Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 2
lượt xem 3
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là việc rèn luyện kỹ năng sống cho các em là điều rất cần thiết. Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em. Khi xảy ra vấn đề nào đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống, các em sẽ không đủ kiến thức để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp các em sớm có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 2
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. Lời giới thiệu Trong giáo dục kỹ năng sống luôn cần có sự quan tâm chú ý của nhà trường cùng sự phối hợp giáo dục của gia đình. Đây cũng chính là một nhu cầu không thể thiếu dành cho các bé khi đã bước vào tuổi học tiểu học. 1. Giáo dục kỹ năng sống là nhu cầu quan trọng hiện nay Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi vì: Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. 2. Những thách thức của trẻ và vai trò của kỹ năng sống Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo kích động. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thử thách, những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa qua chính là do các em thiếu những kĩ năng cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Vì Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện, do vậy cần phải đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới. Tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em 1
- Vì sao trẻ em ngày càng thiếu các kỹ năng sống? Có một thực tế là nhiều học sinh thành phố, đô thị hiện nay được bố mẹ chăm ăn, chăm mặc kỹ quá, chẳng thiếu thứ gì và được bao cấp đến “tận răng”. Có những em đã học lớp 11, lớp 12, mà bố mẹ vẫn đưa đón hàng ngày, không dám cho tự đi học. Ở nhà, nhiều trẻ được miễn việc giúp đỡ bố mẹ làm công việc nhà, dù là nhỏ nhất với lý do là để dành thêm thời gian cho con học, hoặc đã có “bác giúp việc”. Có rất nhiều lời giải thích, biện minh cho việc chăm sóc, nuông chiều con cái quá mức ở các bố mẹ. Hệ lụy của việc nuông chiều ấy là sẽ làm mất đi tính tự lập của trẻ, làm cho trẻ trở nên lười nhác, ỷ lại cho người khác những việc có thể thực hiện trong tầm tay. Bên cạnh đó, mặc dù điều kiện sống của lớp trẻ ngày càng tốt hơn, nhưng việc giao lưu, chia sẻ, kết bạn…của trẻ dường như lại thu h ẹp lại. Đầu tiên là việc tạo ra các kết nối trong gia đình, giữa bố mẹ và con cái. Thời gian bố mẹ dành cho con trẻ ngày càng eo hẹp. Do mải làm kinh tế, nên hầu hết các bố mẹ không có nhiều thời gian dành cho gia đình nhỏ của mình. Những chuyến đi công tác dài ngày, việc đi làm về muộn là chuyện bình thường trong xã hội hiện đại ngày nay. Ngay cả khi có mặt ở nhà, nhiều cha mẹ cũng không thể sắp xếp thời gian, để có thể tâm sự, trò chuyện cùng con trẻ. Hình ảnh một gia đình với bố mẹ ôm máy tính, nghe điện thoại, con cái chúi đầu chơi game trên ipad không còn hiếm thấy và ngày càng phổ biến. Có một nghịch lý là: công nghệ ngày càng phát triển, mạng xã hội ngày càng phổ biến để giúp con người có thể trao đổi với nhau thuận lợi nhất, thì ngược lại việc trao đổi thông tin bằng ngôn ngữ giữa người với người, sự quan tâm tới nhau trong các gia đình sử dụng công nghệ ngày càng kém đi. Cuối cùng những đứa trẻ cảm thấy cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của mình. Trẻ em không chỉ cần người lớn cho ăn ngon, mặc đẹp. Trong quá trình phát triển và hình thành nhân cách của trẻ, việc được quan tâm, bồi dưỡng về mặt tinh thần đôi khi quan trọng hơn nhiều so với vật chất. Ngay cả khi bạn có thể thuê cho con mình những gia sư, giáo viên tốt nhất, thì việc có bố mẹ quan tâm, chia sẻ, định hướng là không thể thiếu đối với sự trưởng thành của trẻ. 2
- Việc định hướng này sẽ quyết định 6070% sự thành công và tính cách của trẻ sau này. Ngoài ra một nguyên nhân nữa dẫn đến việc trẻ em thành phố rất thiếu các kỹ năng sống cần thiết, đó là việc trẻ thực sự thiếu một môi trường để có thể học hỏi, giao lưu, tương tác và trải nghiệm. các trường học và chương trình giáo dục của nước ta dù đã có nhiều cố gắng cải cách, nhưng thực tế cho thấy phương pháp giảng dạy vẫn còn theo lối mòn cũ, lý thuyết vẫn được coi trọng hơn thực hành. Là một quốc gia thường có các học sinh đoạt nhiều giải thưởng toán, lý, hóa quốc tế, nhưng nước ta lại là một nước công nghệ “đi mua”, các sáng chế hầu như chỉ là các công trình trên giấy. Các sinh viên ra trường hàng năm rất khó tìm kiếm được việc làm và có khi tốt nghiệp loại giỏi càng dễ thất nghiệp. Thật tiếc khi nhà trường chỉ chú trọng dạy văn hoá mà không quan tâm nhiều đến việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ dù học giỏi nhưng thụ động, không dám giao tiếp trước đám đông còn nguy hiểm hơn cả việc học dốt. Đến giờ nhiều gia đình và phụ huynh mới giật mình khi phát hiện ra một lỗ hổng trong việc giáo dục trẻ. Chúng ta đã quá nặng việc quan tâm cho trẻ được sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp, mà quên đi mất việc giáo dục cho trẻ một cách nghiêm túc các kỹ năng để giúp trẻ có nền tảng cơ sở để tự lập sau này. Việc thiếu được trang bị các kỹ năng sống cần thiết để giúp cho trẻ từ nhỏ đã hình thành các thói quen tốt, các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống sau này khi tham gia vào xã hội như: sự tự tin, tư duy sáng tạo, khả năng tập trung, niềm đam mê học tập suốt đời… 3. Lựa chọn của bố mẹ khi cho con tham gia các lớp học KNS. Hiện nay, có nhiều trung tâm đào tạo kỹ năng sống tại Hà Nội, nhưng chất lượng rất khó kiểm nghiệm. Cách dạy kỹ năng sống chủ yếu là cho trẻ xem videos các tình huống và hướng dẫn làm theo hay tổ chức một số hoạt động thực hành, vui chơi. Phương pháp tổ chức lớp học vẫn theo mô hình truyền thống, trong đó giáo viên đóng vai trò trung tâm, trẻ tiếp thu kiến một cách thụ động. Đặc biệt, do thiếu giáo viên, nhiều trung tâm nhận thầy cô giáo “tay ngang” nên không đủ chuyên môn dạy kỹ năng sống cho trẻ. Việc phụ huynh đổ xô đi tìm lớp kỹ năng sống cho con là điều dễ hiểu. Ngày trước, trẻ chủ yếu được chăm sóc, vui chơi trong môi trường tự nhiên, nên dần hình thành những kỹ năng sống cần thiết. Ngày nay, trẻ đi học bán trú ở trường, rồi đi học thêm, thời gian rảnh rỗi thì ngồi chơi game, xem tivi…, nên trẻ em ít có cơ hội trải nghiệm từ cuộc sống xung quanh. Thời gian bố m ẹ ti ếp xúc với con cái cũng rất hạn chế, nên việc chia sẻ và dạy dỗ, định hướng của bố mẹ cũng giảm xuống. Thực tế cho thấy, nhiều em học ở trường có thể rất giỏi nhưng ra ngoài lại thành “gà công nghiệp”. Tuy nhiên, thật không dễ dàng để phụ huynh tìm được một khóa học kỹ năng sống chất lượng và phù hợp về thời gian, học phí cho trẻ. Rất nhiều các trung tâm đào tạo kỹ năng sống đưa ra những lời quảng cáo như: “Ngay lập tức giúp con bạn trở nên tự tin”; “Giúp trẻ khai phá tài năng” … Để thu hút học sinh, nhiều trung tâm chia nhỏ khoá học thành 1 tuần đến 1 tháng, kinh phí từ 1 triệu 3
- đến vài chục triệu đồng. Với thời lượng như vậy, có thể khẳng định chất lượng cũng như hiệu quả mang lại không thể làm thay đổi được trẻ. Việc rèn luyện để hình thành các kỹ năng cần một quá trình lặp đi lặp lại và lâu dài, không thể có lớp học vài buổi mà có được kỹ năng sống. Phụ huynh không nên chạy theo phong trào và cũng đừng quá kỳ vọng vào sự thần kỳ của các khóa học kỹ năng sống “siêu tốc”. Việc lựa chọn cho trẻ tham gia khóa học Kỹ năng sống đôi khi còn gặp trở ngại đến từ chính các thành viên trong gia đình. Rất nhiều bố mẹ hiện đại nhưng tư duy và tầm nhìn lại tương đối lạc hậu theo kiểu “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, các bố mẹ này tự an ủi rằng con trẻ sẽ tự học khôn, lớn rồi sẽ biết. Nhóm bố mẹ mang tư duy này sẽ tự tay đánh mất đi cơ hội quý giá của con trẻ được học hỏi, tiếp thu, rèn luyện những kiến thức sống quý báu cho việc trưởng thành. Nhiều bố mẹ khác lại lựa chọn khóa học cho con theo hướng phong trào, thấy bạn bè cho con đi học thì cũng đăng ký cho con đi học cùng, mà không có sự suy xét, lựa chọn cẩn thận. Việc học cho vui, đi cho biết theo hướng phong trào sẽ không mang lại hiệu quả, thậm chí sẽ làm phí đi thời gian, tiền bạc của gia đình. Việc chọn lựa ngôi trường hay một trung tâm chuyên nghiệp về đào tạo kỹ năng sống là rất quan trọng cho trẻ. Nên nhớ thời gian trẻ được tham gia, tương tác, rèn luyện tại trường không nhiều. Các buổi học về kỹ năng sống thường chỉ kéo dài từ 12 tiếng. Các lớp học tiêu chuẩn chỉ nên có tối đa 15 trẻ. Các phụ huynh cũng nên tham khảo, trao đổi, nghe tư vấn cụ thể trước khi đăng ký học cho con. Đặc biệt phụ huynh nên quan tâm đến các vấn đề như nội dung học có phù hợp với con trẻ, chất lượng giáo viên, thời gian học. Một chương trình học đạt chuẩn phải có sự giao lưu giữa giáo viên và phụ huynh chặt chẽ. Cụ thể sau các buổi học, phụ huynh nên dành thời gian trao đổi với giáo viên để biết về nội dung bài học, biểu hiện của trẻ và trao đổi với giáo viên về cách tương tác với trẻ tại nhà. Cho con học Kỹ năng sống, khi nào là tốt nhất? Học tập không bao giờ là muộn, tuy nhiên việc cho trẻ học Kỹ năng sống thì không nên chờ hay trì hoãn. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng từ 36 tuổi là giai đoạn “cửa sổ vàng” cho trẻ học tập. Giai đoạn này não bộ của trẻ phát triển rất mạnh, khả năng ngôn ngữ, sáng tạo, ghi nhớ của trẻ rất cao. Tại thời điểm trẻ đang tò mò, khao khát tìm hiểu thế giới xung quanh là thời điểm tốt nhất để dạy trẻ biết cách cư xử đúng mực, tự tin giao tiếp, tư duy sáng tạo, … và hình thành các kỹ năng sống cơ bản. Các nghiên cứu cũng cho thấy, trẻ trong giai đoạn này, nếu được quan tâm nghiêm dạy dỗ nghiêm túc, sẽ hình thành những thói quen tốt giúp ích rất nhiều cho trẻ khi bước vào giai đoạn tiểu học. Trong quá trình làm việc, tiếp xúc với trẻ và qua tham khảo ý kiến của nhiều đồng nghiệp trong ngành, chúng tôi thấy có một thực trạng đáng lo ngại hiện nay, đó là việc các em học sinh đại đa số mệt mỏi, căng thẳng với việc 4
- học tập. Rất đông các em phát triển không đều, nhút nhát, hạn chế về giao tiếp, kém sáng tạo, thông minh nhưng làm việc máy móc, không biết làm việc nhóm, … Đầu tư cho con trẻ, đặc biệt là đầu tư giáo dục luôn là cách đầu tư khôn ngoan nhất. Kiến thức và kỹ năng là hàng hóa đặc biệt, không nên định giá giống những hàng hóa khác. Giá trị khóa học kỹ năng sống mang lại không thể đánh giá qua số tiền đắt hay rẻ. Những giá trị thực nhận được từ khoản đầu tư ấy sẽ xứng đáng với công sức chúng ta bỏ ra vì đã góp phần trang bị cho con trẻ hành trang để bước vào cuộc sống tương lai. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là việc rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành nhân cách của trẻ cho đến tuổi trưởng thành. Giáo dục kĩ năng sống phải được bắt đầu từ khi trẻ còn rất nhỏ, đặc biệt ở lứa tuổi Tiểu học. Bởi vì lửa tuổi này đã hình thành những hành vi các nhân, tính cách và nhân cách. Việc làm quen với các môn học để hình thành và xây dựng cho các em các kĩ năng sống như: Giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm,… sẽ giúp các em tự tin, chủ động biết cách xử lí mọi tình huống trong cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh của các em. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh sẽ hình thành và tập dượt cho các em những hành vi, thói quen, kĩ năng xử lý các tình huống diễn ra trong cuộc sống. Học sinh Tiểu học là những học sinh đang ở độ tuổi 6 11 tuổi, độ tuổi có nhiều biến động về tâm sinh lý rất nhạy cảm dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường sống bên ngoài tác động. 4. Vị trí, vai trò của người GVCN: GVCN là người được hiệu trưởng bổ nhiệm trong số những giáo viên có kinh nghiệm và có uy tín. Giáo viên chủ nhiệm lớp được thay mặt Hiệu trưởng quản lý và tổ chức học tập, rèn luyện đạt mục tiêu đào tạo. GVCN vừa đóng vai trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò người thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể lớp. GVCN là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm GVCN là cầu nối giữa lớp với các GV bộ môn, Ban giám hiệu, Tổ CM, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Nữ công...) và Cha mẹ học sinh GVCN là người tổ chức các HĐGD trong lớp, các HĐTT và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về công tác GD ĐT, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt của lớp mình được quy định tại QĐ số 16/QQDBGD ĐT ngày 5/5/2006 của BGD và ĐT về việc ban hành chương trình GDPT 5
- GVCN lớp là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của tập thể học sinh, là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội. 4.1. Những vấn đề cơ bản về công tác chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay: 4.1.1. Nhiệm vụ, chức năng của người giáo viên chủ nhiệm trong trường tiểu học: a. Nhiệm vụ Dựa vào tình hình thực tế, vạch kế hoạch giúp lớp tổ chức thực hiện chương trình đào tạo (học tập, rèn luyện) trong từng tuần, từng tháng, học kỳ và năm học. cùng cán bộ lớp theo dõi, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp chủ nhiệm theo từng tháng, học kỳ và năm học; đồng thời báo cáo kết quả đó với nhà trường vào cuối mỗi tháng. Liên hệ với gia đình HS để phối hợp giáo dục HS khi cần thiết. Ghi nhận xét, xác nhận các vấn đề thuộc về quản lý hành chính Nhà nước trong phạm vị hoạt động của lớp (như các đơn từ của HS, các báo cáo của lớp ...) Kết thúc thời gian năm học, chủ nhiệm lớp phải bàn giao hồ sơ công tác chủ nhiệm lớp cho cán bộ văn phòng và bàn giao tình hình lớp cho giáo viên chủ nhiệm mới. b. Chức năng Phát hiện, bồi dưỡng và cử đội ngũ cán bộ lớp và phân công nhiệm vụ nhằm giúp các em tổ chức thực hiện tốt mọi hoạt động của lớp, của trường. Định hướng, tư vấn và giúp các em tổ chức thực hiện các mặt hoạt động của lớp. Tổng hợp tình hình, đề xuất các giải pháp để tham mưu cho Trường về công tác giáo dục, rèn luyện của HS. Nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của HS; phối hợp với gia đình và đoàn thể để giúp đỡ, cảm hoá HS trong rèn luyện để trở thành người tốt cho xã hội. c. Quyền hạn Được mời dự họp hoặc là thành viên hội đồng giải quyết các vấn đề về HS của lớp mình phụ trách. Được liên hệ với các giáo viên bộ môn, Tổ trưởng tổ chuyên môn, BGH, ĐTN, Ban đại diện CMHS để phản ánh tình hình giảng dạy của giáo viên, tình hình học tập, rèn luyện của HS và bảo vệ quyền lợi chính đáng của HS lớp mình phụ trách. Được quyền cho học sinh nghỉ học (khi HS có đơn với lý do chính đáng) một ngày trong phạm vi gần trường (25 km). Được gọi HS cá biệt đến nơi làm việc để giáo dục HS. 6
- Được mời phụ huynh HS đến trường để phối hợp giáo dục khi cần thiết.Giáo viên chủ nhiệm là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS.. + Ngoài các nhiệm vụ như giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm còn có những chức năng, nhiệm vụ sau đây: + Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của từng học sinh và của cả lớp. +Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm HS, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh; + Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng; Tham gia hướng dẫn hoạt động tập thể, HĐGD và RLHS do nhà trường tổ chức. + Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh; + Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng, hoặc phó hiệu trưởng khi được uỷ quyền. + Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp, thường xuyên hướng dẫn học sinh tạo dựng môi trường thân thiện trong mỗi lớp học; là thành viên tích cực trong phong trào thi đua xây dựng "Trường học thân thiện – Học sinh tích cực". Giáo viên chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.Vì vậy đề nghị các giáo viên chủ nhiệm nêu cao tinh thần trách nhiệm, với mục đích "Tất cả vì học sinh thân yêu" tích cực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, góp phần giáo dục nhân cách học sinh có hiệu quả và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. 4.1.2. Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục địa phương trong giai đoạn hiện nay: Về đạo đức nghề nghiệp. GVCN cần quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu, nguyên lý giáo dục.... Thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp CN... GVCN phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục ngắn hạn... Xây dựng tập thể HS lớp CN... Tổ chức các hoạt động giáo dục và các hình thức giao lưu đa dạng... Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong lớp. Đánh giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của HS về các mặt giáo dục... Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường... 7
- Cập nhật hồ sơ công tác GVCN và hồ sơ học sinh... Hiện có những thay đổi và tác động của môi trường kinh tế xã hội cũng như môi trường giáo dục đối với nhà trường phổ thông và các hoạt động GD trong nhà trường, trong đó có các hoạt động thuộc công tác GV chủ nhiệm lớp. Theo đó, cần thiết phải chú trọng hơn nữa đến công tác GV chủ nhiệm lớp và đề cao vai trò của GV chủ nhiệm lớp. Ngoài việc tực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, GV chủ nhiệm trước hết phải là nhà GD, là người tổ chức hoạt động GD, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. Đồng thời, người GV chủ nhiệm lớp bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của HS. Mặt khác, họ còn là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức – xã hội trong và ngoài trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng GD. Người GV chủ nhiệm lớp là người đại diện cho quyền lợi chính đáng của HS, bảo vệ HS về mọi mặt một cách hợp lý, phản ánh trung thành mọi nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của HS với Ban giám hiệu nhà trường, với các GV bộ môn, với gia đình HS, với cộng đồng và với các đoàn thể xã hội khác. Trên cơ sở xác định phẩm chất và năng lực của GV chủ nhiệm lớp, cần chú ý đến các điều kiện để người GV có thể làm công tác chủ nhiệm hiệu quả. Các điều kiện này rất đa dạng. Bên cạnh đó, trong quá trình lao động nghề nghiệp, GV phải được bồi dưỡng về công tác chủ nhiệm lớp với nội dung như: phương pháp xây dựng hồ sơ công tác chủ nhiệm, kỹ năng làm công tác chủ nhiệm, kỹ năng tổ chức các hoạt động xã hội... Kinh nghiệm của các GV chủ nhiệm lớp cũng chỉ rõ: Thành công của phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" ở mỗi nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào người GV chủ nhiệm lớp. Điều này khẳng định, hơn những GV khác, người GV chủ nhiệm lớp không chỉ nắm vững mục tiêu, nội dung của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực" mà còn thuần thục trong phương pháp triển khai phong trào thi đua này, có kỹ năng tích hợp nội dung của phong trào thi đua với nội dung của công tác chủ nhiệm lớp. 4.1.3. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với BGH, Đồng nghiệp, phụ huynh, cha mẹ học sinh và cộng đồng: * Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với BGH: Mối quan hệ giữa GVCN lớp với BGH và HĐGD nhà trường là mối quan hệ của người bị quản lý đối với lãnh đạo, vì thể nó cần thiết phải thực hiện những công việc sau: + Tiếp nhận chủ trương, kế hoạch và những định hướng cho từng hoạt động cụ thể của BGH và HĐGD nhà trường. + Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch cho phù hợp với tình hình của lớp chủ nhiệm. Trong quá trình xây dựng và triển khai kế 8
- hoạch, nếu xuất hiện những khó khăn hoặc những tình huống đột biến không thể hoặc không thuộc quyền xử lý thì cần báo cáo kịp thời với BGH và HĐGD để lấy ý kiến chỉ đạo, bổ xung, điều chỉnh kế hoạch hoặc thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động tận dụng sự hỗ trợ về tinh thần và vật chất của cấp trên. Báo cáo kế hoạch hoạt động chủ nhiệm lớp theo định kỳ (cuối học kỳ, cuối năm học) hoặc đột xuất nếu có với BGH và HĐGD theo hướng dẫn chung của nhà trường (đánh giá, xếp loại học tập, rèn luyện đạo đức và các mặt hoạt động khác của từng học sinh và của cả lớp). + Đề đạt nguyện vọng chính đáng của học sinh lớp chủ nhiệm với BGH và HĐGD nhà trường, đề xuất các phương án giải quyết với sự suy nghĩ thấu đáo, cẩn trọng. + Phản ánh những ý kiến nguyện vọng của gia đình học sinh về sự đồng tình hay phản bác đối với những chủ trương, quy định của trường trong các mặt hoạt động giáo dục để cấp trên có sự xem xét, giải đáp hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với Đồng nghiệp: Trong nhà trường các em được học tốt tất cả các môn theo qui định. Ngoài công tác chủ nhiệm, GVCN còn phải phụ trách các bộ môn chuyên môn vì thế viếc phối hợp với giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng và cần thiết. Phối hợp với các lực lượng khác như: bảo vệ, thư viện, y tế, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể và bộ phận giám thị... để giáo dục học sinh. GVCN cần phản ánh nguyện vọng của học sinh, đề xuất yêu cầu và đề nghị các lực lượng này cùng phối hợp tác động tới học sinh, hỗ trợ các hoạt động của lớp khi cần thiết. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với Phụ huynh, cha mẹ học sinh và cộng đồng: Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên liên lạc, trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của các em trong nhà trường (qua số điện thoại, liên lạc trực tiếp...). Vậy khi đặt mình vào vị trí của người phụ huynh, thì hãy suy nghĩ họ mong muốn điều gì ở người giáo viên chủ nhiệm? Chính vì thế giáo viên chủ nhiệm phải thật sự quan tâm phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để cùng nhau tìm ra phương pháp hiệu quả nhất nhằm hạn chế những tiêu cực làm sa sút về nhân cách đạo đức con người mà trong đó có con em chúng ta. Hãy đến nhà của các em thường xuyên vi phạm để có thể nắm tình hình một cách chính xác nhất, đừng ngồi chờ PHHS đến rồi mới phản ánh ý kiến, khi thấy sự việc là cần thiết! 4.2. Hồ sơ về công tác chủ nhiệm lớp: Sổ chủ nhiệm lớp. Kế hoạch công tác chủ nhiệm hàng tháng. Sổ ghi các nội dung thu chi quỹ lớp và các khoản thu khác. Sổ liên lạc với gia đình học sinh. 9
- Nội quy của học sinh. Sổ thi đua của lớp. Các văn bản liên quan đến công tác chủ nhiệm. Sổ theo dõi kết quả học tập của HS để phối hợp với GV dạy lớp lên kế hoạch nâng HS kém hoặc bồi dưỡng HS giỏi, Sổ điểm. Giáo án lên lớp tiết chủ nhiệm và sinh hoạt dưới cờ: dùng thuật ngữ giáo án để thể hiện tính nghiêm túc về mặt trách nhiệm chứ thật ra sự cần thiết ở đây chính là phải chắt lọc thông tin rõ ràng khúc chiết và tuyệt đối không được cháy giáo án. Các bài kiểm tra chuyên môn. Các bài báo cáo, bài tập về nhà để kiểm tra. Sổ cập nhật những thông tin khẩn cấp. Sổ họp phụ huynh học sinh, Biên bản các cuộc họp phụ huynh học sinh. Sổ theo dõi những các hoạt động ngoài giờ lên lớp, chương trình phụ đạo và bồi dưỡng HS giỏi... Kết luận Khác với trung học, giáo viên (GV) dạy các môn học ở tiểu học cũng là GV chủ nhiệm. Chính vì tập trung đầu tư công sức vào bài dạy của nhiều môn mà đa số thầy cô ở tiểu học gần như chỉ thực hiện công tác chủ nhiệm trên sổ chủ nhiệm và sổ liên lạc theo quy định. Thực tế, công tác chủ nhiệm ở tiểu học rất quan trọng, nếu làm tốt, nó sẽ hỗ trợ rất nhiều cho thầy cô trong việc giảng dạy, giáo dục học sinh (HS). GV tiểu học thường có thời gian gần gũi các em rất nhiều, một số trường hợp thầy cô tiếp xúc với HS còn nhiều hơn cha mẹ. Vì vậy, thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Làm tốt công tác chủ nhiệm, GV có thể ngăn chặn được trẻ bỏ học, trẻ chán học, trẻ trầm uất vì gia đình, trẻ bỏ nhà đi hoang, trẻ giải quyết bất đồng bằng bạo lực... đồng thời phát huy được những năng khiếu tiềm ẩn ở các em, từ đó các em cũng thích đi học và thích học hơn. Thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Để làm tốt công tác chủ nhiệm, việc đầu tiên khi nhận lớp, GV phải nắm được thông tin cá nhân từng em. Lưu ý các trường hợp HS mồ côi, cha mẹ ly hôn, cha mẹ làm ăn xa (hoặc lý do khác) phải ở với người thân, gia đình quá khó khăn về kinh tế, bản thân các em bị bệnh mãn tính, bệnh phải điều trị dài hạn... Kế tiếp là các em được phụ huynh quá cưng chiều, các em học yếu, các em thường nghịch phá chọc ghẹo bạn bè. Các trường hợp này thường nảy sinh nhiều vấn đề trong năm học, bởi ở tuổi tiểu học, trẻ rất nhạy cảm, hành động theo bản năng, dễ bi quan trước những điều không tốt đẹp từ gia đình hay từ bạn bè trường lớp.... Từ những thông tin này, GV nên gần gũi trò chuyện tiếp xúc các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể dễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi cần thiết. Qua đó, 10
- thầy cô hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ nông cạn, sai lầm, các hành vi không hay... hướng các em vào điều tốt đẹp, lạc quan hơn. Quan hệ mật thiết với phụ huynh HS cũng là điều hết sức quan trọng trong công tác chủ nhiệm. Đừng đợi đến các kì họp phụ huynh hay khi các em vi phạm nội quy trường lớp mới mời phụ huynh lên để trao đổi. GV có thể thăm hỏi chuyện gia đình, trao đổi cách dạy dỗ con em khi có dịp gặp mặt nhau như lúc phụ huynh đưa đón con em. Thầy cô cũng đừng để các cuộc họp phụ huynh là lúc phê phán, chê bai việc học tập, hạnh kiểm của HS. Hãy làm cho cuộc họp trở thành buổi trao đổi thân mật giữa người giáo dục trẻ em được đào tạo bài bản ở trường sư phạm và những người giáo dục trẻ theo bản năng, theo vốn hiểu biết của bản thân. Cả hai bên đều học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cho nhau. Làm được như thế, chắc chắn các thầy cô sẽ được sự tin yêu ở phụ huynh và họ sẵn sàng hỗ trợ cho GV trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt mà GV đề ra, cũng như dễ dàng cung cấp mọi thông tin về trẻ ở gia đình. Ngoài ra, công tác chủ nhiệm còn phải làm cho lớp học đoàn kết, yêu thương nhau, luôn quan tâm gắn bó với nhau. Để tạo được một lớp học như thế, người GV cần phải tạo điều kiện cho HS thể hiện sự quan tâm của mỗi thành viên trong lớp, chẳng hạn như cho các em tự làm thiệp chúc mừng bạn trong lớp nhân ngày sinh nhật, bạn trai làm thiệp chúc mừng bạn gái nhân ngày 83, thăm các bạn bị bệnh, viết nhật ký lớp (mỗi HS viết 1 ngày, nêu tất cả những vui buồn của lớp trong ngày mà mình cảm nhận được), động viên các em tham gia tất cả các phong trào của trường, của đội, nhất là các phong trào đòi hỏi sự tham gia tập thể... Có thể nói để vừa phải đảm bảo tốt việc truyền thụ kiến thức văn hóa ở nhiều môn học cho HS, vừa phải làm tốt công tác chủ nhiệm, đó là việc không dễ dàng nhưng "Chính sự quan tâm, lòng yêu thương và sự chia sẻ của người thầy đã giúp những đứa trẻ phát huy hết khả năng của chúng" – theo John O'brien. Mong rằng các thầy cô giáo tiểu học đừng quên điều đó. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất đó là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội dung không thể tách rời của quá trình giáo dục. Mục đích của quá trình giáo dục kỹ năng sống là nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng cơ bản, cần thiết nhất để các em có thể thích ứng với cuộc sống của xã hội thời hiện đại, luôn có những thay đổi trong điều kiện của một xã hội đang trên đà phát triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong 11
- những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thôn. Từ thực tiễn trên, qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 nói riêng và học sinh tiểu học nói chung là một vấn đề cần thiết nên tôi đã chọn và viết đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 2”. II. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 2” III. Tác giả sáng kiến Họ và tên: Nguyễn Thị Giang Địa chỉ : Đồng Tĩnh – Tam Dương – Vĩnh Phúc Số điện thoại: 0394957971 Email: nguyengiangthc@gmail.com IV. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Giang V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Lĩnh vực có thể áp dụng sáng kiến là: Đề tài này tập trung nghiên cứu về các biện pháp nâng cao kĩ năng sống cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm lớp học ở trường Tiểu học nói chung và lớp 2A nói riêng. Vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết: Đề tài này nghiên cứu nhằm giúp các em học sinh : Rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp học sinh nhanh chóng hoà nhập và khẳng định vị trí của mình trong tập thể, mà xa hơn là một cộng đồng, xã hội. Do đó, cho dù các em có tài giỏi, thông minh đến đâu nhưng thiếu kỹ năng sống, các em cũng không thể tiếp cận với môi trường xung quanh, hòa nhập cũng như khẳng định mình. Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống cho các em là điều rất cần thiết. Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em. Khi xảy ra vấn đề nào đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống, các em sẽ không đủ kiến thức để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp các em sớm có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội. VI. Ngày áp dụng sáng kiến lần đầu 12
- Được áp dụng từ năm học 20162017 đến năm học 20172018 (từ 9/2016 đến 5/2017) VII. Mô tả bản chất của sáng kiến 1. Nội dung sáng kiến 1.1. Những nội dung được đề cập trong Sáng kiến kinh nghiệm a) Thực trạng vấn đề nghiên cứu b) Những thuận lợi c) Những tồn tại cần khắc phục d) Các giải pháp thực hiện e) Một số biện pháp nâng cao kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 1.2. Thực trạng: a) Đối với học sinh: Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng hiện nay kĩ năng của các em còn rất nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục chúng ta thường mới chỉ quan tâm tới việc dạy chữ và chưa quan tâm nhiều tới việc dạy làm người cho học sinh. Vì vậy việc thích ứng với xã hội, với cuộc sống xung quanh là một vấn đề khó với các em. Qua điều tra cho thấy tình trạng học sinh nói tục, chửi bậy, đánh nhau vẫn xảy ra. Trong đó các kĩ năng như tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành và củng cố nhưng chưa thể hiện được. Học sinh ngày càng thực dụng, ích kỉ và lười hoạt động hơn. b) Đối với giáo viên: Hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ở trong nhà trường đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức. Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau. Nhiều giáo viên vẫn coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp từ đó cũng coi nhẹ việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh. c) Đối với môi trường địa phương: Trường nằm trong địa bàn khu vực gần chợ. Đa số người dân làm nghề buôn bán và lao động là chính vì vậy điều kiện kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Nhiều học sinh phải ở nhà với ông bà vì bố mẹ đi làm ăn xa, nên thiếu sự quan tâm dạy dỗ của bố mẹ. Đây chính là điều kiện tốt để các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các em nếu không có sự quản lý tốt của nhà trường gia đình – xã hội. 13
- Vậy làm thế nào để hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh được hiệu quả? 1.2.1. Những thuận lợi Giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với học sinh nên tìm hiểu và nắm bắt được những khó khăn và tồn tại của các em khi học tập và giao tiếp rất thuận lợi. Những buổi tham dự hội thảo chuyên đề, hội thi giáo viên giỏi của trường, của Phòng giáo dục đã góp phần cho giáo viên được học hỏi, phấn đấu tìm tòi nâng cao kiến thức, kĩ năng thực hành sư phạm. Từ đó vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Có những kinh nghiệm thực tế giảng dạy và cuộc sống hàng ngày. 1.2.2. Những tồn tại cần khắc phục: a) Về phía giáo viên: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, tham gia sắm vai trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng hợp tác cho các em. b) Về phía học sinh: Về Kiến thức: + HS hiểu thế nào là kĩ năng sống? + HS hiểu lợi ích của học kĩ năng sống. Về kĩ năng: + Rèn luyện kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội; Về Thái độ: Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội. Đối với HS tiểu học việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này. 2. Khả năng áp dụng của sáng kiến 2.1. Các giải pháp thực hiện 14
- Trong quá trình giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên, tôi đưa ra một số giải pháp sau: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc đổi mới phương pháp dạy học. - Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoại khoá. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các buổi chào cờ đầu tuần. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua xây dựng trường, lớp xanhsạchđẹpan toàn. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học: 2.1.1. Một số biện pháp nâng cao kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 Qua thực tế, trong học kì vừa qua tôi đã áp dụng phối hợp các biện pháp đã có và nghiên cứu thêm các biện pháp sau đây: a. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp Mỗi thầy giáo, cô giáo muốn hoàn thành nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm trước hết phải có tình yêu thương con người, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải hiểu về tâm lý lứa tuổi, phải có cái nhìn tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đối với học sinh có những biểu hiện lệch lạc về nhân cách giáo viên chủ nhiệm chính là người cùng với gia đình có những biện pháp “kéo” em về với “cái thiện”. Thầy, cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo về lời ăn, tiếng nói, tác phong làm việc cho đến trình độ chuyên môn; quan hệ với trò như người thân để trò cảm thấy vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm lâu thấm đất. Trước đây, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu là định hướng, hướng dẫn hành vi đạo đức cho HS. Hiện nay giáo viên chủ nhiệm không chỉ làm công tác chuyên môn mà còn phải có tình cảm để giải quyết những tình huống phát sinh của học sinh trong lớp. Vì thế ngoài việc phải đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, gây hứng thú học tập cho HS. Và điều không thể thiếu là người giáo viên chủ nhiệm phải có tâm huyết với nghề và tình yêu thương đối với HS. 15
- Vậy để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua công tác chủ nhiệm lớp thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần: Tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hình thức dạy học của mình, qua các giờ sinh hoạt để giáo dục đạo đức và nhân cách cho HS. Xây dựng hành vi giao tiếp giữa “Thầy với thầy, trò với trò, thầy với trò” rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hoá, lên án mọi hành vi bạo lực học đường và xã hội. Thường xuyên liên hệ với cha mẹ HS, kịp thời nắm bắt thông tin, cùng kết hợp với cha mẹ HS rèn cho HS kĩ năng ứng xử văn hoá, rèn luyện sức khoẻ phòng chống bạo lực. Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ phát huy được tính tích cực trong việc rèn luyện kĩ năng sống của thầy cô giáo và học sinh. Giáo dục cho HS nhận biết được lợi ích của việc rèn luyện kĩ năng về mọi mặt: cho bản thân, gia đình, xã hội và đất nước. Đồng thời biết quan tâm chia sẻ đến mọi người. Tổ chức lớp cũng nên đổi mới: lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó cần thay đổi theo từng tháng để từng học sinh biết được các công việc của người lãnh đạo, các khó khăn gặp phải và xử lí ra sao. Đồng thời biết cảm thông với công việc của người chỉ huy. Qua đó, rèn cho các em những kĩ năng chỉ huylãnh đạo cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự đổi mới phương pháp trong việc thực hiện công tác chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để HS rèn luyện và tự rèn luyện. Coi trọng tự rèn luyện của HS và động viên kịp thời. Vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho HS còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của người thầy. Học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của thầy. Vì vậy để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh HS trước hết “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đã phát động. 2.1.2 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc đổi mới phương pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, 16
- nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho các em. 2.1.3 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoại khoá Hiện nay, việc tổ chức các hoạt động ngoại khoá luôn được các trường học quan tâm, chú trọng để rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Các buổi hoạt động ngoại khoá đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục trẻ, mang đến cho các em một môi trường học tập năng động, tích cực. Thông qua các hoạt động ngoại khoá, trẻ em sẽ được phát triển trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo, đồng thời phát huy sự nhanh nhạy, khéo léo. Ngoài ra, hoạt động ngoại khoá còn giúp trẻ sống hoà đồng, gắn bó với nhau. Ví dụ: GV tổ chức cho HS thăm nghĩa trang liệt sĩ của xã, nằm ngay sau trường thì các em sẽ biết cùng nhau hợp tác để đi theo hàng lối, tôn trọng kỉ luật, tôn trọng những người đã hi sinh thân mình vì Tổ quốc vì nền độc lập và sự ổn định hòa bình cho các em được hưởng hạnh phúc, được cắp sách đến trường. Vậy các em phải biết trân trọng, biết giữ gìn, vệ sinh và bảo vệ nghĩa trang cho trang nghiêm và sạch đẹp, biết cùng nhau dâng hoa lên các chiến sĩ nhân ngày Thương binh liệt sĩ (27/7). Hy vọng những thông tin bổ ích trên sẽ giúp giáo viên có cái nhìn đúng đắn và toàn diện về kĩ năng hợp tác cho trẻ để giúp các em phát triển một cách tốt nhất. Giáo dục kĩ năng hợp tác trong học tập và vui chơi cho học sinh Tiểu học thông qua các môn học đã giúp các em hình thành, xây dựng và rèn các kĩ năng hợp tác cần thiết để các em tự giải quyết được các vấn đề trong học tập, hoạt động và trong cuộc sống hàng ngày. 2.1.4 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các buổi chào cờ đầu tuần. Mục tiêu buổi chào cờ không chỉ là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục trong tuần qua, triển khai kế hoạch tuần tới của Ban giám hiệu nhà trường mà cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng cho học sinh. Chẳng hạn như để các em được thay mặt lớp trực đánh giá, nhận xét thêm phần giao lưu với toàn trường qua các tiết mục văn nghệ, kể chuyện, câu đố, trò chơi… do chính các em đứng ra tổ chức dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm. 2.1.5 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua xây dựng trường, lớp xanhsạchđẹpan toàn. 17
- Trong đó cần chú trọng tạo môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống như trồng và chăm sóc vườn cây thuốc nam, các câu khẩu hiệu ở các cây xanh, bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở các em. Ngoài ra, nhà trường cần phối hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường để cùng góp phần giáo dục kỹ năng sống cho các em. 2.1.6. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp Hoạt động văn hóa nghệ thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong sinh hoạt tập thể của trẻ em, nhất là HS tiểu học. Hoạt động này bao gồm nhiều thể loại khác nhau: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện… Các hoạt động này góp phần hình thành cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa. Hoạt động vui chơi giải trí, TDTT: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với HS ở trường tiểu học. Hoạt động này làm thỏa mãn về tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái… Nói về hoạt động này thì hầu hết các trường có tổ chức thực hiện nhưng xét về tính hiệu quả thì không phải nhà trường nào cũng đạt được. Sở dĩ như thế là do điều kiện về cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn của tổng phụ trách chưa thể đáp ứng được. Nhưng dù sao chúng ta cũng phải nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này để hướng hoạt động đạt mục tiêu đã đề ra. Hoạt động xã hội: Bước đầu đưa HS vào các hoạt động xã hội để giúp các em nâng cao hiểu biết về con người, đất nước, xã hội. Đây là một hoạt động tuy khó nhưng nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua hoạt động này, các em sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Trong thực tế, hoạt động này đã được các nhà trường tiến hành tương đối tốt. Nhưng, theo chúng tôi, hoạt động này phải được khai thác một cách triệt để nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em. Hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của HĐNGLL. Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường, lớp. Đây là hoạt động tưởng như là thường xuyên nhưng thật ra trong nhà trường bây giờ HS rất ít được tham gia các hoạt động này. Có chăng chỉ là ép buộc và hình thức. Nhưng đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung 18
- quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động. Hoạt động tiếp cận khoa học kĩ thuật: Đây là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ tạo cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích học tập tốt hơn. Những hoạt động này có thể là sưu tầm những bài toán vui, tham gia sinh hoạt CLB khoa học, tìm hiểu các danh nhân, các nhà bác học… Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho các em làm quen với việc nghiên cứu khoa học và tự khẳng định mình. Có thể nói đây là hoạt động mà các nhà trường ít chú trọng tới ít chú trọng không phải là do không hiểu hết tầm quan trọng của nó mà là do điều kiện không cho phép. Đó là điều kiện về cơ chế, về thời gian, về năng lực của đội ngũ giáo viên tổng phụ trách… Tóm lại, hoạt động ngoài giờ lên lớp có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh. Do đó, các nhà quản lý giáo dục cần tạo mọi điều kiện thật tốt cho những giáo viên phụ trách công tác này để sao cho việc rèn luyện KNS cho HS đạt được hiệu quả cao nhất. 2.1.7 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học Qua thực tế cho ta thấy một bộ phận không nhỏ học sinh càng lớn lên đạo đức càng đi xuống. Biểu hiện ở chỗ thiếu tôn trọng thầy cô, coi thường kỉ luật của nhà trường, sống không lành mạnh, xa rời chuẩn mực đạo đức của dân tộc Việt Nam, gian lận trong học tập và thi cử....Đó là những biểu hiện đáng lo ngại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng một nguyên nhân được coi là nguồn gốc sâu xa là do các em thiếu kĩ năng sống. Giáo dục kĩ năng sống là một nội dung rất quan trọng và thiết thực trong chiến lược giáo dục toàn diện của một nền giáo dục tiên tiến. Vậy Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua các môn học là một nội dung thiết yếu mà bất cứ nhà trường nào cũng phải quan tâm đến. Thông qua nội dung bài học, cách tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên hình thành và xây dựng cho các em các kĩ năng sống như: quan sát, nhận xét, giao tiếp, phân tích, ....Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 nói chung và Tiểu học được thực hiện thông qua dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo dục, nhưng không phải là lồng ghép, tích hợp thêm kinh nghiệm sống vào nội dung các môn học và hoạt động giáo dục một cách quá tải, mà theo một cách tiếp cận mới: đó là sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Từ đó lồng ghép một cách nhẹ nhàng những kinh nghiệm sống vào bài học đến từng đối tượng học sinh. Trong quá trình dạy lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua các môn học cần phải khơi gợi và phát huy sự tham gia của các em bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên. Tuyệt đối không nên áp dụng ý kiến hay suy nghĩ 19
- chủ quan của giáo viên. Tuyệt đối không được phê bình hay đánh giá khi các em làm gì đó chưa tốt. Bởi nếu vậy sẽ làm mất sự chủ động, tự tin và hoà nhập cùng bạn bè vì ở lứa tuổi này các em rất muốn thể hiện mình. Trong chương trình giáo dục Tiểu học vấn đề Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học được thể hiện rõ nhất trong một số phân môn như: Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội. 2.1.8 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn Tiếng Việt Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy, góp phần mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người. Kĩ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của môn Tiếng Việt là kĩ năng giao tiếp, sau đó là kĩ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học, có nhiều bài học mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục các kĩ năng giao tiếp xã hội như: Lập danh sách học sinh, Lập thời gian biểu, Viết nhắn tin, Làm biên bản cuộc họp. Khả năng Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của môn Tiếng Việt không chỉ thể hiện ở nội dung môn học mà còn được thể hiện qua phương pháp của giáo viên. Để hình thành các kiến thức và kĩ năng mà chương trình môn Tiếng Việt đặt ra với học sinh Tiểu học, người giáo viên phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp...Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai... HS có cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kinh nghiệm sống cần thiết. 2.1.9 Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn Tự nhiên và xã hội Môn Tự nhiên và Xã hội là một môn học giúp HS có một số kiến thức cơ bản ban đầu về con người và sức khoẻ, về một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên xã hội. Chú trọng đến việc hình thành và phát triển các kĩ năng trong học tập như: quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, đặt câu hỏi và diễn đạt hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tương đơn giản trong tự nhiên và trong xã hội,.Đặc biệt môn học giúp HS xây dựng các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng; yêu gia đình, quê hương, trường học và có thái độ thân thiện với thiên nhiên. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2238 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn