tư của BGD&ĐT để vận dụng tốt nhằm phát huy được tính tự giác, tích cực và chủ động của các em. Phải luôn hiểu rằng giáo viên chỉ là người định hướng và chỉ đạo, hoạt động của thầy và trò phải luôn diễn ra đồng bộ song song với nhau. Bản thân giáo viên cần phải tâm huyết với nghề cùng với tình yêu trẻ. phải thường xuyên học tập bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nâng cao hiểu biết và cập nhật những phương pháp mới với nhiều hình thức khác nhau để phục vụ tiết học tốt hơn tạo điều kiện tốt cho việc nâng cao chất lượng Dạy - Học, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn năm học 2022 – 2023, thông qua việc đổi mới, sử dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp trong dạy học trực tiếp, đồng thời sử dụng các biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt hiệu quả, học sinh lớp tôi đã yêu thích môn toán hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Kết quả giáo dục môn Toán của lớp 2A4 tính đến giữa kỳ 2 - năm học 2022 – 2023 như sau: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN TOÁN LỚP 2A4 Giữa học kỳ 1 Cuối học kỳ 1 Giữa học kỳ 2 HHT HT CHT HHT HT CHT HHT HT CHT S TL S TL S T S TL S TL S T S TL S TL S T L L L L L L L L L L L L 26 55,3 21 44,7 0 0 30 63, 17 36,2 0 0 33 70, 14 29,8 0 0 8 2 2. Khuyến nghị Giáo viên cần trau dồi chuyên môn, linh hoạt trong các hình thức, phương pháp dạy học. Giáo viên cần tìm hiểu, nghiên cứu thêm về các ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên có những không gian mở để học sinh có cơ hội trải nghiệm, sử dụng hết tất cả các giác quan trong học tập, kết nối với cuộc sống thường ngày thì học sinh sẽ lưu giữ kiến thức bền vững.
  16. Phòng giáo dục tổ chức thêm các cuộc thi, các buổi hoạt động tập thể nhằm giúp học sinh yêu thích môn Toán, rèn luyện tư duy toán học. Trong thời gian nghiên cứu có hạn và khả năng của bạn thân còn hạn chế, sáng kiến kinh nghiệm này của tôi mới đáp ứng phần nào khía cạnh của việc dạy giải toán có lời văn cho học sinh. Chính vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý từ các đồng nghiệp, ban quản lý, lãnh đạo nhà trường để sáng kiến trở nên hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Người viết Hoàng Thị Thảo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2