intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

64
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đặc điểm của dạy Luyện từ và câu lớp 3 chính là giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu một cách hiệu quả nhất. Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3

  1. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đối với học sinh Lớp 3,  So sánh  là mảng kiến thức mới song cũng phù  hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học: giàu trí tưởng tượng, giàu  cảm xúc, cách suy nghĩ hồn nhiên, trong sáng…Biện pháp so sánh có khả năng  khắc họa hình  ảnh và gây  ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả  sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh  động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn là phương thức   bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy so sánh trong văn   học mang chức năng nhận thức và biểu cảm. Học tốt biện pháp So sánh sẽ  giúp các em hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong những câu văn,  những bài văn, bài thơ. Qua đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú tâm  hồn để giúp các em viết được những câu văn hay, gợi tả, gợi cảm và những bài  văn giàu cảm xúc. Không chỉ  có vậy, nó còn giúp cho các em học tốt thể  loại   văn miêu tả ở Lớp 4 và Lớp 5, thể loại văn nghệ thuật sử dụng lời văn có hình   ảnh và cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung rõ nét, cụ  thể, sinh   động về các sự vật hiện tượng… Hơn thế nữa, biện pháp So sánh còn giữ vai trò quan trọng trong việc diễn   đạt tư  tưởng, tình cảm thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm, thuộc tính  riêng vốn có của các sự  vật, hiện tượng… tạo nên những bức tranh sinh động   với gam màu ấn tượng bằng ngôn từ. Chính vì vậy, dạy So sánh được rất nhiều giáo viên quan tâm, nhất là giáo  viên dạy lớp 3. Vấn đề  được đặt ra là dạy như  thế  nào cho hợp lý nhất, học   sinh nắm bài tốt nhất để  từ  đó các em biết cách vận dụng vào những bài văn  một cách chính xác và đạt hiệu quả cao. Qua thực tế ở trường mình dạy và trao đổi với các bạn bè đồng nghiệp ở  trường bạn, tôi thấy các giáo viên đều hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn  Luyện từ và câu cũng như cái hay cái mới của phân môn này. Do có những nét  mới trong phân môn này nên khi dạy về biện pháp tu từ so sánh, nhiều giáo viên  đã biến giờ  học Luyện từ  và câu thành một giờ  “giảng văn” nhằm lột tả  cái   hay, cái đẹp trong mỗi hình  ảnh so sánh. Điều đó hoàn toàn sai phương pháp  đặc trưng của phân môn, dẫn đến học sinh không không nắm được kiến thức   trọng tâm của bài, chính vì vậy mà các em không mấy hứng thú trong học tập  dẫn đến hiệu quả học tập không cao. Là một giáo viên dạy lớp 3 lâu năm, có   kinh nghiệm, việc nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy học không chỉ  là trách nhiệm mà còn là niềm say mê, sự yêu nghề của tôi. 2
  2. Nhận rõ tầm quan trọng của việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh   để các em biết vận dụng vào nói và viết văn, ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu  nghiên cứu và tìm ra Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng   tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đặc điểm của dạy Luyện từ và câu lớp 3 chính là giúp học sinh tiếp cận kịp  thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được phương pháp rèn luyện  học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Từ đó vận dụng linh hoạt vào  hướng dẫn rèn kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu một cách hiệu quả nhất. Góp phần giúp học sinh củng cố  lý thuyết về  cách dùng từ  so sánh, từ  đó  học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ. III.PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN  CỨU Tôi chọn học sinh lớp 3A3 do tôi chủ  nhiệm năm học 2018 ­ 2019 làm đối  tượng nghiên cứu, sĩ số học sinh là 45 em. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu, học  hỏi, tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu) 2. Phương pháp điều tra giáo dục. 3. Phương pháp phân tích tổng hợp. 4. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm (thông qua các chuyên đề ở tổ khối,   dự giờ rút kinh nghiệm của đồng nghiệp, rút kinh nghiệm qua thực tế giảng  dạy của mình, khảo sát đối tượng học sinh.) 5. Phương pháp quan sát, đàm thoại, trò chuyện với giáo viên và học sinh lớp 3. V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 3A3 Kế hoạch nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019. 3
  3. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN Trong hệ thống giáo dục, bậc Tiểu học có một vị  trí rất quan trọng, vì nó là  bậc học nền móng cho các bậc học tiếp theo. Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng góp phần đào tạo ra   lớp người mới phát triển một cách toàn diện để có thể gánh trên vai sứ mệnh lịch   sử của ngành giáo dục. Ở Việt Nam, những năm gần đây giáo dục tiểu học được   quan tâm đặc biệt. Những năm qua đã có biết bao công trình nghiên cứu, bao sáng   kiến cải cách nội dung, đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với sự  phát   triển của xã hội. Chương trình tiểu học mới đòi hỏi người thầy  ở  khắp mọi miền Tổ  quốc   phải nỗ  lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, tích cực đổi mới phương pháp dạy   học để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là môn học có chức năng “kép”   (vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ) và là môn học chiếm nhiều thời lượng  nhất. Môn Tiếng Việt cung cấp một khối lượng kiến thức cơ bản cho mỗi học   sinh trước khi bước vào đời. Đồng thời, nó giúp học sinh rèn luyện, nâng cao trình  độ  sử  dụng một phương tiện học tập và lĩnh hội tri thức khoa học, nâng cao kỹ  năng sử dụng Tiếng Việt. Học Tiếng Việt không chỉ  dừng lại  ở  những hiểu biết về  nó, mà điều quan  trọng là sử dụng nó ngày một thành thạo hơn, tốt hơn vào các hoạt động giao tiếp   đa dạng trong xã hội. Để  đạt được mục tiêu trên, phân môn Luyện từ  và câu đã góp phần không  nhỏ, ngoài việc củng cố về các mẫu câu và mở rộng vốn từ cho học sinh thì phân  môn Luyện từ và câu còn giúp các em làm quen với các biện pháp tu từ, trong đó có  biện pháp tu từ  so sánh. Đây là mảng kiến thức rất mới đối với học sinh lớp 3.   Qua các bài học, các em sẽ nhận biết được các hình ảnh so sánh, các sự vật được  so sánh với nhau trong mỗi khổ  thơ, mỗi đoạn văn, các em cần phân biệt được   kiểu so sánh của mỗi hình ảnh so sánh ấy; thấy được ý nghĩa, tác dụng của biện   pháp so sánh trong biểu đạt ngôn ngữ làm cho sự vật hiện lên sinh động và gần gũi  hơn. Để  viết được những câu văn hay, những bài văn giàu hình ảnh và cảm xúc,   4
  4. các nhà thơ nhà văn phải có sự quan sát tinh tế và kết hợp với các biện pháp nghệ  thuật để tạo nên sự thành công của tác phẩm . Nhờ những hình ảnh bóng bảy, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn   tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong thơ ca,  đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. Việc giúp các em tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong tác phẩm để qua đó dạy các   em biết cách sử dụng các biện pháp tu từ vào trong những bài học của mình. Vậy,   vấn đề đặt ra là: Giáo viên cần có những hình thức tổ chức, phương pháp dạy học  như  thế  nào để  các em tích cực tham gia vào hoạt động học tập và giờ  dạy đạt  hiệu quả cao. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN Để nắm rõ nguyên nhân và tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất cho việc   dạy và học biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tìm hiểu kĩ thực trạng việc dạy và học  biện pháp này ở giáo viên và học sinh. Nhìn chung, nhiều giáo viên đã nắm được mục đích của việc dạy phép tu từ  so sánh, biết sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính  tích cực, chủ  động của học sinh. Một số  giáo viên biết sử  dụng linh hoạt các   phương tiện dạy học, giúp các em tiếp cận với phép so sánh một cách dễ  dàng  hơn. Tuy nhiên, giáo viên và học sinh vẫn còn gặp một số  khó khăn và hạn chế  khi dạy và học phép tu từ so sánh như sau: 2.1. Về phía giáo viên: Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với bạn bè đồng nghiệp cho thấy: Khi dạy về biện pháp tu từ  so sánh một số giáo viên còn rất lúng túng trong việc   nắm vững mức độ nội dung của từng bài cụ  thể dẫn đến việc dạy quá cao hoặc   quá thấp so với chương trình. Giáo viên mới chỉ chú tâm vào việc dạy cho học sinh nhận biết phép tu từ so   sánh mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy học sinh cách cảm nhận và vận dụng   các kiến thức về so sánh vào việc nói và viết. Phần lớn giáo viên chỉ  tổ  chức cho học sinh luyện tập những bài tập trong  sách giáo khoa, rất ít giáo viên sáng tạo ra các bài tập mới, các tình huống mới hay  tạo ra hoàn cảnh sử dụng từ của học sinh. Vốn kiến thức của một số  giáo viên còn hạn chế  . Tài liệu tham khảo, mở  rộng vốn hiểu biết cho giáo viên và học sinh chưa nhiều. Một số  bộ  phận nhỏ  giáo viên vẫn chưa chú trọng quan tâm đến việc lồng  ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn của môn Tiếng Việt với nhau, để  khơi dậy sự hứng thú học tập và sự  tò mò của phân môn này với phân môn khác   trong môn Tiếng Việt. 2.2. Về phía học sinh 5
  5. Khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực   quan, vốn kiến thức văn học của học sinh rất ít ỏi nên việc cảm thụ nghệ thuật tu   từ so sánh còn hạn chế. Qua thực tế  giảng dạy  ở lớp mình phụ  trách và tìm hiểu thêm về  học sinh  lớp khác qua các đồng nghiệp, tôi thấy các em còn mắc những lỗi sau: Học sinh nhầm lẫn giữa so sánh logic và so sánh tu từ Ví dụ câu “ Trăng đêm nay sáng quá, trăng mai còn sáng hơn” là một phép so  sánh tu từ bậc hơn kém nhưng thực tế nó là phép so sánh logic. Nhận diện sai các yếu tố so sánh Ví dụ câu: “ Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng  đèn pha lê.” học sinh xác định các sự vật được so sánh với nhau là “ hạt sương” so  sánh với  “ lá” như  vậy là sai. Đáp án  ở  đây phải là “ hạt sương sớm” được so  sánh với “ bóng đèn pha lê”. Hay trong các câu thơ sau: Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung. Các em thường xác định sai là  mùa đông so sánh với tủ ướp lạnh  mùa hè so sánh với bếp lò nung Tạo hình ảnh so sánh chưa hợp lý Học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh “Con đường thẳng tắp như một chiếc  thước kẻ.” Hầu hết các em chỉ biết tạo ra hình ảnh so sánh mà thiếu đi tính thẩm  mĩ của nghệ thuật so sánh. Chưa cảm nhận được giá trị của phép so sánh. Chẳng hạn với những câu hỏi như  : Trong các hình  ảnh so sánh có ở  trong  bài, em thích hình  ảnh nào? Vì sao? Các em chỉ  nêu được hình  ảnh so sánh mình  thích chứ không giải thích được vì sao thích. Để  kiểm tra khả năng nắm bài cũng như  theo dõi sự  tiến bộ  của học sinh,  tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trước khi áp dụng biện pháp mới. Sau khi học  xong tiết về so sánh ở tuần 1 và tuần 3, tôi đã chọn bài tập trong tiết Luyện từ và   câu của tuần 5 làm bài tập khảo sát. Kết quả thu được như sau: Mức độ Số lượng học sinh Tỉ lệ (%) Nhận biết tốt biện pháp tu từ so sánh 10 em 22% 6
  6. Nhận biết chưa tốt biện pháp tu từ so sánh 8 em 18% Chưa nhận biết được biện pháp tu từ so sánh 27 em 60% Băn khoăn trước kết quả còn thấp của học sinh lớp mình, tôi đã tìm hiểu ra  những nguyên nhân nêu trên và mạnh dạn đưa ra các biện pháp giúp học sinh nhận  biết và vận dụng tốt hơn phép tu từ so sánh. CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT VÀ  VẬN DỤNG TỐT CÁC PHÉP TU TỪ SO SÁNH Biện pháp 1: Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương trình sách giáo khoa,  phân nhóm các dạng bài tập so sánh 1. Nội dung chương trình sách giáo khoa: Muốn giảng dạy tốt từng bộ môn, phân môn thì việc đầu tiên người giáo   viên phải nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình sách giáo khoa để có phương   pháp và kế hoạch dạy học đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm  học, khi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3 tôi đã bắt tay ngay vào   việc nghiên cứu kỹ chương trình để  có định hướng dạy tốt phân môn Luyện   từ và câu, nhất là mảng kiến thức về phép tu từ So sánh. Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 được dạy 1tiết/1 tuần trong đó có 7 tiết   dạy về  So sánh (trong học kỳ  I). Mục đích yêu cầu về  nội dung, kiến thức  mỗi tiết cũng nâng dần mức độ  từ  dễ  đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp,   giúp học sinh từng bước nắm bắt, ghi nhớ và luyện tập có hiệu quả. 2. Yêu cầu và mức độ của mỗi tiết dạy được tôi cụ thể hóa trong bảng sau: Tiết/tuần Nội dung Tiết 1 (Tuần 1) Học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ So sánh Học sinh biết cách tìm những hình ảnh so sánh trong các Tiết 2 (Tuần 3) câu thơ, câu văn và nhận biết các từ chỉ sự so sánh trong các câu văn đó Học sinh nắm bắt được kiểu so sánh: So sánh hơn kém, so Tiết 3 (Tuần 5) sánh ngang bằng. Biết cách thêm các từ so sánh vào những câu văn chưa có từ so sánh. 7
  7. Học sinh tìm hiểu thêm một cách so sánh: so sánh sự  vật  với Tiết 4 (Tuần 7) con người, con người với sự vật. Học sinh nắm bắt thêm cách so sánh: So sánh âm thanh với Tiết5 (Tuần10) âm thanh. Tiết 6 (Tuần 12) Học sinh biết cách so sánh hoạt động với hoạt động. Tiết 7 (Tuần 15) Học sinh đặt được câu văn có hình ảnh so sánh. Toàn bộ  chương trình Tiếng Việt 3 ­ Tập 1 dạy về  So sánh gồm 7 tiết  với các mô hình sau: Mô hình 1: So sánh Sự vật ­ Sự vật Mô hình 2: So sánh Sự vật ­ Con ngƣời Mô hình 3: So sánh Hoạt động ­ Hoạt động Mô hình 4: So sánh Âm thanh ­ Âm thanh Đặc trưng của phân môn Luyện từ  và câu có những điểm mới so với sách   giáo khoa cũ là học sinh tự rút ra kiến thức qua việc thực hành làm các bài tập. Vì   vậy, dựa vào nội dung, chương trình như  trên tôi đã khái quát lại chương trình  thành các dạng bài tập về biện pháp so sánh như sau: 2. Các dạng bài tập về biện pháp so sánh: Nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm so  sánh và những từ so sánh trong câu: Tiết 1, 2, 3, 4, 5, 6. Cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh, tập đặt câu có sử dụng phép so sánh:  Tiết 7 Như  vậy, mỗi tiết học về  so sánh có yêu cầu khác nhau. Tiết học sau đòi  hỏi kiến thức cao hơn tiết học trước, mỗi tiết học cung cấp một mảng ki ến th ức,   một dạng bài tập. Vì thế  tôi tìm hiểu kỹ  nội dung, mức độ  kiến thức cần truyền  đạt của từng tiết để  tạo thành mạch kiến thức có liên kết một cách chặt chẽ  logic. * Một số yêu cầu cơ bản khi dạy so sánh Học sinh Tiểu học với nhận thức từ  trực quan sinh động đến tư  duy trừu  tượng nên việc hướng dẫn các em tìm hiểu những biện pháp tu từ  không phải là   dễ. Bởi vậy, khi dạy phép so sánh trong phân môn luyện từ  và câu cho học sinh,   tôi đã chú ý đến những yêu cầu cơ bản sau: Sử  dụng đồ  dùng trực quan và thông qua các ví dụ  cụ  thể  để  dẫn dắt học  sinh dần dần hiểu, nắm bắt, vận dụng biện pháp tu từ so sánh theo mức độ từ dễ  đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp để  từ  đó nâng dần khả  năng tư  duy, óc sáng   tạo cho học sinh. 8
  8. Thông qua các bài tập nhận biết, học sinh được luyện tập và vận dụng biện   pháp tu từ so sánh trong khi nói và viết. Bên cạnh đó, học sinh còn cần được tiếp   xúc với ngôn ngữ nghệ thuật để biết cách cảm thụ cái hay, cái đẹp của thơ văn. Biện pháp 2: Tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép tu từ so sánh Để  dạy tốt kiến thức về  so sánh thì người giáo viên phải nắm vững kiến   thức về phong cách học nói chung và phép so sánh tu từ nói riêng. Có như vậy giáo   viên mới chủ động trong bài giảng cũng xử lý tốt các tình huống. 1. Khái niệm: So sánh tu từ là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu các   sự  vật với nhau miễn là giữa các sự  vật có một nét tương đồng nào đó để   gợi ra hình ảnh cụ thể,những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người   đọc và người nghe. Khi so sánh phải có ít nhất hai sự  vật trở  lên. Trong đó có sự  vật so   sánh (A) và sự vật được so sánh (B). Hai sự vật này phải có ít nhất một nét  tương đồng. Hiệu quả  của phép tu từ  so sánh là gợi ra những hình  ảnh cụ  thể, những cảm xúc thẩm mĩ. 2. Phân biệt sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh logic: So sánh logic là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người, là  việc đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm   tìm ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng. Ví dụ: Cái lưng còng của ông cụ sao giống lưng ông nội thế. Cơ  sở  của phép so sánh logic dựa trên tính đồng nhất, đồng loại của các   sự  vật hiện tượng và mục đích của sự  so sánh là xác lập sự  tương đương giữa  hai đối tượng. Nếu như  giá trị  của so sánh logic là xác lập được sự  tương đương giữa   hai đối tượng thì giá trị của so sánh tu từ là ở sự liên tưởng, sự phát hiện và gợi  cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe. Trong ví dụ : Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng. ( TV 3 ­ tập 1, trang 7) Ở ví dụ trên “bà” được ví như “quả ngọt” đã chín, bà càng có tuổi thì tình   cảm của bà càng sâu sắc, càng ngọt ngào như quả chín trên cây. Với sự so sánh   này, người cháu đã thể hiện được tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối  với bà. Như vậy, so sánh tu từ học và so sánh logic khác nhau ở 3 yếu tố: ­ Tính hình tượng ­ Tính biểu cảm 9
  9. ­ Tính dị loại (không cùng loại) của sự vật. 3. Cấu trúc của phép so sánh tu từ: Phương diện, đặc Đối tượng Đối tượng đưa ra để điểm so sánh Từ so sánh được so sánh làm chuẩn so sánh (1) (2) (3) (4) Trăng tròn như cái đĩa Trong đó : ­ Yếu tố (1) là cái so sánh, đây là yếu tố được hoặc bị so sánh tùy theo  việc so sánh là tích cực hay tiêu cực. ­ Yếu tố (2) là cơ sở so sánh, đây là yếu tố chỉ tính chất sự vật hay trạng  thái  của hành động được nhìn nhận theo một cách nào đó có vai trò nêu rõ  phương diện so sánh. ­ Yếu tố  (3)  là mức độ  so sánh  thường được  diễn  ra  ở  mức độ  ngang  bằng nhau. Ngoài từ “ như” còn có các từ “ tựa”, “ tựa như”, “ giống như”, “  là”, “như là”, “ như thể”…; so sánh hơn kém như từ “ hơn”, “ chẳng bằng”… ­ Yếu tố (4) là cái được so sánh, tức là cái đưa ra để làm chuẩn so sánh. Theo cấu trúc như trên, đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra để  làm  chuẩn so sánh có thể là sự vật, con người, âm thanh, đặc điểm, hoạt động… Dựa vào cấu trúc có thể chia ra các dạng so sánh sau: * Dạng 1: Phép so sánh đầy đủ cả 4 yếu tố: Ví dụ:Trăng tròn như cái đĩa 1 2 3 4 * Dạng 2:  Phép so sánh vắng yếu tố (2) So sánh vắng yếu tố  (2) còn gọi là so sánh chìm, tức là không có cơ  sở  so  sánh. Khi bớt cơ  sở  so sánh thì phần thuyết minh miêu tả  cái được so sánh sẽ  rõ   ràng hơn.Nó còn tạo điều kiện cho sự  liên tưởng rộng rãi, phát huy sự  sáng tạo   của người đọc, người nghe hơn là so sánh có đủ  4 yếu tố. Dạng so sánh này kích  thích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để có thể xác định được  những nét giống nhau giữa 2 đối tượng ở 2 vế và từ đó nhận ra đặc điểm của đối   tượng được miêu tả. Ví dụ : Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. * Dạng 3: Phép so sánh vắng yếu tố (2) và (3) 10
  10. Đây   là   dạng   so   sánh   không   đầy   đủ,   chỉ   có   cái   so   sánh   và   cái   được   so  sánh.Trong trường hợp này yếu tố (2) và yếu tố (3) được thay thế bằng chỗ ngắt  giọng, dấu gạch ngang hoặc là hình thức đối chọi. Ví dụ: Thân dừa bạc phếch tháng năm Quả dừa ­ đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè hoa nở cùng sao Tàu dừa ­ chiếc lược chải vào mây xanh. Trong đoạn thơ  trên, nhà thơ  đã dùng chỗ  ngắt giọng (được ghi lại bằng  dấu gạch ngang) và đối chọi (giữa quả dừa và tàu dừa) để tạo nên một hình thức   so sánh có âm điệu nhịp nhàng. Trong so sánh tu từ, còn có hình thức kết hợp một vế  so sánh, một đối  tượng so sánh với nhiều đối tượng được so sánh. Ví dụ: Bác là cha, là bác, là anh. Dựa vào mặt ngữ  nghĩa thì so sánh tu từ  có 2 dạng : so sánh ngang bằng và so  sánh hơn ­ kém. + Dạng so sánh ngang bằng. Đây là dạng so sánh phổ  biến thường dùng từ  “ như”, “ là”, “tựa”, “ tựa  như”… để làm từ so sánh. Ví dụ: Giọt sương sớm long lanh như những hạt ngọc. + Dạng so sánh hơn­ kém Đây là dạng so sánh luôn gắn với từ hơn : khỏe hơn, đẹp hơn hoặc chẳng bằng. Ví dụ: Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con. Những ví dụ  trên cho ta thấy các đối tượng được đưa ra để  so sánh khác   nhau về  bản chất. Nhưng do một cách nhìn đặc biệt, các đối tượng vốn là khác  loại, khác bản chất có thể chuyển hóa được cho nhau, có những đặc điểm, những   nét giống nhau. Vậy so sánh tu từ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu   hai đối tượng khác loại của thực tế  khách quan không đồng nhất với nhau hoàn  toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri   giác mới mẻ về đối tượng. Mặt khác, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 không trực tiếp đưa ra khái niệm  So sánh (với tư cách là một biện pháp tu từ) cho học sinh mà thông qua các bài tập  dần dần hình thành khái niệm đơn giản về so sánh cho học sinh. Chính vì vậy khi  dạy về so sánh cho học sinh, tôi đã dựa trên các dạng bài tập để phân loại và lựa  chọn phương pháp dạy phù hợp với từng dạng bài cụ thể. 11
  11. Biện pháp 3: Giúp học sinh nhận biết các dạng bài tập về so sánh 1. Dạng bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh Đây là dạng bài tập giúp học sinh nhận biết những sự  vật so sánh, những  hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Để dạy  tốt dạng bài tập này, tôi đã hướng dẫn học sinh cụ  thể  trong từng tiết học như  sau: * Ví dụ 1: Tiết 1 ­ Tuần 1 (Bài tập 2/ Trang 8 ­ Tiếng Việt 3, Tập 1) Tìm những sự vật được so sánh trong các câu văn, câu thơ dưới đây: a) Hai bàn tay em Như   hoa   đầu   cành  Huy  Cận b) Mặt biển sáng trong như tấm gương khổng lồ bằng ngọc thạch. Vũ Tú Nam c) Cánh diều như dấu “á”  Ai vừa tung lên trời Lương Vĩnh Phúc d) Ơ, cái dấu hỏi Trông   ngộ, ngộ ghê Như  vành tai nhỏ Hỏi rồi  lắng nghe Phạm Như Hà Đây là dạng bài tập đầu tiên các em được làm quen với so sánh với yêu cầu  là nhận diện các từ chỉ sự vật được so sánh. Để làm tốt bài tập này học sinh phải   nắm chắc các từ chỉ sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là: + “ Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành” + “ Mặt biển so sánh với “tấm thảm khổng lồ” + “ Cánh diều” so sánh với dấu “á” + “ Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”. Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với  “hoa đầu cành” hay vì sao nói “ Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Lúc đó giáo   viên phải hướng học sinh tìm xem các sự  vật này đều có điểm nào giống nhau,   chẳng hạn: + Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. + Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp. Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. Trên thực tế   ấn tượng thính giác kết hợp với  ấn tượng thị  giác giúp các em dễ  dàng nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn nên tôi đã cho   học sinh xem  ảnh “cánh diều” và “dấu á”. Còn dấu hỏi cong cong, nở rộng  ở hai  phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai thì tôi cho học sinh nhìn vào vành tai   bạn. 12
  12. Cuối cùng tôi đưa ra kết luận: Các tác giả  quan sát rất tài tình nên đã phát   hiện sự giống nhau giữa các sự vật xung quanh ta. Bởi vậy, khi so sánh cần có hai   sự  vật đưa ra, hai sự  vật đó phải có điểm giống, điểm tương đồng với nhau. Và  trong hai sự vật đó (1 sự vật được so sánh, 1 sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh)   thường được đặt trước và sau từ  “như”. Đây là một dấu hiệu để  nhận ra các sự  vật được so sánh với nhau trong câu. * Ví dụ 2: Tiết 2 ­ Tuần 3 (Bài tập 1 + 2/ Trang 24 ­ Tiếng Việt 3, Tập 1) ­ Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu văn, câu thơ sau. Nêu các từ chỉ sự so  sánh. a) Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. Thanh Hải b) Em yêu nhà em Hàng   xoan   trước   ngõ   Hoa   xao   xuyến   nở   Như mây từng chùm. Tô Hà c) Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung. Lò Ngân Sủn d) Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.  Đất nước ngàn năm Ở bài tập này tôi cho học sinh thảo luận nhóm. Bằng kiến thức đã học  ở  tiết 1(Tuần 1), các em dễ  dàng nhận ra các hình  ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn: a) Mắt hiền sáng tựa vì sao b) Hoa xao xuyến nở c) Trời là cái tủ   ướp lạnh   Trời là cái bếp lò nung. d) Dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng + Trong câu a, dựa vào đâu con biết hình ảnh “mắt hiền” được so sánh với  “vì sao”? (Dựa vào từ “tựa”) Giáo viên chỉ ra: Đây là từ chỉ sự so sánh 13
  13. Tương tự  câu a, học sinh sẽ  tìm được các từ  so sánh trong các câu còn lại.   Sau đó tôi chốt lại kiến thức của bài bằng cách đưa ra hệ thống câu trả lời nhằm   giúp học sinh nắm chắc nội dung của bài: Từ   chỉ   sự   vật   được   so  Từ   chỉ   sự   vật   dùng   để   so  sánh Từ so sánh sánh Mắt hiền tự a vì sao Hoa xao xuyến nở như mây từng chùm Trời là cái tủ ướp lạnh Trời là cái bếp lò nung Dòng sông là đường trăng lung linh dát vàng Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không   chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ  sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ  chỉ sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, … Tôi nhấn mạnh để  học sinh hiểu: Từ  chỉ  sự  so sánh chính là dấu hiệu để  nhận biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh. Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh  làm bài tập sau: Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu sau: Trên trời mây trắng như bông Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây. Từ   chỉ   sự   vật   được   so  Từ   chỉ   sự   vật   dùng   để   so  sánh Từ so sánh sánh Mắt hiền tự a vì sao Hoa xao xuyến nở như mây từng chùm Trời là cái tủ ướp lạnh Trời là cái bếp lò nung Dòng sông là đường trăng lung linh dát vàng Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không   chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ  sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ  chỉ sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, … Tôi nhấn mạnh để  học sinh hiểu: Từ  chỉ  sự  so sánh chính là dấu hiệu để  nhận biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh. 14
  14. Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh  làm bài tập sau: Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu sau: Trên trời mây trắng như bông Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây. Dựa vào các từ  so sánh vừa tìm được, tôi hướng dẫn học sinh nhận diện   kiểu so sánh mới (so sánh hơn kém); từ đó phân biệt được 2 kiểu so sánh bằng các  câu hỏi: + Trong câu a, cách so sánh “Cháu khỏe hơn ông nhiều” và “Ông là buổi trời  chiều” có gì khác nhau? Hai sự vật được so sánh với nhau trong mỗi câu là ngang  bằng nhau hay hơn kém nhau? Trả lời: ­ Câu “Cháu khỏe hơn ông nhiều”, hai sự  vật so sánh với nhau là “ông” và  “cháu”; hai sự vật này không ngang bằng nhau mà có sự chênh lệch hơn kém (cháu  hơn ông). ­ Câu “Ông là buổi trời chiều”, hai sự vật này có sự ngang bằng nhau. + Sự khác nhau về cách so sánh của hai câu này do đâu tạo nên? (Trả lời: Do từ so sánh khác nhau tạo nên. Từ “hơn” chỉ sự hơn kém, từ “là”  chỉ sự ngang bằng nhau). Sau khi học sinh nhận biết được hai kiểu so sánh, giáo viên cho học sinh  xếp các hình ảnh vào hai nhóm: + So sánh ngang bằng              + So sánh hơn kém Đặc biệt,  ở  bài học này, tôi đã nhấn mạnh cho học sinh: Sự  khác nhau về  cách so sánh là do từ chỉ sự so sánh tạo nên: + Nếu từ so sánh là: tựa, như, là, giống như, như  là, bằng… ­> thuộc  kiểu so sánh ngang bằng. + Nếu từ so sánh là: hơn, chẳng bằng…­> thuộc kiểu so sánh hơn kém.  Như vậy, qua 3 tiết học, mặc dù đều là dạng bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, từ so sánh nhưng học sinh đã nắm bắt được kiểu so sánh và được nâng dần  theo mức độ từ dễ đến khó. Đây cũng là quan điểm chung của tất cả các môn học  ở Tiểu học. * Ví dụ 4: Tiết 5 ­ Tuần 10 Với hai bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, học sinh tiếp tục luyện tập về  so sánh và hiểu thêm một cách so sánh mới: So sánh âm thanh với âm thanh. Ở bài   học này tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu như sau: + Bài tập 1 (Trang 79 ­ Tiếng Việt 3, Tập 1)  Đọc đoạn thơ: 15
  15. Đã có ai lắng nghe Tiếng   mưa   trong   rừng   cọ   Như   tiếng thác dội về  Như  ào   ào trận gió. ­ Yêu cầu học sinh làm việc theo cặp trả lời câu hỏi: + Tiếng mưa trong rừng cọ được so sánh với những âm thanh  nào? (Trả lời: như tiếng thác, tiếng gió) Như vậy, không chỉ có các sự vật, con người dùng làm đối tượng so sánh mà những âm thanh trong tự nhiên cũng được các tác giả  chọn làm hình ảnh so sánh.   Điều quan trọng tất cả  những so sánh này đều gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ,   đều là kết quả  của sự liên tưởng, sự  phát hiện mà không phải ai cũng nhìn ra và   nhận thấy. Sau bài tập 1, tôi giới thiệu cho học sinh kiểu so sánh: âm thanh với âm  thanh. * Tiết 6 ­ Tuần 12 ­ Tiết học này, học sinh tiếp tục làm quen với phép so sánh nhưng là so sánh  hoạt động với hoạt động * Bài tập 1/Trang 98 ­ Tiếng Việt 3, Tập 1 Đọc khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi: Con mẹ đẹp sao Những hòn tơ nhỏ Chạy như lăn tròn Trên sân, trên cỏ. Phạm Hổ a) Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên b) Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách nào? ­ Với câu hỏi a, học sinh đọc thầm khổ thơ và gạch dưới các từ chỉ hoạt  động (lăn, chạy) + Yêu cầu học sinh đọc lại khổ  thơ  để  tìm câu thơ  có hình  ảnh so   sánh: (Chạy như lăn tròn) ­ Với câu hỏi b, tôi cho học sinh thảo luận nhóm 2 và nêu ý kiến Sau các câu trả lời, tôi nhấn mạnh: đây là cách so sánh hoạt động với hoạt   động. Hoạt động “chạy” của những chú gà con được miêu tả  giống hoạt động   “lăn” của những hòn tơ nhỏ. Qua bài tập 1, học sinh bước đầu đã nắm được cách so sánh hoạt động với   hoạt động. Vận dụng các kiến thức đã học trong các tiết trước và bài tập 1, các   em sẽ tự mình khám phá, tìm hiểu để tìm ra được những hoạt động được so sánh  với nhau trong bài tập 2. 16
  16. * Bài tập 2 /Trang 98­ Tiếng Việt 3, tập 1 Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: a. Con trâu đen lông mượt  Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh   Chân đi như đập đất b. Cau cao cao mãi Tàu vươn tới trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi c. Xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như đàn con nằm quanh bụng mẹ.   Khi có gió, thuyền mẹ  cót két rên rỉ, đám xuồng con lại húc húc vào mạn thuyền   mẹ như đòi bú tí. Sau khi học sinh trao đổi, nêu ý kiến, giáo viên hệ thống lại kiến thức của  bài tập 2 qua bảng sau nhằm giúp học sinh nắm chắc cấu trúc của so sánh: Từ Sự vật, Hoạt động so Hoạt động con vật sánh a) Con trâu đen (chân) đi như đập đất b) Tàu cau vươn như tay (vẫy) nằm  (quanh   bụng   c) Xuồng con đậu (quanh thuyền lớn) như mẹ) húc húc (vào mạn thuyền mẹ) đòi (bú tí) Dạng bài tập này tôi giúp học sinh nắm chắc được các từ chỉ hoạt động, từ  đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”. * Như vậy qua 6 tiết học, học sinh đã nhận biết được các sự vật so sánh,  các từ so sánh, kiểu so sánh và các cách so sánh. Trong mỗi tiết học, mỗi bài tập về dạng nhận biết trên, học sinh lại được  cảm nhận cái hay, cái đẹp của những câu văn có hình  ảnh so sánh. Cụ  thể  như  sau: 2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh 17
  17. * Ví dụ 1: Tiết 5 ­ Tuần 10 (Bài tập 1/Trang 79 ­ TV3, Tập 1) Với dạng bài này, giáo viên cần cho học sinh giải quyết các câu hỏi sau: Nếu đặt : A là sự vật so sánh. B là sự vật được so sánh. Học sinh phải trả lời được: + So sánh các sự vật, sự việc với nhau như vậy để làm gì? Trả lời được câu hỏi này là học sinh đã hiểu được tác dụng của biện pháp  tu từ so sánh. Để học sinh cảm nhận được giá trị nhận thức cũng như giá trị thẩm mĩ của  một hình ảnh so sánh, tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu bằng các câu hỏi sau: + B giúp các em hình dung ra A như thế nào? + B giúp em cảm nhận điều gì mới mẻ về A? + Hình ảnh so sánh đó gợi cho em cảm xúc gì?  Ví dụ: Sau khi tìm được những âm thanh so sánh với tiếng mưa trong rừng cọ là tiếng thác đổ và tiếng gió, tôi đưa tiếp câu hỏi: Qua sự  so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ  như  thế  nào? (Trả lời: Tiếng mưa trong rừng cọ rất to, rất mạnh và rất vang) ­> Như vậy cách so sánh đó đã giúp cho người đọc, người nghe hình dung rõ  hơn về  tiếng mưa trong rừng cọ. Đó chính là tác dụng của so sánh: làm cho đối   tượng được so sánh rõ hơn, nổi bật hơn. Tương tự với bài tập 1, ở bài tập 2 tôi cũng đưa ra các câu hỏi giúp học sinh   cảm nhận cái hay, cái đẹp của phép so sánh. * Ví dụ : Câu a) Tiếng suối được tác giả  so sánh với tiếng đàn cầm, Vậy em hình dung ra  tiếng suối như thế nào? (Tiếng suối chảy đều đều và rất êm tai) Câu b) Tiếng suối và tiếng hát được so sánh với nhau ở điểm nào? (rất trong) Qua sự so sánh đó, em cảm nhận tiếng suối như thế nào? (trong trẻo, nhỏ nhẹ và ngân xa) * Như vậy, so sánh giúp cho người đọc, người nghe hình dung về sự  vật  một cách cụ thể, sinh động hơn. Không những thế, nó còn thể hiện sự quan sát rất  tài tình và tinh tế của các nhà văn, nhà thơ khi muốn bộc lộ cảm xúc của mình vào  tác phẩm. 3. Dạng bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh * Ví dụ 1: Tiết 3 ­ Tuần 5 (Bài tập 4/ Trang 43 ­ TV3, Tập 1) 18
  18. Hãy tìm các từ so sánh có thể thêm vào những câu chưa có từ so sánh ở bài tập 3.   M: Tàu dừa như chiếc lược chải vào mây xanh Đây là bài tập học sinh bước đầu làm quen với việc đặt câu có hình ảnh so   sánh. Vì vậy,  ở bài tập này, tôi cho học sinh phân tích mẫu và chỉ  ra kiểu so sánh   trong bài là so sánh ngang bằng. Với kiểu so sánh đó, học sinh sẽ  tìm được rất   nhiều từ ngữ thay thế: như, như là, tựa, tựa như, giống như… Khi học sinh đã viết được những câu văn có hình  ảnh so sánh, tôi cho học   sinh làm một bài tập đơn giản sau: Viết câu văn so sánh các sự vật với nhau: a. Cánh đồng lúa tấm thảm b. Mặt hồ chiếc gương bầu dục Với bài tập này, ngoài việc tìm ra được phép so sánh, bằng óc liên tưởng  của mình học sinh sẽ tìm được những điểm giống nhau của các sự vật để đặt câu: a. Cánh đồng lúa chín vàng trông như tấm thảm khổng lồ. b. Từ trên cao nhìn xuống, mặt hồ như một chiếc gương bầu dục lớn. * Ví dụ 2: Tiết 7 ­ Tuần 15 (Bài tập 3/ Trang 126 ­ TV3,Tập 1) Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu văn có hình  ảnh so sánh các sự vật trong tranh. Ở bài tập này, sách giáo khoa cung cấp sẵn nội dung so sánh qua các tranh  vẽ  từng cặp sự  vật có điểm giống nhau. Việc cần làm của học sinh là xác định  được sự vật so sánh và sự  vật đưa ra để  làm chuẩn so sánh ở  từng cặp là gì, sau   đó căn cứ vào các cặp tranh để  tìm ra sự giống nhau (tương đồng nhau) giữa các  cặp sự vật trong tranh, từ đó đặt câu có hình ảnh so sánh các sự vật đó. Để tạo hứng thú cho học sinh đặt câu, tôi phóng to bức tranh trong sách giáo  khoa và hướng dẫn học sinh nói tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh. ­ Tranh 1:   + Mặt trăng so sánh với quả bóng ­ Tranh 2:   + Nụ cười của bé so sánh với bông hoa + Khuôn mặt của bé so sánh với bông hoa ­ Tranh 3:+ Ngọn đèn so sánh với ngôi sao + Ngọn đèn so sánh với ánh trăng ­ Tranh 4:+ Hình dáng nước ta được so sánh với chữ S 19
  19. Điểm cần lưu ý ở bài tập này là khi so sánh ta cần xác định đâu là sự vật so   sánh và đâu là sự vật dùng để đối chiếu so sánh. Tiếp đó tôi cho học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh phù hợp với từng tranh  rồi viết vào vở; gọi 2 học sinh lên bảng, mỗi học sinh đặt 2 câu theo 2 tranh. Khi   học sinh đặt câu chưa hay, tôi hướng dẫn các em sửa lại câu văn cho hay hơn. VD: + Trăng tròn như quả bóng­> Trăng đêm rằm tròn như quả bóng. + Bé cười tươi như hoa ­> Nụ cười của bé tươi như bong hoa mới nở. + Đèn sáng như sao ­> Ngọn đèn sáng như những vì sao. + Khi đặt câu có hình ảnh so sánh cần lưu ý điều gì? (Tìm ra điểm nổi bật và tương đồng của hai sự vật) + Bài tập 4/ Trang 126 ­ TV3 Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi ô trống: a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như………, như…….. b. Trời mưa, đường đất sét trơn như………….. c. Ở thành phố, có nhiều tòa nhà cao như…… Nếu như ở bài tập 3 cần căn cứ  vào các cặp tranh để  tìm ra sự  giống nhau   giữa các sự vật trong tranh rồi đặt câu thì bài tập 4 lại cần tìm những từ ngữ thích  hợp (sự  vật 2 có điểm tương đồng với sự  vật đã cho) điền vào chỗ  trống sau từ  “như” để  tạo câu có sự  so sánh. Dựa vào những yếu tố  cho sẵn, kết hợp với trí  tưởng tượng và vốn kiến thức hiện có, học sinh có thể hoàn thành bài tập này như  sau: a. Công cha nghĩa mẹ  được so sánh như  núi Thái Sơn, như  nước trong   nguồn chảy ra. b. Trời mưa, đường đất sét trơn như bôi mỡ. c. Ở thành phố, có nhiều tòa nhà cao như núi. Sau hai bài tập, tôi cho học sinh so sánh sự  khác nhau của hai bài  tập (Bài tập 3: Từ 2 sự vật phải tìm được điểm giống nhau để so   sánh Bài tập 4: Từ  1 sự  vật cho trước phải tìm được sự  vật khác có điểm   giống với sự vật đó để so sánh) Qua bài học này tôi chốt lại cho học sinh cấu trúc chung của so sánh để  các em nhớ, biết vận dụng khi đặt câu có hình ảnh so sánh: Sự vật A Đặc điểm so sánh Từ so sánh Sự vật B 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2