Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp một học tốt môn Học vần
lượt xem 2
download
Mục đích của sáng kiến này là giúp học sinh nhận biết được, đọc được và viết được các nét cơ bản. Dạy học sinh biết ghép các âm thành vần, nắm được vị trí các âm trong vần, biết ghép phụ âm đầu với vần để tạo thành tiếng. Đọc, viết đúng, chính xác âm, vần, tiếng, từ ngữ và câu ứng dụng. Luyện viết trên không, viết vở tập viết. Luyện viết trong vở ô li và các môn học khác.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp một học tốt môn Học vần
- PHÒNG GD&ĐT TÂN CHÂU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH D CHÂU PHONG Độc lập Tự do Hạnh phúc Châu Phong, ngày 03 tháng 12 năm 2018 BÁO CÁO SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT HỌC TỐT MÔN HỌC VẦN I. Sơ lược lí lịch tác giả. Họ và tên: Lê Thị Ngọc Hà Nam, nữ: Nữ Ngày tháng năm sinh: 03071977 Nơi thường trú: Hòa Long Châu Phong Tân Châu An Giang Đơn vị công tác: Trường Tiểu học “D” Châu Phong Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Lĩnh vực công tác: Chuyên môn II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: Trường Tiểu học “D” Châu Phong nằm trên địa bàn dân cư khá chật hẹp, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn chủ yếu làm thuê, làm ruộng và mua bán nhỏ. Từ đó có ảnh hưởng rất nhiều đến công tác giáo dục của tất cả giáo viên khối lớp một nói chung và lớp 1D nói riêng. Tuy nhiên, giáo viên trong khối có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và rất nhiệt tình trong công tác, biết vận dụng có sáng tạo trong thực tiễn và biến cái khó thành điều kiện vươn lên để hoàn thành kế hoạch và chỉ tiêu của nhà trường đề ra. * Thuận lợi: Tổ khối một được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể nhiệm vụ năm học 2018 – 2019. Cơ sở vật chất được sửa chữa khang trang, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ, khối giảng dạy và hoạt động tốt hơn. Giáo viên trong tổ nhiệt tình và có trình độ chuyên môn vững vàng có kinh nghiệm giảng dạy, tích cực tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tập thể tổ luôn luôn đoàn kết giúp đỡ nhau trong công tác. 1
- Đa số học sinh ngoan ngoãn, lễ phép, có ý thức học tập tốt và được trang bị đầy đủ đồ dùng học tập để phục vụ cho việc học tập trong năm học mới. Nhiều phụ huynh học sinh đã có chuyển biến trong nhận thức, có quan tâm đến việc học tập của con em. Phối hợp với Tổng phụ trách Đội, Đoàn thanh niên giáo dục phẩm chất cho học sinh; tổ chức các phong trào thi đua. Phối hợp với cha mẹ học sinh để giúp các em học tập được tốt hơn. Việc thực hiện đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 22/2016/BGDĐT mới ban hành của Bộ GD& ĐT đã góp phần giảm áp lực về điểm số cho học sinh cũng như phụ huynh học sinh và cả giáo viên, giúp cho việc phát triển khả năng học tập, phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh ngày càng toàn diện hơn. * Khó khăn: Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, cha mẹ phải buôn bán từ sáng đến tối không có thời gian kèm cặp con em mình nên ảnh hưởng rất lớn đến việc học của các em. Việc giảng dạy môn Tiếng Việt các lớp đầu cấp còn gặp nhiều khó khăn, một số em lớp 1 chưa qua mẫu giáo gây khó khăn trong giảng dạy. Một số phụ huynh học sinh làm ăn xa dắt theo con em phải nghỉ học nhiều ngày làm ảnh hưởng việc nâng chất lượng học tập của học sinh toàn trường. Hơn nữa trường nằm ở địa bàn vùng nông thôn kinh tế gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn nên các em thường theo cha mẹ rời khỏi địa phương, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập và duy trì sĩ số. Công tác vận động phụ huynh học sinh tham gia mua bảo hiểm y tế theo chỉ tiêu đề ra gặp nhiều khó khăn vì hoàn cảnh gia đình học sinh đa số khó khăn. III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến: 1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: Đối với học sinh trong quá trình hình thành và phát triển thì trường học chính là nơi các em chính thức học tập và rèn luyện một cách nghiêm túc. Trong những năm gần đây, việc rèn đọc và luyện chữ viết cho học sinh tiểu học được Bộ Giáo Dục, Sở Giáo Dục, Phòng Giáo Dục, đặc biệt là Ban Giám Hiệu Trường Tiểu học D Châu Phong, các thầy cô và các bậc phụ huynh rất quan tâm. Chính vì vậy mục tiêu của việc rèn đọc, viết cho học sinh lớp Một là rất quan trọng. Vì có đọc được, viết được các em mới học tốt các môn học khác và là nền tảng để học tốt ở những lớp trên. 2
- Do mới vào lớp Một nên học sinh chưa quen nền nếp học tập trong nhà trường hoặc do bản tính chậm chạp chậm phát triển. Một số em chưa qua mẫu giáo, khi mới vào lớp Một tâm trạng lo sợ nên không tiếp thu bài được. Trình độ học sinh không đều nhau nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc rèn đọc, viết cho các em. Một số em do ham chơi chỉ lo làm việc riêng trong giờ học ít chú ý nghe bài giảng không chịu học bài trong lớp, từ đó ngày càng tạo nhiều lỗ hỏng. Cho nên các em không theo kịp chương trình, sinh ra chán nản dẫn đến học chưa hoàn thành. Các em còn thích chơi hơn thích học, thường thì gia đình các em này có cuộc sống khó khăn cha mẹ phải lo làm thuê kiếm sống. Một số học sinh học trước quên sau, không nhớ hết âm, không biết ghép âm vần thành tiếng. Một số em chưa có ý thức trong học tập, trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, phát triển chậm về trí nhớ. Gia đình phải vất vả lo chạy cái ăn, cái mặc hàng ngày nên thiếu thời gian quan tâm con cái học ở nhà. Nhiều cha mẹ sợ con cái mình học thua bạn nên có đôi khi làm bài giùm ở nhà gây khó khăn trong công tác giảng dạy của giáo viên Mỗi giáo viên lớp Một đều được trang bị đầy đủ tranh ảnh theo sách giáo khoa và bộ chữ dạy Học vần để các em dễ dàng liên tưởng khi đọc, viết. từ đó giúp các em đọc tốt và viết chữ rõ ràng, phù hợp và viết đẹp hơn. Do đó muốn nâng cao chất lượng học tập cho học sinh chưa hoàn thành lớp một đòi hỏi người giáo viên phải có biện pháp thiết thực. Ngoài việc đầu tư cho quá trình lên lớp của giáo viên thì việc tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh đọc yếu và viết chậm là điều kiện cần thiết không thể thiếu. Còn nặng nề về cung cấp kiến thức, chưa chú ý đến việc tạo điều kiện giúp cho học sinh tự tìm tòi tiếp thu kiến thức. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến. Để tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp một cách có hiệu quả người giáo viên cần lựa chọn, vận dụng các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với mục đích và nhiệm vụ từng bài học, đảm bảo cho các em phát triển khả năng quan sát nhanh, luyện tập thói quen biết phân tích, so sánh, tổng hợp và bước đầu biết phán đoán những sự vật, hiện tượng đơn giản có liên quan đến bài học, gần gũi xung quanh các em. Rèn học sinh học tốt môn Học vần không phải là một sớm một chiều mà cần phải là một quá trình rèn luyện lâu dài, liên tục và diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau. Riêng tôi luôn trăn trở và suy nghĩ nhiều cách để giúp học sinh làm sao thích đọc, thích viết, đọc lưu loát rõ ràng, viết đúng mẫu chữ, viết đều, viết đẹp để đáp ứng được sự đi lên của xã hội. Để thực hiện được những ước 3
- mơ như vậy việc trau dồi những kiến thức cho giáo viên và học sinh về đọc đúng, viết đẹp trong trường tiểu học là quá trình đòi hỏi phải có sự nỗ lực của bản thân người học. Một quá trình rèn luyện thường xuyên nó đòi hỏi tính cần cù, kiên trì, chịu khó cao. 3. Nội dung sáng kiến 3.1. Tiến trình thực hiện: Với sáng kiến này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc rèn đọc,viết cho học sinh để tìm ra phương pháp giúp giáo viên dạy Học vần được tốt hơn. Để đạt được mục đích như mong muốn, tôi đã thực hiện như sau: Giúp học sinh nhận biết được, đọc được và viết được các nét cơ bản. Dạy học sinh biết ghép các âm thành vần, nắm được vị trí các âm trong vần, biết ghép phụ âm đầu với vần để tạo thành tiếng. Đọc, viết đúng, chính xác âm, vần, tiếng, từ ngữ và câu ứng dụng. Luyện viết trên không, viết vở tập viết. Luyện viết trong vở ô li và các môn học khác. 3.2. Thời gian thực hiện: Năm học 2017 – 2018 và học kì I năm học 2018 2019 3.3. Biện pháp tổ chức. Chúng ta biết rằng rèn đọc, viết cho học sinh lớp Một ở phân môn Học vần sẽ đặt nền móng cơ bản “khởi nguồn cho mọi khởi nguồn” cho toàn bộ quá trình học tập và rèn luyện và quan trọng hơn là rèn kĩ năng đọc, kĩ năng viết, kĩ năng nghe nói để các em nói, viết rõ ràng thành câu là giúp các em có tính kiên trì, cần cù, chịu khó. Vì vậy, để nâng cao chất lượng học tập của lớp nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Học vần mỗi giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp dạy học một cách linh hoạt, lựa chọn những phương pháp đặc trưng cho từng tiết học sao cho hợp lí nhất, khơi dậy tinh thần học hỏi, tính đồng đội của lớp. 3.3.1. Biện pháp 1: Ổn định và xây dựng nến nếp của lớp 4
- Ngay từ đầu năm học, sau khi tiếp nhận học sinh. Tôi liên hệ đề xuất với phụ huynh mua sắm đầy đủ cho các em như: vở học, sách giáo khoa, và các dụng cụ học tập : bảng con, bông phấn, viết, thước, … Tôi thường xuyên kiểm tra vở, sách và dụng cụ học tập của các em (khoảng trước một tuần khi thực học ). Những học sinh mang sách vở vào trước tôi bao bìa dán nhãn và ghi tên cho các em để được thống nhất về vở sạch, chữ đẹp. Việc làm này cũng mất nhiều thời gian để chăm sóc cho các em từng việc nhỏ nhằm để tạo nền nếp trong học tập sau này. Có thực hiện tốt được khâu chuẩn bị này thì buổi học đầu tiên các em mới có đầy đủ sách, vở, dụng cụ học tập tạo điều kiện cho các em học tập tốt hơn. Phân chia tổ trực nhật, phân công cán sự lớp, tập cho các em xếp hàng ra vào lớp. Hướng dẫn các em cách xưng hô với bạn, với thầy cô giáo ở trường và với người lớn tuổi,…hướng dẫn cách đưa tay phát biểu, cách sử dụng bảng con, nhận dạng lại chữ cái đã học ở mẫu giáo. Nói chung trong thời gian đầu năm, chuẩn bị trước khi vào học chính thức một tuần tôi cố gắng thực hiện hoàn tất các nền nếp cần thiết cho lớp. Nên khi đã ổn định xong nền nếp của lớp tôi tiến hành họp phụ huynh đầu năm để thông tin về chương trình năm học của các em. Hướng dẫn cách kiểm tra con em học tập ở nhà, thống nhất giờ đến trường và yêu cầu phụ huynh đưa con đến đúng giờ, giúp các em thực hiện tốt nội quy của học sinh. Sau đó tôi xây dựng kế hoạch dạy học của lớp và thông qua phụ huynh thống nhất thực hiện. * Khảo sát đầu năm: Một phần các em mới vào đầu năm học, các em đã qua mẫu giáo hoặc các em được gia đình hướng dẫn trước nên các em này biết đọc, biết viết.Còn phần lớn các em không biết đọc và viết, các em chưa quen với môi trường lớp học. cho nên tôi tiến hành khảo sát để nắm lại toàn bộ các em và có hướng để hướng dẫn các em sau này. Việc khảo sát được tôi tiến hành từng em một và khảo sát thật cụ thể. Trong quá trình khảo sát, theo kinh nghiệm các năm vừa qua tôi thấy luôn có các em đối tượng như sau: +Nhóm 1: Trong nhóm này các em đều biết đọc, biết viết thành thạo, có những em nghe đọc và viết luôn được những từ khó. Đối với nhóm này giáo viên chủ nhiệm thật nhẹ nhàng hướng dẫn các em trong năm học. Ví dụ: Từ “ hươu sao” khi đọc các em không cần phải đánh vần mà đọc trơn nhanh, viết một cách thành thạo, chính xác. +Nhóm 2: Các em biết đọc nhưng không biết viết. Ví dụ: Tiếng “ghi” các em đọc: gh i ghi, khi viết các em lại viết: g i – gi. +Nhóm 3: Các em biết viết nhưng không biết đọc. 5
- Ví dụ: Từ “ lưu loát” khi viết các em viết đúng mẫu, đúng độ cao mà không đọc được đánh vần rất lâu. +Nhóm 4: Các em biết đọc, biết viết nhưng còn chậm. Ví dụ: Từ “xôn xao” phải đánh vần khi đọc: x ôn xôn, x ao xao xôn xao, viết không đúng mẫu, sai độ cao. +Nhóm 5: Nhóm các em không biết đọc, không biết viết ( Do các em chưa đi học mẫu giáo cũng như việc dạy ở gia đình không được cha mẹ quan tâm hoặc do cha mẹ không biết chữ ) Ví dụ: Từ “ con cò” các em không nhận được mặt chữ khi đọc, viết còn nghuệch ngoạc không ra chữ. +Nhóm 6: Nhóm các em do trí não chậm phát triển, ít tiếp thu được bài. 3.3.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu về gia đình học sinh Ngay từ đầu năm học, sau khi ổn định nền nếp lớp, khảo sát các em tôi tiến hành tìm hiểu về gia đình các em. Tôi tiếp xúc tận nhà của tất cả các em. Từ đó tôi nắm bắt hết hoàn cảnh gia đình từng em một. Qua việc tìm hiểu của mình đối với từng em giáo viên sẽ có sự định hình dễ dàng trong quá trình hướng dẫn giáo dục các em. Một số gia đình khá giả, nhưng cha mẹ lo làm đôi khi chiều chuộng con cái quá mức, chỉ biết cho tiền đi học mỗi ngày mà chẳng quan tâm đến việc học của chúng. Nhiều gia đình lại có suy nghĩ dạy học là trách nhiệm của thầy cô ở trường gia đình không cần phải lo. Có một số ít gia đình cha mẹ không biết đọc, biết viết và cũng không cần quan tâm đến việc học của con. Có gia đình cũng rất quan tâm đến việc học của con trẻ nhưng do việc học hiện nay cải cách theo chương trình mới, cách dạy ráp vần cũng khác trước nên cũng khó khăn trong việc dạy thêm ở nhà. VD: Cách dạy đánh vần lúc trước tiếng “ngan” đánh vần là: a n an ng an ngan Cách dạy đánh vần hiện nay tiếng “ngan” đánh vần là: ng an ngan Trước đây tôi nhờ gia đình kèm thêm cho các em ngoài giờ lên lớp để giúp các em có điều kiện học tập tốt hơn. Nhưng trong lớp học có những thành phần khác nhau một số em thuộc gia đình khá giả có đủ điều kiện học tập và luôn được quan tâm trong việc học giúp các em học tập tốt hơn; một số con em gia đình nghèo phải đối mặt với trăm công nghìn việc mưu sinh trong cuộc sống, ít quan tâm đến việc học của con; một số gia đình bất hạnh hơn là do cha mẹ li hôn, cha mẹ không còn sống hoặc đi làm ăn xa, các em sống nhờ vào cô bác, ông bà, người thân xung quanh,… 3.3.3. Biện pháp 3: Vai trò của giáo viên và cách hướng dẫn trong việc luyện đọc, viết cho học sinh. 6
- 3.3.3.1. Hướng dẫn cách luyện đọc cho học sinh. Ở lớp tôi đặc biệt quan tâm đến đến đối tượng học sinh đọc chưa hoàn thành. Thường xuyên khuyến khích động viên kịp thời khi thấy các em có sự tiến bộ trong học tập dù là tiến bộ nhỏ. Phối hợp với phụ huynh yêu cầu gia đình quan tâm đến con cái mình hơn, thường xuyên đôn đốc nhắc nhở kiểm tra việc học của con em mình kịp thời quan tâm giúp đỡ để các em học tập tốt hơn. Tiếng Việt chúng ta rất giàu đẹp và phong phú được chứng minh qua cách đọc hằng ngày. Có tiếng đọc cao, đọc thấp, đọc nhấn giọng, đọc dài, đọc ngắn,…Cho nên giáo viên cần chú trọng cách phát âm. Trong bộ chữ cái Tiếng Việt mỗi chữ đều có cách đọc khác nhau: Chúng ta chia làm hai phần: Nguyên âm và phụ âm. +Nguyên âm: luồng hơi ra nhẹ nhàng, đa số tròn môi… +Phụ âm: Phát âm hơi nặng, luồng hơi ra thường bị cản : cản môi ( p, v, b, m) cản lưỡi, răng, cản răng và lưỡi (r, t, s, l, x, n, …) hoặc phải cong lưỡi (r, tr, s, …) Trong quá trình hướng dẫn giáo viên cần tỉ mỉ đối với từng em có sự chỉnh sửa khi các em đọc sai. Có những em do tính bẩm sinh bị ngọng, đớt, nói lấp. Giáo viên cần hết sức bình tĩnh nhẹ nhàng uốn nắn sửa chữa từ từ cho các em đọc tiếng, đọc từ, đọc câu. Hướng dẫn các em phát âm, tiến tới giáo viên cho các em đọc tiếng, đọc từ, đọc câu. Hướng dẫn các em đọc diễn cảm, giáo dục các em lòng yêu thích tiếng Việt từ đó các em sẽ đọc tốt hơn. Quá trình hướng dẫn sửa chữa phát âm kéo dài xuyên suốt đến hết năm học, nếu giáo viên có tính kiên trì nhẫn nại thì chắc chắn các em sẽ có kết quả tốt ở cuối năm. Quan trọng một điều là các em không nhận diện được mặt chữ. Đọc rồi lại quên, đọc lẫn lộn giữa chữ này với chữ kia,…Gặp trường hợp này giáo viên phải hết sức cố gắng dạy các em sao cho các em nhận diện được mặt chữ. Giáo viên có thể hướng dẫn các em bằng cách sau: +Liên tưởng: cho các em biết chữ cái này giống với cái gì? Ví dụ: chữ cái e: bánh xe, trái me, con ve, … chữ cái b: quả bóng, em bé, bìa bao,…chữ cái c: con cá, con cò, cây viết, …Mỗi vật đều có cái tên. Cái tên của nó gắn liền với 29 chữ cái và 11 phụ âm trong chương trình lớp Một. +Sưu tầm: Giáo viên hướng dẫn xung quanh ta đâu đâu cũng có chữ, có chữ các em học rồi, có chữ các em chưa học. Để mau thuộc và nhớ lâu các em đi đâu, làm gì nếu thấy chữ mà mình học rồi thì phát hiện và đọc. Ví dụ : ở các khẩu hiệu trường, bảng hiệu, ba nô, … Cho các em thi tìm tiếng, từ có âm vần vừa học. Từ những hình thức này giúp các em khắc sâu các chữ vào bộ nhớ tên các vật dụng xung quanh. 7
- Cho các em thảo luận nhóm 2 hoặc nhóm 4: Quan sát tranh đọc thầm câu ứng dụng (đối với những bài học âm, vần) để những từ không đọc được hay phát âm chưa chuẩn xác có thể bạn trong nhóm sẽ chỉnh sửa cho mình. Bên cạnh đó trong những giờ ra chơi tôi kết hợp mượn truyện tranh ở thư viện cho các em đọc và trao đổi với nhau về nội dung câu chuyện. hằng ngày trên lớp tôi sắp xếp các em này ngồi ở dãy bàn nơi thuận tiện việc chú ý đến các em. Trong giờ luyện đọc hoặc thảo luận tôi có thể xuống kèm mà không ảnh hưởng đến các em khác, hơn nữa tôi sắp kế các em chưa hoàn thành thường là học sinh hoàn thành hoặc hoàn thành tốt để trong lúc học nhóm có thể nhờ các em này kèm thêm cho các em đọc nhất là phân môn “học vần “ ở học kì I và đầu học kì II để khi qua phần tập đọc các em có đầy đủ kiến thức để nhận biết và đọc tốt hơn. Bên cạnh đó tôi photo bảng chữ cái, phụ âm và các vần trong chương trình lớp Một để các em dễ học, dễ nhớ. Đầu tiên tôi cho các em học thuộc lòng bảng chữ cái và phụ âm ( kèm theo phần học âm trong sách giáo khoa ) các vần ( kèm theo phần học vần trong sách giáo khoa ). Học sinh hoàn thành và hoàn thành thốt học theo chương trình sách giáo khoa các em có thể bắt kịp rất nhanh chóng. Nhưng đối với học sinh chưa hoàn thành các em rất chậm và trí nhớ cũng kém nên ít bắt kịp bạn bè. Nhờ vào bảng hệ thống này có thể giúp các em ôn lại kiến thức mình đã học tùy theo từng đối tượng học sinh. Đối với học sinh chưa thuộc chữ cái và phụ âm tôi cho các em dựa vào bảng vừa học vừa viết ra bảng con hoặc cho các em chơi đố nhau tìm chữ cái và phụ âm. Đối với học sinh chưa thuộc vần giáo viên cũng có thể áp dụng biện pháp này, sau đó cho học sinh kết hợp chữ cái hoặc phụ âm với vần đã học,… Ngoài ra còn kết hợp với phụ huynh dựa vào bảng chữ cái để biết chương trình lớp Một bao gồm những gì? Thông qua đó có thể rèn tiếp cho các em đọc yếu khi học ở nhà hay vào đầu giờ chiều mỗi buổi học kết hợp tuyên dương khen thưởng những em đã thuộc, động viên khuyến khích những em chưa thuộc. BẢNG HỆ THỐNG 29 CHỮ CÁI, 11 PHỤ ÂM VÀ 126 VẦN ĐÃ HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỚP MỘT ia, uaưa / oiai, ôiơi, uiưi, a ă â b c d đ e ê g h i k l m n uôiươi, ayây / eoao, auâu,iuêu, o ô ơ p q r s t u ư v x y iêuyêu, ưuươu / on an, ânăn, ôn ơn, enên, inun,iên yên, th ch kh tr qu gh ngh ph ng nh uônươn / ongông, ăngâng, gi ungưng, engiêng, uôngương, anganh, inhênh / 8
- omam, ămâm, ôm ơm, emêm, imum, iêmyêm, uômươm /otat, ăt ât, ôtơt, etêt, utưt,itiêt, uôtươt / ocac, ăcâc, ucưc, ôcuôc, iêcươc, ach,ichêch / opap, ăpâp, ôpơp, epêp, ipup, iêpươp / oaoe, oaioay, oanoăn, oangoăng, oanhoach, oatoăt / uêuy,ươuya,uânuyên, uâtuyêt, uynhuych. Ở đầu giờ chiều thay vì 1 giờ 30 phút vào học tôi cho các em này đi sớm hơn để có thời gian kèm riêng cho các em ( hoặc nhờ những em hoàn thành kèm cho các em đọc, đánh vần ). Trong tiết dạy tạo không khí vui vẻ, thoải mái để các em học tập tránh sử dụng hình thức phạt đối với học sinh. Qua giữa kì I tôi tiến hành mượn truyện tranh ở thư viện để các em đọc vào đầu giờ chiều và những lúc ra chơi. Sau khi đọc có thể cho học sinh kể lại câu chuyện mình đã đọc cho các bạn nghe. Từ đó khuyến khích các em ham đọc hơn, đọc được nhiều câu chuyện những từ ngữ nào chưa đọc được các em cũng cố gắng đánh vần để đọc được và tìm hiểu cốt truyện ( phần này tôi khuyến khích khen thưởng bằng nhiều hình thức sau khi học sinh kể xong câu chuyện mà mình đã đọc ). Ngoài ra, bản thân tôi còn nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh yếu, không bỏ các em bên lề lớp học, nhằm khơi dậy sự ham thích học tập của các em. Do vậy giáo viên cần nắm vững các quan điểm dạy học, dạy học giao tiếp, dạy học tích hợp, tích cực hóa các hoạt động học tập của học sinh nhằm thực hiện tốt các yêu cầu dạy kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh ( nghe, nói, đọc, viết ) đặc biệt là phương pháp theo chủ động, sáng tạo của học sinh. Cụ thể cách đọc như sau : +Thao tác đọc ( tư thế, cách đọc sách vở, cách đưa mắt đọc,…) + Phát âm các âm, đánh vần thông thường và một vài vần khó . +Đọc trơn tiếng, từ, cụm từ, câu, nghỉ hơi ở chỗ có dấu câu. Điều đặc biệt đối với giáo viên tiểu học là phải rèn giọng nói chuẩn xác, phù hợp với từng âm, vần ( chẳng hạn như : r/d/gi; ch/tr; x/s; an/ang, …) hướng dẫn học sinh cách đọc, phát âm chuẩn xác, rèn cho học sinh phát huy tính tích cực ( đối với vần dễ đọc nên gọi các em đọc mẫu, gọi những em khác nhận xét, sau đó giáo viên chốt lại cách đọc đúng ). Đọc bài tại lớp là điều hết sức cần thiết đối với học sinh tiểu học ( đặc biệt là những học sinh chưa hoàn thành ). Vì đây là tiền đề cho học sinh đọc lưu loát sau này. Giáo viên cần hướng dẫn 9
- cách đọc, tạo không khí nhẹ nhàng, giúp học sinh đọc yếu mạnh dạn, tự tin hơn khi đọc bài. Để giờ dạy học vần được nhẹ nhàng đem lại hiệu quả cao, giáo viên cần phải thực hiện quy trình một cách linh hoạt. Cần chú trọng đến hình thức đọc cá nhân, toàn bộ học sinh trong lớp em nào cũng được đọc một lần ( riêng học sinh chưa hoàn thành thì đọc nhiều lần ). Ở bước đọc đồng thanh cũng không kém phần quan trọng vì giúp học sinh chưa hoàn thành đọc theo các bạn, từ đó biết cách đọc âm vần mới. Bên cạnh đó cần kết hợp thi đua theo tổ, dãy bàn, …các em sẽ cố gắng đọc thuộc âm vần mới để được tuyên dương. Ngoài ra giáo viên còn phải chú ý khai thác nội dung tranh( ảnh), vật thật liên quan đến âm, vần, vừa được học nhằm khắc sâu trí nhớ của những em đọc yếu. Đặc biệt hơn nữa cần cho những em đọc yếu so sánh âm, vần đã học để khơi gợi kiến thức cũ, nhằm giúp các em nhớ lại kiến thức cũ và thuộc bài nhiều hơn. Tuy nhiên việc rèn cho học sinh đọc yếu không chỉ tập trung vào đọc âm vần mà rèn đọc trơn nhiều hơn để giúp học sinh đọc tốt hơn phần tập đọc ( vào đầu tuần 23 ở học kì II ) và học tốt các phân môn khác. 3.3.3.2. Hướng dẫn cách luyện viết. Dựa vào nét chữ đồng dạng với đầu nhóm, giáo viên cho học sinh tự rèn các chữ còn lại, chú ý nhắc học sinh rèn kĩ các nét cơ bản. *. Những điều kiện chuẩn bị cho việc luyện viết : Để rèn chữ viết cho học sinh, trước hết mỗi giáo viên cần đảm bảo những nguyên tắc, phương pháp, điều kiện cho việc luyện viết chữ đẹp. *.Về nguyên tắc: Đảm bảo sự phối hợp thống nhất các bộ phận trong cơ thể tham gia viết chữ. Khi viết, cùng một lúc nhiều bộ phận của cơ thể hoạt động với nhau. Các em phải nắm được tư thế ngồi, cách chọn bút, cách để vở, cách cầm bút khi viết. . Nguyên tắc cọi trọng dạy luyện viết chữ đẹp là dạy hình thành một kỹ năng. Việc rèn luyện kỹ năng đòi hỏi phải tri giác chính xác sản phẩm, nắm vững các thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các thao tác đó. Khi rèn luyện kỹ năng viết chữ, học sinh phải nắm được hình dáng, đặc điểm, quy trình viết từng chữ cái và từng nhóm chữ cái. Sự luyện tập phải liên tục, nhiều lần, lặp đi lặp lại để khắc sâu vào trí nhớ học sinh. Để hình thành kỹ năng viết cho học sinh, quá trình dạy luyện viết chữ đẹp cho học sinh phải trải qua hai giai đoạn: + Giai đoạn 1: Hình thành và xây dựng biểu tượng chữ viết giúp các em nắm được hình dáng, kích thước, quy trình viết từng chữ cái. 10
- + Giai đoạn 2: Hướng dẫn các em luyện viết các chữ cái, liên kết các chữ cái để luyện từ, câu ứng dụng. *. Về phương pháp: Nhóm phương pháp dùng lời, gây hứng thú học sinh. Dạy luyện viết chữ đẹp cho học sinh, điều quan trọng là phải gây hưng thú cho học sinh. Khi các em chưa hoàn thành thích chữ đẹp thì các em sẽ say mê và rèn chữ viết cho đẹp. Khi đã gây được hứng thú cho học sinh, các em sẽ thích rèn viết chữ đẹp, lúc này ta cung cấp các bài tập để học sinh rèn kĩ năng viết. Nhóm phương pháp trực quan. Khi dạy chữ viết, việc đưa dụng cụ trực quan là chữ viết mẫu in sẵn từng chữ cái, bảng chữ cái là việc làm để cung cấp cho học sinh biểu tượng về chữ viết, chưa cung cấp được kĩ năng viết. Nếu là trực quan chữ viết của giáo viên viết mẫu thì càng giá trị hơn, học sinh dễ tiếp thu biểu tượng chữ viết hơn. Giáo viên vừa viết vừa phân tích được từng nét chữ hoặc từng kỹ thuật nối các con chữ. Chữ viết mẫu của giáo viên còn có tác dụng tạo niềm tin cho học sinh, tạo điều kiện cho việc rèn kĩ năng viết liền mạch. Nhóm phương pháp luyện tập thực hành. Đây là một phương pháp quan trọng. Tập viết chữ có tính chất thực hành. Phải thường xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi lúc, mọi nơi, không chỉ ở phân môn tập viết mà còn ở tất cả các môn học khác, môn nào cũng cần chữ viết để ghi nội dung bài. Có nhiều hình thức cho học sinh thực hành: + Tập viết trên bảng lớp. + Tập viết trên bảng con của học sinh. + Tập viết trong vở tập viết. + Tập viết trong vở ô li và các môn học khác. Khi luyện tập thực hành, để giảm số lượng bài tập và các bài tập được lặp lại nhiều lần ta có thể chia nhóm chữ để rèn: Căn cứ vào đặc điểm của từng chữ cái, căn cứ vào các nét đồng dạng giữa các chữ, căn cứ vào kích thước quy trình viết, chúng ta có thể chia các nhóm chữ như sau: * Chữ thường: có thể chia làm 4 nhóm Nhóm 1: Nhóm chữ có nét tương đồng là nét cong: o. ô, ơ, a, ă, â, d, đ, q Nhóm 2: Nhóm chữ có nét tương đồng là nét khuyết trên và nét khuyết dưới: h, k, l, b, g, y. 11
- Nhóm 3: Nhóm chữ có nét tương đồng là nét hất (sổ) và nét móc: i, t, u, ư, p, n, m. Nhóm 4: Nhóm chữ có nét tương đồng là nét cong (khó),nét móc, nét có vòng xoắn: r, s, v, c, e, ê, x. Cần chú ý khi dạy các chữ thường là phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm. Dựa vào nét chữ đồng dạng với đầu nhóm, giáo viên cho học sinh tự rèn các chữ còn lại, chú ý nhắc học sinh rèn kĩ các nét cơ bản. 3.3.4. Biện pháp 4: Một số quy ước khi dạy luyện viết. Muốn dạy luyện viết chữ đẹp điều quan trọng nhất là giáo viên cần phải quy ước cho học sinh nắm vững các đường kẻ và các nét cơ bản. Nét thẳng đứng: Nét cong phải: Nét thẳng ngang: Nét cong trái: Nét xiên phải: Nét cong kín: Nét xiên trái Nét khuyết trên: Nét móc trên: Nét khuyết dưới: Nét móc dưới: Nét móc hai đầu: Trình độ học sinh không đều nhau nên gặp khó khăn trong việc rèn các em học tập, đặc biệt là trong phần rèn chữ viết. * Một số lỗi sai cơ bản: Viết thiếu nét, viết thừa nét, viết sai nét, viết không đúng khoảng cách, đặt sai dấu, không đúng mẫu chữ, cỡ chữ, sai lỗi chính tả, không đúng cách trình bày. 12
- * Phân tích nguyên nhân và cách khắc phục. Lỗi viết thiếu nét: Lỗi này do thói quen của học sinh chưa viết hết các nét chữ đã dừng lại. Cần nhắc nhở thường xuyên để tạo thói quen viết hết nét và dừng bút đúng điểm, đúng quy định. Cho học sinh viết thêm nét cho đủ nét ở ngay những chữ học sinh vừa viết thiếu nét, đồng thời xem lại những bài viết trước chữ nào còn thiếu thì thêm nét vào cho đủ và cho tập viết lại ngay.. Lỗi thừa nét: Lỗi này do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét đầu học sinh viết không đúng, dừng điểm vượt quá quy định. Cách khắc phục là giáo viên phải hướng dẫn lại quy trình viết chữ đó. Lỗi sai nét: Lỗi này thường do học sinh cầm bút sai, các ngón tay quá gần ngồi bút, khi viết biên độ dao động của ngồi bút ngắn, đầu ngồi bút di chuyển không linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo làm sai nét. Cách khắc phục là nhắc học sinh cầm bút cho đúng. Khi viết các ngón tay cử động linh hoạt phối họp với cử động của cổ tay và cánh tay. Lỗi viết không đúng khoảng cách: Lỗi này thường sai với những học sinh viết thường hay nhấc bút, không viết liền mạch, đưa tay không đều. Cần giúp học sinh viết liền mạch, đưa đều tay. Quy định về khoảng cách chữ là một đơn vị chữ, khoảng cách giữa các con chữ thay đổi theo từng nét chữ khoảng ½ đến ¼ đơn vị chữ. Viết liền mạch xong chữ mới đánh dấu chữ và ghi dấu thanh. Ví dụ: Viết chữ : cần hướng dẫn học sinh viết: can liền mạch, xong mới viết dấu “^” và dấu huyền cần. Sai về dấu chữ, dấu thanh: Đánh dấu chữ và ghi dấu thanh nhỏ bằng ½ đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của vần và không vượt quá đơn vị thứ hai. Nếu chữ có dấu mũ thì các dấu thanh nằm bên phải dấu mũ. Sai lỗi chính tả: Lỗi này do phương ngữ của các em và cách phát âm sai hoặc không nắm được quy tắc chính tả. Sai về cách trình bày: Do học sinh chưa nắm được cách trình bày của từng thể loại thơ hoặc văn xuôi. Cần giúp các em viết đúng thể loại thơ hoặc văn xuôi. Ngoài ra, việc viết lướt bút và nhấn bút sẽ thể hiện rõ thanh đậm và tạo ra đặc tính riêng biệt của người viết. Để rèn chữ viết đẹp cho học sinh trong thời gian ngắn nhất mà đạt hiệu quả cao nhất, ta cần chú ý những chỗ nào (nét chữ, kĩ thuật) học sinh đã đạt được rồi thì không phải rèn nữa mà bồi dưỡng cho học sinh những điểm yếu và thiếu. 13
- 3.3.5. Biện pháp 5: Luyện viết bảng con, tập viết và vở ô li. *Quy ước đường kẻ bảng con. Để giúp học sinh viết bảng con đúng mẫu và đẹp trước tiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhớ các đường kẻ trong bảng con và trong vở tập viết. Việc này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy viết chữ. 1. Đường kẻ ngang trên Viết bảng con 2. Đường kẻ ngang giữa 3. Đường kẻ ngang 4. Đường kẻ ngang dưới Có những chữ cái viết thường cao hơn một đơn vị được xác định bằng đường kẻ ngang trên và đường kẻ ngang dưới: s, r, t. Có những chữ cái cao 2 đơn vị rưỡi được xác định bằng đường kẻ ngang trên, đường kẻ ngang giữa và đường kẻ ngang dưới: k, b, g, h, y. ☻Vở tập viết và vở ô li: Vở tập viết của các em đã có sẵn đường kẻ, giáo viên cần hướng dẫn để các em nắm được một số quy ước về cách gọi. Giúp học sinh củng cố, nhớ lại và nắm chắc các nét cơ bản: + Từ những nét cơ bản này, các chữ cái sẽ được tạo thành. Với một số kinh nghiệm bản thân cùng với sự trao đổi, học hỏi đồng nghiệp, tôi nhận thấy: nếu học sinh viết nét cơ bản không đúng, không đẹp thì việc viết xấu, viết sai là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy tôi sẽ cũng cố lại cho các em cách viết các nét cơ bản. Chú ý điểm đặt bút, dừng bút. ● Chẳng hạn với nét khuyết trên, nét khuyết dưới là nét khuyết lưng thẳng, đầu nét tròn và hình giọt lệ có trong các chữ cái: b, l, h, g, y Học sinh viết sai thường mắc các lỗi sau: bị vuông đầu; bị gù lưng. Để viết đẹp nét khuyết cần chỉ rõ cho học sinh thấy điểm gặp nhau của nét khuyết trên và nét khuyết dưới. Đặc biệt cho học sinh luyện viết kĩ hai nét này. Chú ý luyện cho học viết hình giọt lệ, chữ viết các em sẽ tiến bộ rõ rệt. ● Với nét tròn, học sinh thường viết nét tròn quá cỡ, viết méo mó. Vậy muốn các em viết được nét tròn đẹp, giáo viên cần chỉ cho học sinh thấy: nét tròn đẹp có hình dáng tròn trịa nhưng thon nhỏ về hai đầu. Có thể dùng hình tượng quả trứng để ví với nét tròn đẹp. Cho học sinh sửa dần, giáo viên nhắc 14
- nhở kịp thời sẽ giúp các em có được nét tròn như mong muốn, có trong các chữ cái: o, a, d, p ● Với nét móc, có trong các chữ cái: i, t, u, p, n, m nét móc đẹp là nét móc viết ngay ngắn, đều nét, đầu nét móc không quá to, không quá nhọn sửa nét móc cho học sinh cần gắn với từng chữ cụ thể. + Không chỉ vậy, muốn học sinh viết đẹp thì với những chữ khó viết, tôi thường cho các em luyện viết ở trên bảng con nhiều, đến khi nào học sinh viết tương đối đồng đều thì lúc đó mới viết vào vở. Những học sinh nào viết bảng xấu, chậm, tôi thường xuống tận nơi cầm tay uốn nắn các em viết đúng. + Để thuận tiện trong việc giảng dạy tôi chia các chữ cái thành các nhóm để giúp học sinh so sánh được cách viết các chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Từ đó, học sinh nắm chắc được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn. Vì vậy, tôi cho các em luyện theo cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn viết. ♠ Giáo viên hướng dẫn viết có hai dạng : 1) Viết chữ to : độ cao 5 dòng li đối với các chữ như:h, k, l, b, …2 dòng li đối với các chữ :i, a, e, u, …4 dòng li đối với các chữ như d, p, đ,…3 dòng li đối với chữ t. 2) Viết chữ nhỏ : độ cao 2,5 dòng li đối với các chữ như:h, k, l, b,…1 dòng li đối với các chữ :i, a, e, u, …2 dòng li đối với các chữ như d, p, đ,…1,5 dòng li đối với chữ t. Cần chú ý khi dạy các chữ thường là phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm. Dựa vào nét chữ đồng dạng với đầu nhóm, giáo viên cho học sinh tự rèn các chữ còn lại, chú ý nhắc học sinh rèn kĩ các nét cơ bản. Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinh so sánh được cách viết các chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau.Từ đó, học sinh nắm chắc được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn. Vì vậy, tôi cũng cho các em luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn học. * Hướng dẫn viết nối nét: Khi học sinh viết các con chữ đúng mẫu, thì việc hướng dẫn nối chữ cũng rất quan trọng. Học sinh biết cách nối chữ thì bài viết mới rõ ràng đều và đẹp được. Hơn nữa, đảm bảo được tốc độ viết ở các lớp trên. Ngoài ra, giáo viên phải luôn nhắc nhở học sinh viết đúng khoảng cách các con chữ không viết sát quá hoặc xa quá đều không được. 15
- Dấu thanh không viết quá to, quá nhỏ mà phải viết đúng vị trí. Thực tế trong những năm dạy lớp Một tôi thấy học sinh thường mắc tình trạng các dấu thanh viết quá cao, ảnh hưởng lớn đến chất lượng chữ viết. Tôi nhắc nhở học sinh viết vừa phải gần chữ nhưng không được viết dính vào chữ. Những em thường viết sai vị trí dấu tôi thường gọi lên bảng viết nhiều lần để các bạn nhận xét. Với học sinh lớp Một, thường hiếu động, thiếu kiên trì nên nhiều em không tự giác khi viết bài. Các em muốn viết thật nhanh cho hết bài để chơi. Để khắc phục điều này, tôi có quy định với học sinh. Viết từng dòng theo lệnh của cô. Nhờ vậy, tránh được tình trạng viết nhanh, viết ẩu trong quá trình viết của học sinh. Đặc biệt với những em viết đẹp, có nhiều cố gắng thì tôi chấm điểm động viên, đồng thời tuyên dương trước lớp để các em khác nhìn vào noi theo. Việc củng cố bài của giáo viên cũng góp phần rất quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh. Giáo viên tiến hành theo cách sau để thu hút học sinh đến với các giờ tập viết. + Cho học sinh nhận xét bài viết của bạn và bài viết của mình để các em nhận ra những điểm được và chưa được để sửa chữa. + Cho học sinh luyện viết lại những chữ chưa đạt yêu cầu. + Tổ chức chơi một số trò chơi để tránh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh: Thi viết chữ đẹp, thi viết nhanh + Sau khi học sinh viết xong bài, giáo viên cần nhận xét ngay một số vở, sửa lỗi sai cho học sinh, tuyên dương những bài viết tốt. Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngoài việc kèm thêm ở lớp, tôi cũng trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và cùng tìm ra hướng giải quyết hay thống nhất cách dạy nhằm giúp học sinh tiến bộ hơn. Việc làm này cùng với sự chỉ bảo của tôi ở trên lớp, mà những em viết xấu, viết ẩu ở lớp tôi hiện nay có tiến bộ nhiều hơn. ♣ Rèn kĩ năng trình bày: Để bài viết đẹp cần có sự trình bày đẹp, khoa học. Trình bày theo mẫu: Nên trình bày như trong vở tập viết. Học sinh có thể dựa vào mẫu để điều chỉnh cỡ chữ, khoảng cách để viết thẳng cột với mẫu. Nói tóm lại, rèn kỹ năng viết chữ phải đòi hỏi cả một quá trình. Vì vậy đòi hỏi học sinh phải kiên trì, cố gắng và có hứng thú luyện chữ. Chính vì vậy, giáo viên cần tạo môi trường thi đua, học hỏi, tạo không khí luyện viết chữ đẹp trong lớp bằng cách tuyên dương, động viên khuyến khích kịp thời. 16
- 3.3.6. Biện pháp 6: Dạy phân môn Học vần phải được kết hợp với các môn học khác. Để học sinh đọc đúng và viết đúng thì giáo viên phải kết hợp việc dạy học với các môn học khác. Học sinh không chỉ đọc đúng, viết đúng mà cần phải đọc thành thạo, lưu loát, viết đúng mẫu, viết đẹp ở tất cả các loại vở. Muốn viết đẹp thì cần phải nắm được kĩ thuật viết. Muốn viết đúng, không sai thì cần phải đọc đúng, đọc hiểu. Vì vậy trong quá trình dạy học cần phải rèn cho học sinh không những viết thạo mà còn phải đọc thông. Để làm được điều này khi dạy các giờ Tập viết, Học vần, Tập đọc, Chính tả tôi luôn hướng dẫn các em phát âm đúng, sửa sai cho các em. Giúp các em đọc đúng, hiểu đúng những từ ngữ địa phương hoặc những tiếng, những từ khó. IV. Hiệu quả đạt được. * Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến. Trước khi áp dụng sáng kiến, các em đọc rất chậm, chưa nhận dạng được mặt chữ, học trước quên sau, không nhớ hết âm, không biết ghép âm vần thành tiếng, chưa biết đánh vần để đọc thành tiếng, chữ viết còn sai rất nhiều sai về độ cao, khoảng cách của các con chữ, giữa tiếng với tiếng, viết chưa ngay hàng, chữ viết chưa đều còn viết nghuệch ngoạc. Vở chưa được bảo quản cẩn thận, còn vẽ bậy, viết bậy nhiều trong vở. Chưa có ý thức trong việc rèn chữ viết. Sau khi áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy rằng: chất lượng đọc, viết của học sinh nói chung được nâng lên rất nhiều, học sinh it đánh vần, đọc nhanh, trôi chảy, viết đúng mẫu, đúng độ cao, khoảng cách, viết đảm bảo tốc độ, kĩ thuật viết được các em vận dụng nhiều, nhiều em viết chữ rất đẹp và đều. Phụ huynh ngày càng quan tâm đến chất lượng học tập của học sinh và rất tự hào khi thấy con em mình tiến bộ như vậy Qua quá trình rèn luyện miệt mài và phối hợp khéo léo các biện pháp trên tôi thấy học sinh lớp tôi trong hai năm qua đều tiến bộ rõ rệt, đạt kết quả khả quan trong các kì thi. * Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về thực trạng, tìm ra các biện pháp khắc phục và áp dụng thực hiện trong phạm vi lớp 1D tôi chủ nhiệm.Tôi thật sự hài lòng về kết quả thu được, các em thực sự tiến bộ hơn trước nhiều. So với thời gian đầu nhiều em đã biết đọc, viết thành thạo, lưu loát. Kĩ năng đọc, viết được nâng lên rõ rệt có tiến bộ rất nhiều. Các em thích học và ngày càng say mê học nhiều hơn.. 17
- Đây là kết quả trước và sau khi áp dụng sáng kiến, kết quả như sau: Kết quả cuối học kì I năm học 20172018: Tổng Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành số học Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ sinh 26 5 19,2% 18 69,2% 3 11,6% Kết quả cuối học kì II năm học 20172018: Tổng Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành số học Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ sinh 26 5 19,2% 21 80,8% 0 0% Kết quả từ đầu năm đến tháng 12 năm học 20182019: Tổng Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành số học Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ sinh 21 5 23,8% 13 61,9% 3 14,3% Với kết quả trên cho thấy việc áp dụng đúng phương pháp trong dạy học phần lớn đa số học sinh đều đạt kết quả tốt. V. Mức độ ảnh hưởng Trong thời gian nghiên cứu tôi nhận thấy sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các giáo viên ở các trường tiểu học nói chung và giáo viên trường tiểu học “D” Châu Phong nói riêng nắm rõ những nguyên nhân dẫn đến việc các em chưa biết đọc, chưa biết viết với quyết tâm khắc phục tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đó để học sinh của chúng ta ngày một nắm vững và dễ dàng viết được tốt hơn. Khi các em đọc thông, viết thạo trong phân môn Học vần lớp Một, các em sẽ có đủ kiến thức hơn, có nhiều kĩ năng hơn để đọc, viết các phân môn khác ở lớp trên. VI. Kết luận. Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hay vạn năng, chỉ có lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người giáo viên với nghề nghiệp là mang 18
- lại hiệu quả cao trong giảng dạy, là chìa khóa vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì một ngày mai tươi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. Để đạt được hiệu quả cao trong việc rèn đọc, viết cho học sinh ở phân môn Học vần thì người giáo viên phải nghiên cứu kĩ các phương pháp dạy học, các hình thức dạy học, các kĩ năng đọc đúng, viết đúng tạo điều kiện cho mỗi cá nhân học sinh bộc lộ và phát triển khả năng của mình. Để gặt hái được nhiều thành công trong quá trình rèn đọc, viết thì giáo viên cần rèn cho học sinh phải có lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn luyện để các em ngày càng đọc thông, viết thạo. Rèn đọc, viết cho học sinh lớp Một ở phân môn Học vần không thể nóng vội mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỉ mỉ, kiên trì và chịu khó nhưng cũng rất cương quyết để hình thành cho các em một phương pháp tư duy độc lập. Đó là tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, tư duy logic. Rèn cho các em đức tính cần cù, chịu khó, trong khi luyện đọc, viết. Trên đây là một số vấn đề mà tôi đã áp dụng trong việc dạy Học vần lớp Một, không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp tham khảo đóng góp ý kiến, để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn và mong muốn được chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp trong trường Tiểu học “D” Châu Phong nói chung và bản thân tôi nói riêng ngày càng giúp cho học sinh đọc, viết viết tốt hơn. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Người viết sáng kiến Lê Thị Ngọc Hà Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2238 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn