intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5" được hoàn thành với mục tiêu nhằm bổ sung và khai thác sâu nội dung chương trình nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, rèn kĩ năng để nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh yếu kém ở cuối bậc tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5

  1. 1 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến huyện Cờ Đỏ 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5”. 2. Quyết định công nhận hoặc Giấy chứng nhận sáng kiến của “cơ sở” nơi sáng kiến được công nhận (số ......... ngày ......... tháng ….... năm ..….…. ) 3. Tác giả sáng kiến: Trình độ Số Ngày tháng Chức vụ, Họ và tên chuyên TT năm sinh đơn vị công tác môn 01 Phạm Ngọc Phương 08/01/1972 Giáo viên Cử nhân Tùng Trường TH Trung An 2 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (nếu có): 5. Thời điểm sáng kiến được áp dụng: Năm học 2022-2023 6. Nội dung sáng kiến: A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề: Trong tất cả các môn học ở tiểu học, môn Toán là môn có vị trí rất quan trọng, nó góp phần trong việc đặt nền móng để hình thành và phát triển nhân cách học sinh và đây cũng là môn học mà đa số học sinh rất ngán học, vì nó luôn tuân thủ theo những nguyên tắc, tính chất nên khó tiếp thu hơn những môn học khác. Ngoài ra học Toán cần phải cẩn thận, chịu khó, tìm tòi sáng tạo, độc lập suy nghĩ. Do đó việc nâng dần chất lượng trong dạy - học Toán là rất quan trọng và cần thiết. II. Lý do chọn đề tài: Toán là một phân môn rất quan trọng, nó mang một ý nghĩa quyết định trong việc hình thành kiến thức, kĩ năng cơ bản, phát triển trí tuệ và nhân cách của học sinh, góp phần giáo dục lí trí và những phẩm chất quan trọng của người lao động trong xã hội hiện nay, nó còn là môn học rất cần thiết để học các môn khác. Tuy nhiên kiến thức và kĩ năng làm bài của một số học sinh còn yếu, tính toán còn chậm hay sai, không thuộc bảng nhân, chia dẫn đến chán học môn này. Học sinh yếu kém môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao so với các môn học khác. Trước tình hình đó để giúp các em củng cố lại những kiến thức toàn cấp tiểu học một cách chắc chắn để bước sang cấp Trung học cơ sở không chỉ học Toán được dễ dàng hơn mà còn say mê học Toán, chính vì vậy tôi chọn viết đề tài: “Một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh lớp 5.”
  2. 2 III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: - Phạm vi: môn Toán lớp 5 - Đối tượng: học sinh lớp 5 trường TH Trung An 2 IV. Mục đích nghiên cứu: Bổ sung và khai thác sâu nội dung chương trình nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, rèn kĩ năng để nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh yếu kém ở cuối bậc tiểu học. V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu: Qua việc vận dụng đề tài này học sinh bước đầu ham thích học Toán và có chiều hướng tiến bộ đáng kể. A. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận: Môn Toán là môn học mà chúng ta cần phải học và vận dụng vào trong cuộc sống sau này, cho dù làm bất cứ công việc gì cũng có sự tín toán mới đạt được mục đích và yêu cầu mà mình mong muốn. Học Toán giúp các em từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, khêu gợi khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi, rèn phong cách làm việc của người lao động như cẩn thận, chu đáo, vượt khó, giúp các em luyện tập, củng cố và vận dụng các kiến thức đã học vào trong thực tiễn. Nội dung của việc giải Toán có quan hệ hữu cơ với nội dung của số học, số tự nhiên, số thập phân, các đại lượng cơ bản, các yếu tố đại số và hình học có trong chương trình. Môn Toán ở tiểu học là một môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của các em. Nó là một môn khoa học nghiên cứu có hệ thống phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Chính vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho ngành giáo dục và mỗi giáo viên đứng lớp làm thế nào để trang bị cho các em một hệ thống kiến thức cơ bản, vững chắc nhằm nâng cao chất lượng tránh để học sinh ngồi nhầm lớp để các em tự tin bước vào thời đại mới, thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. II. Thực trạng: 1. Thuận lợi: - Bản thân tôi đã nhiều năm đứng lớp, tiếp xúc được nhiều đối tượng học sinh, hiểu và nắm được tâm lí của những học sinh yếu. Đồng thời qua nhiều năm giảng dạy lớp 5 nên đã tích luỹ được một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn và giúp đỡ học sinh học tập môn Toán ở tiểu học. - Bản thân đã nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học Toán nên tìm hiểu kĩ mục tiêu, nội dung bài dạy rồi soạn bài, lên lớp truyền đạt đầy đủ những nội dung mà mục tiêu yêu cầu, kết hợp nhiều phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. - Trong giảng dạy tôi có mở rộng nội dung bài dạy cho phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, học tập thực hành phù hợp để ôn tập kiến thức và kĩ năng trong từng giai đoạn học tập của học sinh. Nhìn chung, học sinh có hứng thú học tập, tất cả đều hiểu bài và làm bài tập tốt, biết cách trình bày bài giảng và giải đúng kết quả.
  3. 3 2. Khó khăn: Ở một số tiết học, học sinh chưa thật sự hiểu bài, kĩ năng làm bài ở một số em còn hạn chế, các em còn hiểu bài một cách máy móc; một số em chưa có thói quen làm việc tự giác, tích cực, độc lập chủ động và sáng tạo; một số em không thích học môn này nên không chăm chỉ, chỉ học theo kiểu đối phó. Tuy vậy, trong lớp nếu chúng ta thực hiện những tiết dạy đại trà không thể đáp ứng được cho từng đối tượng học sinh, nếu chỉ quan tâm đến học sinh yếu kém thì học sinh khá giỏi dễ chán không phát huy hết khả năng học của các em, bản thân giáo viên không kịp chương trình. Do đó làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy đó là công việc cần phải làm. Ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp và ôn tập, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh về môn Toán kết quả cụ thể như sau: Tổng số học sinh: 30 - Điểm 9-10: 8 HS - 26,7% - Điểm 7-8: 10 HS - 33,3% - Điểm 5-6: 7 HS - 23,3% - Điểm
  4. 4 2.1. Ngay từ đầu năm học, sau khi khảo sát chất lượng của các em tôi đã xây dựng nề nếp cơ bản của lớp, phân loại năng lực học tập của từng em để từ đó chỉ định chỗ ngồi của các em sao cho những học sinh khá giỏi có điều kiện giúp đỡ các em yếu kém, những em còn yếu và hay lơ là trong học tập thì tôi xếp ngồi đầu bàn và dồn dần lên trên để hằng ngày tôi tiện theo dõi, uốn nắn sửa chữa kịp thời. Mỗi buổi học, trước khi vào học khoảng 10 phút các em tự truy bài lẫn nhau. Từ đó các em dần dần hình thành thói quen và tự quản được lớp học. Vì thế tôi mất ít thời gian để ôn bài cũ, chỉ nhấn mạnh và bổ sung những mặt còn hạn chế thiếu sót của các em. 2.2. Để giúp các em học tập tiến bộ tôi thường xuyên theo dõi kết quả học tập của các em, theo dõi làm bài tập ở lớp, bài tập ở nhà, kết quả các lần kiểm tra và lập danh sách phân loại học sinh chưa đạt chuẩn về năng lực do nguyên nhân nào mà dẫn đến chán học. Từ đó tôi nắm được nguyên nhân yếu kém của từng em mà có phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng học sinh và tôi liền lập kế hoạch, nội dung để phụ đạo các em. 2.3. Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, phải tâm huyết với nghề, tận tụy với công việc, yêu thương học sinh, biết động viên khuyến khích học sinh tham gia học tập, giáo dục, xây dựng được môi trường thân thiện (lớp học thân thiện, giờ học thân thiện, phòng học thân thiện, giáo viên thân thiện, bè bạn thân thiện, môn học thân thiện…) Định hướng về dạy học Toán ở tiểu học là tổ chức các hoạt động Toán học cho học sinh. Giáo viên là người thiết kế các hoạt động học từ các kiến thức trong sách giáo khoa. Tổ chức cho học sinh hoạt động trong từng tiết dạy học toán để học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tìm tòi để tự hình thành, chiếm lĩnh kiến thức cho mình trong học toán. 2.4. Tuỳ theo nội dung bài học mà tôi có những biện pháp dạy học khác nhau, tôi dùng phương pháp dạy mở dẫn dắt các em đi từ dễ đến khó, từ không biết gì, không hiểu gì đến nắm được bài. Đối với học sinh khá giỏi tôi đặt câu hỏi khó, còn học sinh yếu kém trung bình tôi dành những câu hỏi dễ hơn và cũng có thể đặt thêm những câu hỏi nhỏ gọn, dễ hiểu để các em dễ trả lời. Trong từng câu hỏi, từng bài tập tôi có ước lượng rằng em nào sẽ trả lời được. Sau khi các em trả lời đúng câu hỏi mà tôi đặt ra thì tôi luôn có lời khen hoặc động viên để các em thích thú và cố gắng hơn. Hằng ngày vào đầu mỗi buổi học, tôi thường cho các em đọc lại bảng nhân, chia hoặc những công thức, quy tắc toán học thay cho những bài hát văn nghệ đầu giờ. Trong mỗi bài học, đến phần củng cố, tôi thường cho các em thi đua với nhau, vừa kiểm tra việc nắm kiến thức của các em vừa tạo không khí sôi nổi gây hứng thú cho các em học tập những tiết tiếp theo. 2.5. Trong giờ học tôi tập trung rèn kĩ năng và ôn tập các kiến thức đã học rồi tổ chức cho các em học cá nhân và học theo nhóm, luôn tạo không khí thoải mái, tự nhiên, tránh gây căng thẳng và luôn trân trọng những phát hiện, những ý kiến của các em dù là rất nhỏ để hình thành ở các em niềm tin vào bản thân mình. Không những thế tôi luôn quan tâm đến mọi đối tượng học sinh, theo kết quả học tập, theo trình độ nhận thức (nhanh, chậm…), kĩ năng tính toán
  5. 5 (nhanh, chính xác…), khả năng diễn đạt (đúng, trôi chảy, lưu loát, chậm…), trình bày bài giải (gọn gàng, sạch sẽ…), thái độ học tập (chăm chỉ, cẩn thận, tự tin, tin thần trách nhiệm … ). Đặc biệt luôn quan tâm, giúp đỡ học sinh chưa đạt chuẩn về năng lực, bồi dưỡng học sinh giỏi, động viên, khuyến khích các em khi học toán. Chú ý dạy học kĩ năng tính toán và phát triển năng lực tư duy toán học cho học sinh, phát huy khả năng và sở trường của các em, luôn tạo ra môi trường học tập tích cực để các em có cơ hội bộc lộ khả năng của cá nhân và trình bày ý kiến trước tập thể để học hỏi lẫn nhau trong quá trình học tập. Ngoài ra, trong tiết học tôi luôn phối hợp nhiều phương pháp dạy học một cách khéo léo sao cho học sinh cảm thấy tiết học vừa vui, vừa nhẹ nhàng, thiết thực mà hiệu quả cao. 2.6. Dạy học môn toán cần phải gắn với thực tế cuộc sống hằng ngày của các em, tạo cho các em hứng thú, say mê tìm tòi, sáng tạo khi học toán. Dạy học toán ở tiểu học cần kết hợp dạy kiến thức toán học với dạy người, vận dụng nhuần nhuyễn từ trực quan (quan sát), hoạt động ( làm theo, cùng làm) đến hình thành kiến thức mới, thực hành, áp dụng vào thực thế cuộc sống. 2.7. Học sinh có nhu cầu thường xuyên được ôn tập, củng cố kiến thức. Chính vì vậy, trước mỗi đợt kiểm tra định kì tôi thường dành một khoảng thời gian để ôn tập cho các em. Đây là khâu quan trọng không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. Ngoài ra, hàng tháng tôi gửi sổ liên lạc để thông báo tình hình học tập của các em cho phụ huynh nắm. Đối với những phụ huynh chưa quan tâm đúng mức tôi liên hệ thường xuyên hơn. Thấy được sự nhiệt tình giảng dạy của giáo viên nên phụ huynh cũng đã hỗ trợ việc học ở nhà bằng cách kiểm tra hoặc nhắc nhở việc học bài và làm bài. Vì vậy, sau một thời gian thấy học sinh có tiến bộ đáng kể. 2.8. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học phụ thuộc nhiều vào trực quan, quan sát và cảm tính, khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá chưa phát triển mạnh. Bởi vậy, khi làm toán các em dựa rất nhiều vào các yếu tố bên ngoài chứ chưa biết dựa nhiều vào bản chất bên trong dẫn đến những sai lầm không đáng có. Sau đây tôi xin nêu một số sai lầm thường gặp khi làm toán của học sinh lớp 5: * Sai lầm khi giải các bài toán về tỉ lệ xích Ví dụ: Một mảnh đất có hình vẽ trên bản đồ tỉ lệ 1:1000 là hình chữ nhật với chiều dài 5cm, chiều rộng 3cm. Tính diện tích mảnh đất đó với đơn vị đo là mét vuông? Nhiều học sinh giải như sau: Bài giải Diện tích trên bản đồ là: 5 x 3 = 15 (cm2) Diện tích trên thực tế là: 15 x 1000 = 15000(cm2) Đổi 15000cm2 = 1,5 m2 Đáp số: 1,5 m2 Nguyên nhân: Sai lầm trên là học sinh đã nhầm lẫn tỉ lệ của đại lượng
  6. 6 đo độ dài với đại lượng đo diện tích. Biện pháp khắc phục: Khi dạy các dạng toán trên giáo viên cần lưu ý cho học sinh hiểu tỉ lệ 1: 1000 là tỉ lệ của các số đo độ dài chứ không phải là tỉ lệ của số đo diện tích nên phải tính các số đo độ dài trên thực tế trước. Bài giải đúng sẽ là: Bài giải Chiều dài trên thực tế là: 5 x 1000 = 5000(cm) Chiều rộng trên thực tế là: 3 x 1000 = 3000(cm) Diện tích mảnh đất trên thực tế là: 500 x 3000 = 15000000(cm2) Đổi: 15000000 cm2 = 1500 m2 Đáp số: 1500 m2 * Sai lầm khi giải toán về tỉ số phần trăm: Ví dụ: Một lớp học có 25 học sinh, trong đó có 13 học sinh nữ. Hỏi số học sinh nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh của lớp học đó? Nhiều học sinh giải như sau: Bài giải Học sinh nữ chiếm số phần trăm học sinh cả lớp là: 13 : 25 = 0,52 x 100 = 52% Nguyên nhân: Sai lầm trên là do học sinh không hiểu hết qui tắc tính (SGK Trang 75 Toán 5). Xin nêu nguyên văn qui tắc: Muốn tìm tỉ số phần trăm của hai số 315 và 600 ta làm như sau: + Tìm thương của 315 và 600 + Nhân thương đó với 100 và viết thêm kí hiệu % vào bên phải tích tìm được. Biện pháp khắc phục: Khi dạy dạng bài này giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ bản chất tỉ số và tỉ số phần trăm. Thực ra tìm tỉ số phần trăm của hai số là viết tỉ số của hai số đó dưới dạng một phân số có mẫu số là 100 Ở ví dụ trên ta có: 13 : 25 = 0,52 Viết : 0,52 dưới dạng một phân số có mẫu số là 100 0,52 x 100/100 =52/100 52/100 viết gọn là 52% Trong tư duy của học sinh phải hiểu được như trên. Trong thao tác học sinh cần thực hiện: 13 : 25 = 0,52 nhân nhẩm 0,52 với 100 rồi ghi kết quả kèm theo kí hiệu %. Vậy tỉ số phần trăm của 13 và 25 là: 13 : 25 = 0,52 = 52% * Sai lầm về tìm số dư của phép chia: Ví dụ: Tìm số dư trong phép chia nếu chỉ lấy đến 2 chữ số ở phần thập
  7. 7 phân của thương. 375,23 : 69 375,23 6,9 302 5,4 263 56 Nhiều học sinh sẽ nhận nhầm số dư là 56 Nguyên nhân: Học sinh đưa ra kết quả chỉ dựa vào trực quan chứ chưa hiểu bản chất phép chia số thập phân. Biện pháp khắc phục: Khi dạy đến dạng bài này giáo viên cần lưu ý cho học sinh hiểu khi ta chia đến số 3 ở hàng phần trăm thì số dư của phép chia này phải là: 56/100 hay 0,56. Dạy đúng, đủ chương trình là nhiệm vụ, trách nhiệm của giáo viên nhưng biết dự đoán trước được những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình học tập của học sinh để từ đó có những phương án, biện pháp giúp học sinh tránh được được những sai lầm đó cũng là rất cần thiết. IV. Hiệu quả của sáng kiến: 1. Kết quả đạt được sau khi áp dụng các biện pháp: Từ những việc làm thiết thực nêu trên đã có một số kết quả nổi bật trong dạy học môn Toán như sau: - Học sinh tích cực học tập, lớp học phát biểu sôi nổi hơn - Đa số học sinh đều nắm vững được kiến thức một cách có hệ thống và vận dụng kiến thức đã học để giải các dạng bài tập, thực hành thành thạo các phép tính, biết trình bày bài giải của bài toán có lời văn, học sinh chưa đạt chuẩn về năng lực khắc phục được những kiến thức bị hỏng, tiếp thu được những kiến thức mới tạo sự hưng phấn trong học tập, giúp học sinh khá giỏi có điều kiện phát huy năng lực học toán của mình, góp phần vào việc khắc phục học sinh chưa đạt chuẩn về năng lực ở tiểu học. Đặc biệt, chất lượng của môn Toán được nâng lên rõ rệt. Kiểm tra định kỳ giữa học kì II, kết quả cụ thể như sau: Điểm 9-10: 21 hs - 70% Điểm 7-8: 6 hs - 20% Điểm 5-6: 2 hs - 6,7% Điểm
  8. 8 hợp tác, có ý chí vượt khó, cẩn thận, tự tin. Giáo viên phải thật sự tôn trọng học sinh, kịp thời khen thưởng trước lớp, trước trường những học sinh có tiến bộ trong học tập để các em cảm thấy sung sướng, hãnh diện. Từ đó các em sẽ phấn đấu hơn, đồng thời giáo viên phải nhẹ nhàng, tế nhị khuyên bảo những học sinh còn chậm tiến bộ để các em không cảm thấy tự ti mặc cảm. 7. Tính hiệu quả: - Hiệu quả kinh tế : Đây là những biện pháp dễ thực hiện, ít tốn chi phí,… - Lợi ích xã hội : Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc sử dụng một số biện pháp nêu trên để giải toán là một phương pháp rất tốt và khoa học, mang lại hiệu quả cao. Đồng thời giúp học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và khả năng suy luận logic, vận dụng tri thức và kĩ năng thực hành vào thực tiễn. Cũng thông qua giải toán luyện cho học sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như: ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có kế hoạch. Chất lượng học tập môn toán của lớp tôi tăng dần, các học sinh yếu toán ban đầu rất sợ học toán nhưng dần dần học được và yêu thích học toán. 8. Phạm vi ảnh hưởng: Nếu sáng kiến này được áp dụng rộng rãi, tôi tin sẽ mang lại hiệu quả cao vì nó góp phần giải quyết vấn đề khó khăn hiện nay là học sinh không thích học cũng như sợ học toán. Các em sẽ dần ham thích toán cũng như làm toán chính xác hơn. Có thể áp dụng ở trường Tiểu học Trung An 2 và tất cả các trường Tiểu học trong huyện. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trên là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN, Trung An., ngày 15 tháng 4 năm 2023 ĐƠN VỊ ĐỀ NGHỊ Người nộp đơn Phạm Ngọc Phương Tùng
  9. 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2