Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3
lượt xem 16
download
Đặc điểm của dạy Luyện từ và câu lớp 3 chính là giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu một cách hiệu quả nhất. Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3
- PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đối với học sinh Lớp 3, So sánh là mảng kiến thức mới song cũng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học: giàu trí tưởng tượng, giàu cảm xúc, cách suy nghĩ hồn nhiên, trong sáng…Biện pháp so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy so sánh trong văn học mang chức năng nhận thức và biểu cảm. Học tốt biện pháp So sánh sẽ giúp các em hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong những câu văn, những bài văn, bài thơ. Qua đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn để giúp các em viết được những câu văn hay, gợi tả, gợi cảm và những bài văn giàu cảm xúc. Không chỉ có vậy, nó còn giúp cho các em học tốt thể loại văn miêu tả ở Lớp 4 và Lớp 5, thể loại văn nghệ thuật sử dụng lời văn có hình ảnh và cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung rõ nét, cụ thể, sinh động về các sự vật hiện tượng… Hơn thế nữa, biện pháp So sánh còn giữ vai trò quan trọng trong việc diễn đạt tư tưởng, tình cảm thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm, thuộc tính riêng vốn có của các sự vật, hiện tượng… tạo nên những bức tranh sinh động với gam màu ấn tượng bằng ngôn từ. Chính vì vậy, dạy So sánh được rất nhiều giáo viên quan tâm, nhất là giáo viên dạy lớp 3. Vấn đề được đặt ra là dạy như thế nào cho hợp lý nhất, học sinh nắm bài tốt nhất để từ đó các em biết cách vận dụng vào những bài văn một cách chính xác và đạt hiệu quả cao. Qua thực tế ở trường mình dạy và trao đổi với các bạn bè đồng nghiệp ở trường bạn, tôi thấy các giáo viên đều hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu cũng như cái hay cái mới của phân môn này. Do có những nét mới trong phân môn này nên khi dạy về biện pháp tu từ so sánh, nhiều giáo viên đã biến giờ học Luyện từ và câu thành một giờ “giảng văn” nhằm lột tả cái hay, cái đẹp trong mỗi hình ảnh so sánh. Điều đó hoàn toàn sai phương pháp đặc trưng của phân môn, dẫn đến học sinh không không nắm được kiến thức trọng tâm của bài, chính vì vậy mà các em không mấy hứng thú trong học tập dẫn đến hiệu quả học tập không cao. Là một giáo viên dạy lớp 3 lâu năm, có kinh nghiệm, việc nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy học không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm say mê, sự yêu nghề của tôi. 2
- Nhận rõ tầm quan trọng của việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh để các em biết vận dụng vào nói và viết văn, ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đặc điểm của dạy Luyện từ và câu lớp 3 chính là giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu một cách hiệu quả nhất. Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh tu từ. III.PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Tôi chọn học sinh lớp 3A3 do tôi chủ nhiệm năm học 2018 2019 làm đối tượng nghiên cứu, sĩ số học sinh là 45 em. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu) 2. Phương pháp điều tra giáo dục. 3. Phương pháp phân tích tổng hợp. 4. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm (thông qua các chuyên đề ở tổ khối, dự giờ rút kinh nghiệm của đồng nghiệp, rút kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của mình, khảo sát đối tượng học sinh.) 5. Phương pháp quan sát, đàm thoại, trò chuyện với giáo viên và học sinh lớp 3. V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 3A3 Kế hoạch nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019. 3
- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN Trong hệ thống giáo dục, bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng, vì nó là bậc học nền móng cho các bậc học tiếp theo. Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng góp phần đào tạo ra lớp người mới phát triển một cách toàn diện để có thể gánh trên vai sứ mệnh lịch sử của ngành giáo dục. Ở Việt Nam, những năm gần đây giáo dục tiểu học được quan tâm đặc biệt. Những năm qua đã có biết bao công trình nghiên cứu, bao sáng kiến cải cách nội dung, đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Chương trình tiểu học mới đòi hỏi người thầy ở khắp mọi miền Tổ quốc phải nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là môn học có chức năng “kép” (vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ) và là môn học chiếm nhiều thời lượng nhất. Môn Tiếng Việt cung cấp một khối lượng kiến thức cơ bản cho mỗi học sinh trước khi bước vào đời. Đồng thời, nó giúp học sinh rèn luyện, nâng cao trình độ sử dụng một phương tiện học tập và lĩnh hội tri thức khoa học, nâng cao kỹ năng sử dụng Tiếng Việt. Học Tiếng Việt không chỉ dừng lại ở những hiểu biết về nó, mà điều quan trọng là sử dụng nó ngày một thành thạo hơn, tốt hơn vào các hoạt động giao tiếp đa dạng trong xã hội. Để đạt được mục tiêu trên, phân môn Luyện từ và câu đã góp phần không nhỏ, ngoài việc củng cố về các mẫu câu và mở rộng vốn từ cho học sinh thì phân môn Luyện từ và câu còn giúp các em làm quen với các biện pháp tu từ, trong đó có biện pháp tu từ so sánh. Đây là mảng kiến thức rất mới đối với học sinh lớp 3. Qua các bài học, các em sẽ nhận biết được các hình ảnh so sánh, các sự vật được so sánh với nhau trong mỗi khổ thơ, mỗi đoạn văn, các em cần phân biệt được kiểu so sánh của mỗi hình ảnh so sánh ấy; thấy được ý nghĩa, tác dụng của biện pháp so sánh trong biểu đạt ngôn ngữ làm cho sự vật hiện lên sinh động và gần gũi hơn. Để viết được những câu văn hay, những bài văn giàu hình ảnh và cảm xúc, 4
- các nhà thơ nhà văn phải có sự quan sát tinh tế và kết hợp với các biện pháp nghệ thuật để tạo nên sự thành công của tác phẩm . Nhờ những hình ảnh bóng bảy, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. Việc giúp các em tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong tác phẩm để qua đó dạy các em biết cách sử dụng các biện pháp tu từ vào trong những bài học của mình. Vậy, vấn đề đặt ra là: Giáo viên cần có những hình thức tổ chức, phương pháp dạy học như thế nào để các em tích cực tham gia vào hoạt động học tập và giờ dạy đạt hiệu quả cao. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN Để nắm rõ nguyên nhân và tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất cho việc dạy và học biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tìm hiểu kĩ thực trạng việc dạy và học biện pháp này ở giáo viên và học sinh. Nhìn chung, nhiều giáo viên đã nắm được mục đích của việc dạy phép tu từ so sánh, biết sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Một số giáo viên biết sử dụng linh hoạt các phương tiện dạy học, giúp các em tiếp cận với phép so sánh một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, giáo viên và học sinh vẫn còn gặp một số khó khăn và hạn chế khi dạy và học phép tu từ so sánh như sau: 2.1. Về phía giáo viên: Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với bạn bè đồng nghiệp cho thấy: Khi dạy về biện pháp tu từ so sánh một số giáo viên còn rất lúng túng trong việc nắm vững mức độ nội dung của từng bài cụ thể dẫn đến việc dạy quá cao hoặc quá thấp so với chương trình. Giáo viên mới chỉ chú tâm vào việc dạy cho học sinh nhận biết phép tu từ so sánh mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy học sinh cách cảm nhận và vận dụng các kiến thức về so sánh vào việc nói và viết. Phần lớn giáo viên chỉ tổ chức cho học sinh luyện tập những bài tập trong sách giáo khoa, rất ít giáo viên sáng tạo ra các bài tập mới, các tình huống mới hay tạo ra hoàn cảnh sử dụng từ của học sinh. Vốn kiến thức của một số giáo viên còn hạn chế . Tài liệu tham khảo, mở rộng vốn hiểu biết cho giáo viên và học sinh chưa nhiều. Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng quan tâm đến việc lồng ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn của môn Tiếng Việt với nhau, để khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tò mò của phân môn này với phân môn khác trong môn Tiếng Việt. 2.2. Về phía học sinh 5
- Khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực quan, vốn kiến thức văn học của học sinh rất ít ỏi nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Qua thực tế giảng dạy ở lớp mình phụ trách và tìm hiểu thêm về học sinh lớp khác qua các đồng nghiệp, tôi thấy các em còn mắc những lỗi sau: Học sinh nhầm lẫn giữa so sánh logic và so sánh tu từ Ví dụ câu “ Trăng đêm nay sáng quá, trăng mai còn sáng hơn” là một phép so sánh tu từ bậc hơn kém nhưng thực tế nó là phép so sánh logic. Nhận diện sai các yếu tố so sánh Ví dụ câu: “ Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê.” học sinh xác định các sự vật được so sánh với nhau là “ hạt sương” so sánh với “ lá” như vậy là sai. Đáp án ở đây phải là “ hạt sương sớm” được so sánh với “ bóng đèn pha lê”. Hay trong các câu thơ sau: Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung. Các em thường xác định sai là mùa đông so sánh với tủ ướp lạnh mùa hè so sánh với bếp lò nung Tạo hình ảnh so sánh chưa hợp lý Học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh “Con đường thẳng tắp như một chiếc thước kẻ.” Hầu hết các em chỉ biết tạo ra hình ảnh so sánh mà thiếu đi tính thẩm mĩ của nghệ thuật so sánh. Chưa cảm nhận được giá trị của phép so sánh. Chẳng hạn với những câu hỏi như : Trong các hình ảnh so sánh có ở trong bài, em thích hình ảnh nào? Vì sao? Các em chỉ nêu được hình ảnh so sánh mình thích chứ không giải thích được vì sao thích. Để kiểm tra khả năng nắm bài cũng như theo dõi sự tiến bộ của học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trước khi áp dụng biện pháp mới. Sau khi học xong tiết về so sánh ở tuần 1 và tuần 3, tôi đã chọn bài tập trong tiết Luyện từ và câu của tuần 5 làm bài tập khảo sát. Kết quả thu được như sau: Mức độ Số lượng học sinh Tỉ lệ (%) Nhận biết tốt biện pháp tu từ so sánh 10 em 22% 6
- Nhận biết chưa tốt biện pháp tu từ so sánh 8 em 18% Chưa nhận biết được biện pháp tu từ so sánh 27 em 60% Băn khoăn trước kết quả còn thấp của học sinh lớp mình, tôi đã tìm hiểu ra những nguyên nhân nêu trên và mạnh dạn đưa ra các biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt hơn phép tu từ so sánh. CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT VÀ VẬN DỤNG TỐT CÁC PHÉP TU TỪ SO SÁNH Biện pháp 1: Nghiên cứu cấu trúc, nội dung chương trình sách giáo khoa, phân nhóm các dạng bài tập so sánh 1. Nội dung chương trình sách giáo khoa: Muốn giảng dạy tốt từng bộ môn, phân môn thì việc đầu tiên người giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình sách giáo khoa để có phương pháp và kế hoạch dạy học đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, khi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3 tôi đã bắt tay ngay vào việc nghiên cứu kỹ chương trình để có định hướng dạy tốt phân môn Luyện từ và câu, nhất là mảng kiến thức về phép tu từ So sánh. Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 được dạy 1tiết/1 tuần trong đó có 7 tiết dạy về So sánh (trong học kỳ I). Mục đích yêu cầu về nội dung, kiến thức mỗi tiết cũng nâng dần mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, giúp học sinh từng bước nắm bắt, ghi nhớ và luyện tập có hiệu quả. 2. Yêu cầu và mức độ của mỗi tiết dạy được tôi cụ thể hóa trong bảng sau: Tiết/tuần Nội dung Tiết 1 (Tuần 1) Học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ So sánh Học sinh biết cách tìm những hình ảnh so sánh trong các Tiết 2 (Tuần 3) câu thơ, câu văn và nhận biết các từ chỉ sự so sánh trong các câu văn đó Học sinh nắm bắt được kiểu so sánh: So sánh hơn kém, so Tiết 3 (Tuần 5) sánh ngang bằng. Biết cách thêm các từ so sánh vào những câu văn chưa có từ so sánh. 7
- Học sinh tìm hiểu thêm một cách so sánh: so sánh sự vật với Tiết 4 (Tuần 7) con người, con người với sự vật. Học sinh nắm bắt thêm cách so sánh: So sánh âm thanh với Tiết5 (Tuần10) âm thanh. Tiết 6 (Tuần 12) Học sinh biết cách so sánh hoạt động với hoạt động. Tiết 7 (Tuần 15) Học sinh đặt được câu văn có hình ảnh so sánh. Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 Tập 1 dạy về So sánh gồm 7 tiết với các mô hình sau: Mô hình 1: So sánh Sự vật Sự vật Mô hình 2: So sánh Sự vật Con ngƣời Mô hình 3: So sánh Hoạt động Hoạt động Mô hình 4: So sánh Âm thanh Âm thanh Đặc trưng của phân môn Luyện từ và câu có những điểm mới so với sách giáo khoa cũ là học sinh tự rút ra kiến thức qua việc thực hành làm các bài tập. Vì vậy, dựa vào nội dung, chương trình như trên tôi đã khái quát lại chương trình thành các dạng bài tập về biện pháp so sánh như sau: 2. Các dạng bài tập về biện pháp so sánh: Nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu: Tiết 1, 2, 3, 4, 5, 6. Cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh, tập đặt câu có sử dụng phép so sánh: Tiết 7 Như vậy, mỗi tiết học về so sánh có yêu cầu khác nhau. Tiết học sau đòi hỏi kiến thức cao hơn tiết học trước, mỗi tiết học cung cấp một mảng ki ến th ức, một dạng bài tập. Vì thế tôi tìm hiểu kỹ nội dung, mức độ kiến thức cần truyền đạt của từng tiết để tạo thành mạch kiến thức có liên kết một cách chặt chẽ logic. * Một số yêu cầu cơ bản khi dạy so sánh Học sinh Tiểu học với nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng nên việc hướng dẫn các em tìm hiểu những biện pháp tu từ không phải là dễ. Bởi vậy, khi dạy phép so sánh trong phân môn luyện từ và câu cho học sinh, tôi đã chú ý đến những yêu cầu cơ bản sau: Sử dụng đồ dùng trực quan và thông qua các ví dụ cụ thể để dẫn dắt học sinh dần dần hiểu, nắm bắt, vận dụng biện pháp tu từ so sánh theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để từ đó nâng dần khả năng tư duy, óc sáng tạo cho học sinh. 8
- Thông qua các bài tập nhận biết, học sinh được luyện tập và vận dụng biện pháp tu từ so sánh trong khi nói và viết. Bên cạnh đó, học sinh còn cần được tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật để biết cách cảm thụ cái hay, cái đẹp của thơ văn. Biện pháp 2: Tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép tu từ so sánh Để dạy tốt kiến thức về so sánh thì người giáo viên phải nắm vững kiến thức về phong cách học nói chung và phép so sánh tu từ nói riêng. Có như vậy giáo viên mới chủ động trong bài giảng cũng xử lý tốt các tình huống. 1. Khái niệm: So sánh tu từ là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu các sự vật với nhau miễn là giữa các sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể,những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc và người nghe. Khi so sánh phải có ít nhất hai sự vật trở lên. Trong đó có sự vật so sánh (A) và sự vật được so sánh (B). Hai sự vật này phải có ít nhất một nét tương đồng. Hiệu quả của phép tu từ so sánh là gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ. 2. Phân biệt sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh logic: So sánh logic là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người, là việc đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng. Ví dụ: Cái lưng còng của ông cụ sao giống lưng ông nội thế. Cơ sở của phép so sánh logic dựa trên tính đồng nhất, đồng loại của các sự vật hiện tượng và mục đích của sự so sánh là xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng. Nếu như giá trị của so sánh logic là xác lập được sự tương đương giữa hai đối tượng thì giá trị của so sánh tu từ là ở sự liên tưởng, sự phát hiện và gợi cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe. Trong ví dụ : Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng. ( TV 3 tập 1, trang 7) Ở ví dụ trên “bà” được ví như “quả ngọt” đã chín, bà càng có tuổi thì tình cảm của bà càng sâu sắc, càng ngọt ngào như quả chín trên cây. Với sự so sánh này, người cháu đã thể hiện được tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với bà. Như vậy, so sánh tu từ học và so sánh logic khác nhau ở 3 yếu tố: Tính hình tượng Tính biểu cảm 9
- Tính dị loại (không cùng loại) của sự vật. 3. Cấu trúc của phép so sánh tu từ: Phương diện, đặc Đối tượng Đối tượng đưa ra để điểm so sánh Từ so sánh được so sánh làm chuẩn so sánh (1) (2) (3) (4) Trăng tròn như cái đĩa Trong đó : Yếu tố (1) là cái so sánh, đây là yếu tố được hoặc bị so sánh tùy theo việc so sánh là tích cực hay tiêu cực. Yếu tố (2) là cơ sở so sánh, đây là yếu tố chỉ tính chất sự vật hay trạng thái của hành động được nhìn nhận theo một cách nào đó có vai trò nêu rõ phương diện so sánh. Yếu tố (3) là mức độ so sánh thường được diễn ra ở mức độ ngang bằng nhau. Ngoài từ “ như” còn có các từ “ tựa”, “ tựa như”, “ giống như”, “ là”, “như là”, “ như thể”…; so sánh hơn kém như từ “ hơn”, “ chẳng bằng”… Yếu tố (4) là cái được so sánh, tức là cái đưa ra để làm chuẩn so sánh. Theo cấu trúc như trên, đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra để làm chuẩn so sánh có thể là sự vật, con người, âm thanh, đặc điểm, hoạt động… Dựa vào cấu trúc có thể chia ra các dạng so sánh sau: * Dạng 1: Phép so sánh đầy đủ cả 4 yếu tố: Ví dụ:Trăng tròn như cái đĩa 1 2 3 4 * Dạng 2: Phép so sánh vắng yếu tố (2) So sánh vắng yếu tố (2) còn gọi là so sánh chìm, tức là không có cơ sở so sánh. Khi bớt cơ sở so sánh thì phần thuyết minh miêu tả cái được so sánh sẽ rõ ràng hơn.Nó còn tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi, phát huy sự sáng tạo của người đọc, người nghe hơn là so sánh có đủ 4 yếu tố. Dạng so sánh này kích thích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để có thể xác định được những nét giống nhau giữa 2 đối tượng ở 2 vế và từ đó nhận ra đặc điểm của đối tượng được miêu tả. Ví dụ : Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. * Dạng 3: Phép so sánh vắng yếu tố (2) và (3) 10
- Đây là dạng so sánh không đầy đủ, chỉ có cái so sánh và cái được so sánh.Trong trường hợp này yếu tố (2) và yếu tố (3) được thay thế bằng chỗ ngắt giọng, dấu gạch ngang hoặc là hình thức đối chọi. Ví dụ: Thân dừa bạc phếch tháng năm Quả dừa đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè hoa nở cùng sao Tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã dùng chỗ ngắt giọng (được ghi lại bằng dấu gạch ngang) và đối chọi (giữa quả dừa và tàu dừa) để tạo nên một hình thức so sánh có âm điệu nhịp nhàng. Trong so sánh tu từ, còn có hình thức kết hợp một vế so sánh, một đối tượng so sánh với nhiều đối tượng được so sánh. Ví dụ: Bác là cha, là bác, là anh. Dựa vào mặt ngữ nghĩa thì so sánh tu từ có 2 dạng : so sánh ngang bằng và so sánh hơn kém. + Dạng so sánh ngang bằng. Đây là dạng so sánh phổ biến thường dùng từ “ như”, “ là”, “tựa”, “ tựa như”… để làm từ so sánh. Ví dụ: Giọt sương sớm long lanh như những hạt ngọc. + Dạng so sánh hơn kém Đây là dạng so sánh luôn gắn với từ hơn : khỏe hơn, đẹp hơn hoặc chẳng bằng. Ví dụ: Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con. Những ví dụ trên cho ta thấy các đối tượng được đưa ra để so sánh khác nhau về bản chất. Nhưng do một cách nhìn đặc biệt, các đối tượng vốn là khác loại, khác bản chất có thể chuyển hóa được cho nhau, có những đặc điểm, những nét giống nhau. Vậy so sánh tu từ là biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng. Mặt khác, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 không trực tiếp đưa ra khái niệm So sánh (với tư cách là một biện pháp tu từ) cho học sinh mà thông qua các bài tập dần dần hình thành khái niệm đơn giản về so sánh cho học sinh. Chính vì vậy khi dạy về so sánh cho học sinh, tôi đã dựa trên các dạng bài tập để phân loại và lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với từng dạng bài cụ thể. 11
- Biện pháp 3: Giúp học sinh nhận biết các dạng bài tập về so sánh 1. Dạng bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh Đây là dạng bài tập giúp học sinh nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Để dạy tốt dạng bài tập này, tôi đã hướng dẫn học sinh cụ thể trong từng tiết học như sau: * Ví dụ 1: Tiết 1 Tuần 1 (Bài tập 2/ Trang 8 Tiếng Việt 3, Tập 1) Tìm những sự vật được so sánh trong các câu văn, câu thơ dưới đây: a) Hai bàn tay em Như hoa đầu cành Huy Cận b) Mặt biển sáng trong như tấm gương khổng lồ bằng ngọc thạch. Vũ Tú Nam c) Cánh diều như dấu “á” Ai vừa tung lên trời Lương Vĩnh Phúc d) Ơ, cái dấu hỏi Trông ngộ, ngộ ghê Như vành tai nhỏ Hỏi rồi lắng nghe Phạm Như Hà Đây là dạng bài tập đầu tiên các em được làm quen với so sánh với yêu cầu là nhận diện các từ chỉ sự vật được so sánh. Để làm tốt bài tập này học sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là: + “ Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành” + “ Mặt biển so sánh với “tấm thảm khổng lồ” + “ Cánh diều” so sánh với dấu “á” + “ Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”. Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa đầu cành” hay vì sao nói “ Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: + Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. + Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp. Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. Trên thực tế ấn tượng thính giác kết hợp với ấn tượng thị giác giúp các em dễ dàng nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn nên tôi đã cho học sinh xem ảnh “cánh diều” và “dấu á”. Còn dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai thì tôi cho học sinh nhìn vào vành tai bạn. 12
- Cuối cùng tôi đưa ra kết luận: Các tác giả quan sát rất tài tình nên đã phát hiện sự giống nhau giữa các sự vật xung quanh ta. Bởi vậy, khi so sánh cần có hai sự vật đưa ra, hai sự vật đó phải có điểm giống, điểm tương đồng với nhau. Và trong hai sự vật đó (1 sự vật được so sánh, 1 sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh) thường được đặt trước và sau từ “như”. Đây là một dấu hiệu để nhận ra các sự vật được so sánh với nhau trong câu. * Ví dụ 2: Tiết 2 Tuần 3 (Bài tập 1 + 2/ Trang 24 Tiếng Việt 3, Tập 1) Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu văn, câu thơ sau. Nêu các từ chỉ sự so sánh. a) Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. Thanh Hải b) Em yêu nhà em Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở Như mây từng chùm. Tô Hà c) Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung. Lò Ngân Sủn d) Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng. Đất nước ngàn năm Ở bài tập này tôi cho học sinh thảo luận nhóm. Bằng kiến thức đã học ở tiết 1(Tuần 1), các em dễ dàng nhận ra các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn: a) Mắt hiền sáng tựa vì sao b) Hoa xao xuyến nở c) Trời là cái tủ ướp lạnh Trời là cái bếp lò nung. d) Dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng + Trong câu a, dựa vào đâu con biết hình ảnh “mắt hiền” được so sánh với “vì sao”? (Dựa vào từ “tựa”) Giáo viên chỉ ra: Đây là từ chỉ sự so sánh 13
- Tương tự câu a, học sinh sẽ tìm được các từ so sánh trong các câu còn lại. Sau đó tôi chốt lại kiến thức của bài bằng cách đưa ra hệ thống câu trả lời nhằm giúp học sinh nắm chắc nội dung của bài: Từ chỉ sự vật được so Từ chỉ sự vật dùng để so sánh Từ so sánh sánh Mắt hiền tự a vì sao Hoa xao xuyến nở như mây từng chùm Trời là cái tủ ướp lạnh Trời là cái bếp lò nung Dòng sông là đường trăng lung linh dát vàng Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ chỉ sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, … Tôi nhấn mạnh để học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh chính là dấu hiệu để nhận biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh. Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh làm bài tập sau: Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu sau: Trên trời mây trắng như bông Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây. Từ chỉ sự vật được so Từ chỉ sự vật dùng để so sánh Từ so sánh sánh Mắt hiền tự a vì sao Hoa xao xuyến nở như mây từng chùm Trời là cái tủ ướp lạnh Trời là cái bếp lò nung Dòng sông là đường trăng lung linh dát vàng Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ chỉ sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, … Tôi nhấn mạnh để học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh chính là dấu hiệu để nhận biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh. 14
- Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh làm bài tập sau: Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu sau: Trên trời mây trắng như bông Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây. Dựa vào các từ so sánh vừa tìm được, tôi hướng dẫn học sinh nhận diện kiểu so sánh mới (so sánh hơn kém); từ đó phân biệt được 2 kiểu so sánh bằng các câu hỏi: + Trong câu a, cách so sánh “Cháu khỏe hơn ông nhiều” và “Ông là buổi trời chiều” có gì khác nhau? Hai sự vật được so sánh với nhau trong mỗi câu là ngang bằng nhau hay hơn kém nhau? Trả lời: Câu “Cháu khỏe hơn ông nhiều”, hai sự vật so sánh với nhau là “ông” và “cháu”; hai sự vật này không ngang bằng nhau mà có sự chênh lệch hơn kém (cháu hơn ông). Câu “Ông là buổi trời chiều”, hai sự vật này có sự ngang bằng nhau. + Sự khác nhau về cách so sánh của hai câu này do đâu tạo nên? (Trả lời: Do từ so sánh khác nhau tạo nên. Từ “hơn” chỉ sự hơn kém, từ “là” chỉ sự ngang bằng nhau). Sau khi học sinh nhận biết được hai kiểu so sánh, giáo viên cho học sinh xếp các hình ảnh vào hai nhóm: + So sánh ngang bằng + So sánh hơn kém Đặc biệt, ở bài học này, tôi đã nhấn mạnh cho học sinh: Sự khác nhau về cách so sánh là do từ chỉ sự so sánh tạo nên: + Nếu từ so sánh là: tựa, như, là, giống như, như là, bằng… > thuộc kiểu so sánh ngang bằng. + Nếu từ so sánh là: hơn, chẳng bằng…> thuộc kiểu so sánh hơn kém. Như vậy, qua 3 tiết học, mặc dù đều là dạng bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, từ so sánh nhưng học sinh đã nắm bắt được kiểu so sánh và được nâng dần theo mức độ từ dễ đến khó. Đây cũng là quan điểm chung của tất cả các môn học ở Tiểu học. * Ví dụ 4: Tiết 5 Tuần 10 Với hai bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, học sinh tiếp tục luyện tập về so sánh và hiểu thêm một cách so sánh mới: So sánh âm thanh với âm thanh. Ở bài học này tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu như sau: + Bài tập 1 (Trang 79 Tiếng Việt 3, Tập 1) Đọc đoạn thơ: 15
- Đã có ai lắng nghe Tiếng mưa trong rừng cọ Như tiếng thác dội về Như ào ào trận gió. Yêu cầu học sinh làm việc theo cặp trả lời câu hỏi: + Tiếng mưa trong rừng cọ được so sánh với những âm thanh nào? (Trả lời: như tiếng thác, tiếng gió) Như vậy, không chỉ có các sự vật, con người dùng làm đối tượng so sánh mà những âm thanh trong tự nhiên cũng được các tác giả chọn làm hình ảnh so sánh. Điều quan trọng tất cả những so sánh này đều gợi lên những cảm xúc thẩm mĩ, đều là kết quả của sự liên tưởng, sự phát hiện mà không phải ai cũng nhìn ra và nhận thấy. Sau bài tập 1, tôi giới thiệu cho học sinh kiểu so sánh: âm thanh với âm thanh. * Tiết 6 Tuần 12 Tiết học này, học sinh tiếp tục làm quen với phép so sánh nhưng là so sánh hoạt động với hoạt động * Bài tập 1/Trang 98 Tiếng Việt 3, Tập 1 Đọc khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi: Con mẹ đẹp sao Những hòn tơ nhỏ Chạy như lăn tròn Trên sân, trên cỏ. Phạm Hổ a) Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên b) Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách nào? Với câu hỏi a, học sinh đọc thầm khổ thơ và gạch dưới các từ chỉ hoạt động (lăn, chạy) + Yêu cầu học sinh đọc lại khổ thơ để tìm câu thơ có hình ảnh so sánh: (Chạy như lăn tròn) Với câu hỏi b, tôi cho học sinh thảo luận nhóm 2 và nêu ý kiến Sau các câu trả lời, tôi nhấn mạnh: đây là cách so sánh hoạt động với hoạt động. Hoạt động “chạy” của những chú gà con được miêu tả giống hoạt động “lăn” của những hòn tơ nhỏ. Qua bài tập 1, học sinh bước đầu đã nắm được cách so sánh hoạt động với hoạt động. Vận dụng các kiến thức đã học trong các tiết trước và bài tập 1, các em sẽ tự mình khám phá, tìm hiểu để tìm ra được những hoạt động được so sánh với nhau trong bài tập 2. 16
- * Bài tập 2 /Trang 98 Tiếng Việt 3, tập 1 Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: a. Con trâu đen lông mượt Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đập đất b. Cau cao cao mãi Tàu vươn tới trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi c. Xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như đàn con nằm quanh bụng mẹ. Khi có gió, thuyền mẹ cót két rên rỉ, đám xuồng con lại húc húc vào mạn thuyền mẹ như đòi bú tí. Sau khi học sinh trao đổi, nêu ý kiến, giáo viên hệ thống lại kiến thức của bài tập 2 qua bảng sau nhằm giúp học sinh nắm chắc cấu trúc của so sánh: Từ Sự vật, Hoạt động so Hoạt động con vật sánh a) Con trâu đen (chân) đi như đập đất b) Tàu cau vươn như tay (vẫy) nằm (quanh bụng c) Xuồng con đậu (quanh thuyền lớn) như mẹ) húc húc (vào mạn thuyền mẹ) đòi (bú tí) Dạng bài tập này tôi giúp học sinh nắm chắc được các từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”. * Như vậy qua 6 tiết học, học sinh đã nhận biết được các sự vật so sánh, các từ so sánh, kiểu so sánh và các cách so sánh. Trong mỗi tiết học, mỗi bài tập về dạng nhận biết trên, học sinh lại được cảm nhận cái hay, cái đẹp của những câu văn có hình ảnh so sánh. Cụ thể như sau: 2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh 17
- * Ví dụ 1: Tiết 5 Tuần 10 (Bài tập 1/Trang 79 TV3, Tập 1) Với dạng bài này, giáo viên cần cho học sinh giải quyết các câu hỏi sau: Nếu đặt : A là sự vật so sánh. B là sự vật được so sánh. Học sinh phải trả lời được: + So sánh các sự vật, sự việc với nhau như vậy để làm gì? Trả lời được câu hỏi này là học sinh đã hiểu được tác dụng của biện pháp tu từ so sánh. Để học sinh cảm nhận được giá trị nhận thức cũng như giá trị thẩm mĩ của một hình ảnh so sánh, tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu bằng các câu hỏi sau: + B giúp các em hình dung ra A như thế nào? + B giúp em cảm nhận điều gì mới mẻ về A? + Hình ảnh so sánh đó gợi cho em cảm xúc gì? Ví dụ: Sau khi tìm được những âm thanh so sánh với tiếng mưa trong rừng cọ là tiếng thác đổ và tiếng gió, tôi đưa tiếp câu hỏi: Qua sự so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ như thế nào? (Trả lời: Tiếng mưa trong rừng cọ rất to, rất mạnh và rất vang) > Như vậy cách so sánh đó đã giúp cho người đọc, người nghe hình dung rõ hơn về tiếng mưa trong rừng cọ. Đó chính là tác dụng của so sánh: làm cho đối tượng được so sánh rõ hơn, nổi bật hơn. Tương tự với bài tập 1, ở bài tập 2 tôi cũng đưa ra các câu hỏi giúp học sinh cảm nhận cái hay, cái đẹp của phép so sánh. * Ví dụ : Câu a) Tiếng suối được tác giả so sánh với tiếng đàn cầm, Vậy em hình dung ra tiếng suối như thế nào? (Tiếng suối chảy đều đều và rất êm tai) Câu b) Tiếng suối và tiếng hát được so sánh với nhau ở điểm nào? (rất trong) Qua sự so sánh đó, em cảm nhận tiếng suối như thế nào? (trong trẻo, nhỏ nhẹ và ngân xa) * Như vậy, so sánh giúp cho người đọc, người nghe hình dung về sự vật một cách cụ thể, sinh động hơn. Không những thế, nó còn thể hiện sự quan sát rất tài tình và tinh tế của các nhà văn, nhà thơ khi muốn bộc lộ cảm xúc của mình vào tác phẩm. 3. Dạng bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh * Ví dụ 1: Tiết 3 Tuần 5 (Bài tập 4/ Trang 43 TV3, Tập 1) 18
- Hãy tìm các từ so sánh có thể thêm vào những câu chưa có từ so sánh ở bài tập 3. M: Tàu dừa như chiếc lược chải vào mây xanh Đây là bài tập học sinh bước đầu làm quen với việc đặt câu có hình ảnh so sánh. Vì vậy, ở bài tập này, tôi cho học sinh phân tích mẫu và chỉ ra kiểu so sánh trong bài là so sánh ngang bằng. Với kiểu so sánh đó, học sinh sẽ tìm được rất nhiều từ ngữ thay thế: như, như là, tựa, tựa như, giống như… Khi học sinh đã viết được những câu văn có hình ảnh so sánh, tôi cho học sinh làm một bài tập đơn giản sau: Viết câu văn so sánh các sự vật với nhau: a. Cánh đồng lúa tấm thảm b. Mặt hồ chiếc gương bầu dục Với bài tập này, ngoài việc tìm ra được phép so sánh, bằng óc liên tưởng của mình học sinh sẽ tìm được những điểm giống nhau của các sự vật để đặt câu: a. Cánh đồng lúa chín vàng trông như tấm thảm khổng lồ. b. Từ trên cao nhìn xuống, mặt hồ như một chiếc gương bầu dục lớn. * Ví dụ 2: Tiết 7 Tuần 15 (Bài tập 3/ Trang 126 TV3,Tập 1) Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu văn có hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh. Ở bài tập này, sách giáo khoa cung cấp sẵn nội dung so sánh qua các tranh vẽ từng cặp sự vật có điểm giống nhau. Việc cần làm của học sinh là xác định được sự vật so sánh và sự vật đưa ra để làm chuẩn so sánh ở từng cặp là gì, sau đó căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau (tương đồng nhau) giữa các cặp sự vật trong tranh, từ đó đặt câu có hình ảnh so sánh các sự vật đó. Để tạo hứng thú cho học sinh đặt câu, tôi phóng to bức tranh trong sách giáo khoa và hướng dẫn học sinh nói tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh. Tranh 1: + Mặt trăng so sánh với quả bóng Tranh 2: + Nụ cười của bé so sánh với bông hoa + Khuôn mặt của bé so sánh với bông hoa Tranh 3:+ Ngọn đèn so sánh với ngôi sao + Ngọn đèn so sánh với ánh trăng Tranh 4:+ Hình dáng nước ta được so sánh với chữ S 19
- Điểm cần lưu ý ở bài tập này là khi so sánh ta cần xác định đâu là sự vật so sánh và đâu là sự vật dùng để đối chiếu so sánh. Tiếp đó tôi cho học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh phù hợp với từng tranh rồi viết vào vở; gọi 2 học sinh lên bảng, mỗi học sinh đặt 2 câu theo 2 tranh. Khi học sinh đặt câu chưa hay, tôi hướng dẫn các em sửa lại câu văn cho hay hơn. VD: + Trăng tròn như quả bóng> Trăng đêm rằm tròn như quả bóng. + Bé cười tươi như hoa > Nụ cười của bé tươi như bong hoa mới nở. + Đèn sáng như sao > Ngọn đèn sáng như những vì sao. + Khi đặt câu có hình ảnh so sánh cần lưu ý điều gì? (Tìm ra điểm nổi bật và tương đồng của hai sự vật) + Bài tập 4/ Trang 126 TV3 Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi ô trống: a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như………, như…….. b. Trời mưa, đường đất sét trơn như………….. c. Ở thành phố, có nhiều tòa nhà cao như…… Nếu như ở bài tập 3 cần căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau giữa các sự vật trong tranh rồi đặt câu thì bài tập 4 lại cần tìm những từ ngữ thích hợp (sự vật 2 có điểm tương đồng với sự vật đã cho) điền vào chỗ trống sau từ “như” để tạo câu có sự so sánh. Dựa vào những yếu tố cho sẵn, kết hợp với trí tưởng tượng và vốn kiến thức hiện có, học sinh có thể hoàn thành bài tập này như sau: a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy ra. b. Trời mưa, đường đất sét trơn như bôi mỡ. c. Ở thành phố, có nhiều tòa nhà cao như núi. Sau hai bài tập, tôi cho học sinh so sánh sự khác nhau của hai bài tập (Bài tập 3: Từ 2 sự vật phải tìm được điểm giống nhau để so sánh Bài tập 4: Từ 1 sự vật cho trước phải tìm được sự vật khác có điểm giống với sự vật đó để so sánh) Qua bài học này tôi chốt lại cho học sinh cấu trúc chung của so sánh để các em nhớ, biết vận dụng khi đặt câu có hình ảnh so sánh: Sự vật A Đặc điểm so sánh Từ so sánh Sự vật B 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 64 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn