intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp quản lí, chỉ đạo hình thành và phát triển phẩm chất góp phần giáo dục toàn diện học sinh tiểu học

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:44

33
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đề cập đến những biện pháp quản lí, chỉ đạo hình thành và phát triển phẩm chất học sinh tiểu học góp phần giáo dục toàn diện con người. Để hình thành và phát triển phẩm chất tốt cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải điều chỉnh phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình dạy học và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện kịp thời những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định phản ánh đúng những ưu điểm nổi bật, những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm rèn luyện cho học sinh có những phẩm chất tốt góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp quản lí, chỉ đạo hình thành và phát triển phẩm chất góp phần giáo dục toàn diện học sinh tiểu học

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Thời đại CNH – HĐH đòi hỏi con người cần có tri thức và kĩ năng thực  hành. Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu giáo dục tiểu  học nhằm giúp cho học sinh hình thành những cơ  sở  ban đầu cho sự  phát triển   đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản  để  tiếp tục học trung học cơ  sở. Mỗi môn học  ở  tiểu học đều góp phần hình  thành và phát triển nhân cách cho học sinh và cung cấp cho các em những tri thức  cần thiết. Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản của học sinh được  hình thành  ở  tiểu học và được sử  dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người.  Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, cách  thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ   năng học tập và khả  năng tự  học, sáng tạo. Giáo dục tiểu học chính là nền tảng  của giáo dục phổ thông, đặt cơ  sở  vững chắc cho sự  hình thành nhân cách và sự  phát triển toàn diện con người. Thành quả  của GDTH có giá trị  lâu dài, có tính  quyết định, vì thế  làm tốt GDTH là đảm bảo sự  phát triển bền vững của đất   nước. Luật giáo dục năm 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục  là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,   thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã  hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp  ứng với yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như  vậy, giáo dục giữ  vai trò hết sức quan trọng trong việc đào tạo và bồi  dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.  Từ  xưa ông cha ta đã từng dạy “Tiên học lễ, hậu học văn”. Điều đó muốn  nhấn mạnh rằng trước khi học văn hóa, con người cần phải có đạo đức. Hồ  Chủ  Tịch đã từng nói: “Dạy cũng như  học phải chú trọng cả  tài lẫn đức. Đức là đạo  1
  2. đức, là cái gốc quan trọng, nếu không có đạo đức thì tài cũng vô dụng”. Bởi vậy có  thể  nói đạo đức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hình thành và phát triển  nhân cách của con người. Xã hội càng phát triển đòi hỏi con người càng phải hoàn  thiện, một con người hoàn thiện về nhân cách là con người không chỉ có tài mà cần  phải có cả đức. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Có tài mà không có đức là   người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Câu nói ấy của   Bác vô cùng thấm thía trong lòng mỗi thầy, cô giáo chúng ta. Đức và tài gắn chặt   nhau, vì có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì   vô dụng, thậm chí còn có hại. Giữa đức và tài thì đức là gốc, trong đức có tài và  trong tài có đức, tài càng cao thì đức càng lớn. Con người phải có tài và đức thì mới   làm tròn nhiệm vụ. Tuy nhiên, nhân cách của con người muốn được xây dựng và  phát triển cần bắt đầu ngay từ  khi mới sinh ra và đặc biệt là trong giai đoạn ngồi  trên ghế nhà trường chứ không phải chỉ trong một sớm một chiều. Có thể nói, việc  hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực, tri thức cho thế  hệ  trẻ  là một   trong những nhiệm vụ  quan trọng, cấp thiết, đây cũng là một nhiệm vụ  của nhà   trường nói riêng, của ngành giáo dục nói chung cần phải thực hiện.  Hình thành và phát triển dục phẩm chất cho học sinh Tiểu học là một mặt của   hoạt động giáo dục theo thông tư  Số: 22/2016/TT­BGDĐT ngày 22/9/2016 Thông  tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành   kèm theo Thông tư  số  30/2014/TT­BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ  trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chính là giáo dục các em biết chăm học, chăm làm;  tự  tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ  luật; đoàn kết, yêu thương. Qua đó góp phần   hình thành cho trẻ những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho các em những quy   tắc hành vi thể hiện trong thái độ với bạn bè, gia đình, người khác và đối với Nhà  nước, Tổ quốc. Phẩm chất của con người mới xã hội chủ nghĩa không chỉ là thành  phần quan trọng về cơ bản của giáo dục mà là mục đích của toàn bộ công tác giáo   dục thế hệ trẻ. Trong giáo dục không những có kiến thức mà phải có phẩm chất.   Vì vậy công tác giáo dục trước tiên phải đặt chăm lo bồi dưỡng phẩm chất cho  2
  3. học sinh, coi đó là cái căn bản, cái gốc cho sự  phát triển nhân cách. Để  nâng cao   chất lượng giáo dục cho học sinh thì ngoài việc học tập rèn luyện kiến thức ở lớp,   học sinh còn phải tu dưỡng và rèn luyện về phẩm chất, kỹ năng sống, kỹ năng hòa  nhập và ứng xử trong cuộc sống. Tuy nhiên, ngày nay cùng với sự  phát triển của quá trình CNH ­ HĐH thì  những tác động và  ảnh hưởng của mặt trái kinh tế  thị  trường càng gia tăng. Kéo  theo đó là những tệ  nạn xã hội, sự  xuống dốc cực kì nghiêm trọng về  mặt nhân  cách của con người. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, hiện tượng học  sinh vô lễ với thầy cô giáo, con cái không vâng lời ông bà, cha mẹ; thậm chí còn có   những trường hợp sát hại cả  người thân để  có tiền ăn chơi phung phí. Hay tình  trạng học sinh quay cóp, gian lận trong thi cử; không chấp hành các quy định   trường, lớp; chưa biết nhận lỗi và sửa lỗi... Đó là những vấn đề  nhức nhối đang  được cả xã hội quan tâm.  Năm học 2017­2018 là năm học tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29­NQ/TW   của BCH TW Đảng (Khóa XI) về  “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào   tạo, đáp  ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó hình thành và  phát triển phẩm chất, năng lực của người học là một trong những nhiệm vụ  mà   Nghị quyết đề ra. Trên tinh thần đó, bản thân nhận thấy được tầm quan trọng của   việc giáo dục phẩm chất, nâng cao kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, với cương   vị là người quản lí, bản thân hết sức băn khoăn và trăn trở:  Nguyên nhân nào khiến  những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ngày càng bị mai  một và đâu là giải pháp ngăn chặn sự tha hóa về mặt nhân cách của con người, đặc  biệt là thế hệ trẻ? Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói  trên, bản thân chọn đề  tài:  "Một số  biện pháp quản lí, chỉ  đạo hình thành và   phát triển phẩm chất góp phần giáo dục toàn diện học sinh tiểu học.” . Vân đê ́ ̀  ̀ ́ ̉ ̉ ma chăc hăn không chi riêng bản thân ma rât nhiêu đông nghiêp khac quan tâm suy ̀ ́ ̀ ̀ ̣ ́   3
  4. nghĩ là làm sao học sinh của mình có những kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này,   trở thành những con người tốt, có ích cho xã hội.  1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Đề tài đề cập đến những biện pháp quản lí, chỉ đạo hình thành và phát triển  phẩm chất học sinh tiểu học góp phần giáo dục toàn diện con người.   Để  hình  thành và phát triển phẩm chất tốt cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải điều  chỉnh phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động   trải nghiệm ngay trong quá trình dạy học và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học; kịp  thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát  hiện kịp thời những khó khăn chưa thể  tự  vượt qua của học sinh để  hướng dẫn,  giúp đỡ; đưa ra nhận định phản ánh đúng những ưu điểm nổi bật, những hạn chế  của mỗi học sinh để  có giải pháp kịp thời nhằm rèn luyện cho học sinh có những  phẩm chất tốt góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh tiểu học. Điểm mới của đề tài này là sự  kết hợp hài hòa giữa việc truyền thụ tri thức  lồng ghép với  việc hình thành và phát triển phẩm chất cho học sinh qua các tiết  dạy va cac hoat đông giao duc khac ̀ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ́ . Chú trọng chỉ  đạo các biện pháp giáo dục  nhằm hình thành và phát triển các biểu hiện phẩm chất học sinh tiểu học đã được  quy định ở Thông tư 22/2016/TT­BGDĐT ngày 22/9/2016 của Bộ Giáo dục và Đào  tạo về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh Tiểu học ban   hành kèm theo Thông tư  30/2014/TT­BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ  trưởng Bộ  Giáo dục và Đào tạo....Mặt khác đặc biệt chú trọng các giải pháp giúp hạn chế  những biểu hiện phẩm chất chưa tốt của đối tượng học sinh cá biệt, khó giáo dục. 1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài Sáng kiến này được áp dụng ngay từ đầu năm học đến nay trong các tiết học  hằng ngày, các tiết sinh hoạt, hoạt động ngoại khóa và các tiết hoạt động ngoài  giờ lên lớp nhằm hình thành và phát triển phẩm chất cho học sinh trường Tiểu học  nơi tôi công tác  2. PHẦN NỘI DUNG  2.1. Thực trạng sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh  ở  trường tiểu học hiện nay. 4
  5. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, hội nhập và phát triển. Do   vậy, nước ta tiếp cận với sự  phát triển vượt bật của các quốc gia phát triển trên  thế  giới về  mọi lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa,… Việc tiếp cận  này luôn thể hiện tính hai mặt. Nếu chúng ta tiếp thu và vận dụng đúng đắn những   thành quả  mà nhân loại đạt được vào thực tiễn đất nước thì sẽ  mang lại những   thuận lợi rất lớn, giúp cho đất nước phát triển. Ngược lại, nếu chúng ta tiếp thu   không chọn lọc và vận dụng những thành tựu  ấy không phù hợp với điều kiện   thực tiễn nước ta sẽ mang lại những hậu quả khôn lường.  Trong những năm gần đây, nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa   phương Tây, tiếp cận với nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều mặt tiêu cực tác  động đến phẩm chất, tư duy và lối sống của nhân dân. Đặc biệt, sự tác động của  chúng ảnh hưởng đến phẩm chất, lối sống của một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ  của Việt Nam, nhất là các em học sinh. Trong các nhà trường, trong lớp học sinh  chưa chăm làm việc nhà, việc trường. Tham gia các hoạt động còn chiếu lệ, các  em chưa mạnh dạn, tự  tin khi thực hiện các nhiệm vụ  học tập, thực hiện chưa   thật nghiêm túc quy định về học tập. Học sinh ít nhiều vẫn còn có hiện tượng cãi  nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể,…Các em  rụt rè khi   bày tỏ ý kiến, ngại giao tiếp. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống  không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, thầy, bạn bè. Nhiều em   đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ, các   em  ỉ  lại bố  mẹ  không biết tự  phục vụ  , … Nhìn chung, phẩm chất, kĩ năng sống   trong học đường đang có nguy cơ xuống cấp. Điều tệ hại nhất là một số học sinh   rơi vào những tệ  nạn xã hội, bạo lực học đường; không kính trọng thầy cô, xem  thường bạn bè, mọi người xung quanh; không hiếu thảo với ông bà cha mẹ; thiếu  tính nhân đạo; các em mê games, bỏ  học….Từ  đó làm suy thoái những giá trị  đạo   đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và kĩ năng sống cũng rất hạn chế.  Vì vậy  việc giáo dục phâm ch ̉ ất trong học sinh là điều rất cấp thiết để  thúc đẩy sự  hoàn  thiện con người nói riêng và đẩy nhanh sự phát triển của đất nước nói chung. 2.2. Thực trạng sự  hình thành và phát triển phẩm chất học sinh tiểu  học tại trường tôi công tác 2.2.1 Thuận lợi 5
  6.    Những năm qua, Bộ  Giáo dục ­ Đào tạo đã ban hành các thông tư  về  quy   định đánh giá học sinh tiểu học, trong đó đã chỉ rõ các mục đích của việc đánh giá,  nguyên tắc đánh giá, nội dung đánh giá một cách cụ  thể. Như  vậy học sinh tiểu   học không chỉ được đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ về kết quả học tập từng  môn học mà còn được đánh giá sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm  chất. Những phẩm chất học sinh được cụ  thể  hóa như: Chăm học, chăm làm; tự  tin trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; đoàn kết yêu thương;  đã giúp cho nhà trường,   giáo viên có những định hướng về giáo dục cũng như đánh giá phẩm chất của các   em Trong suốt khoảng thời gian dài công tác tại trường (vừa làm giáo viên rồi  lên làm quản lí phụ  trách về  công tác chuyên môn), đây là cơ  hội để  cho tôi tiếp  xúc với học sinh nhiều lớp qua việc tổ  chức nhiều hoạt  động chung của nhà   trường, giảng dạy theo phần hành ở nhiều lớp, tham gia kiểm tra định kì, trao đổi   về công tác giáo dục với tất cả các thầy cô giáo trong nhà trường, ….chính những   cơ  hội này giúp cho tôi có cái nhìn chung nhất về  học sinh trong từng lớp, trong  toàn trường, nắm được điểm mạnh, điểm yếu của học sinh từng lớp, ……   Trường học nơi bản thân công tác là ngôi trường đã đạt chuẩn quốc gia mức  độ  II nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục.  Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho các lớp có đầy đủ phòng học, bàn ghế  khang trang vừa tầm với học sinh, phòng học thoáng mát, nhà vệ sinh sạch sẽ ,...  Một thuận lợi nữa cũng phải kể đến là trường vốn nổi tiếng về truyền thống   hiếu học. Bởi vậy học sinh nơi đây đa số là chăm ngoan, ham học. Phụ huynh cũng  rất chăm lo đến việc học của con em và Ban đại diện cha mẹ  học sinh lúc nào  cũng quan tâm sâu sát và hỗ trợ kịp thời. Chính vì vậy các em có những điều kiện   thuận lợi cho sự phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và nhân cách. Ủy ban nhân   dân xã cùng với các cấp học khác trên địa bàn cũng có mối quan hệ  gắn bó chặt  chẽ  với nhau nên đã phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành động sai trái,  những tệ nạn xã hội tránh để xảy ra hậu quả và sai lầm đáng tiếc.   Bắt đầu từ  năm hoc 2015 – 2016 trường chúng tôi mở  rộng mô hình VNEN  toàn phần. Cùng với đó là sự  đổi mới về  nội dung và phương pháp giảng dạy,  6
  7. trong đó chú trọng nhất là việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học   sinh. Chính vì vậy đây là cơ hội giúp các em tự tin, mạnh dạn, năng động hơn trong  giao tiếp, học tập đồng thời đây cũng chính là cơ  hội để  các em tự  rèn luyện và  chứng tỏ  khả năng của mình. Trong những năm qua đơn vị không có học sinh nào  vi phạm đạo đức, đánh giá mức độ  hình thành và phát triển phẩm chất của học   sinh: 100% đạt.  Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn những khó khăn sau:   2.2.2 Khó khăn           * Đối với nhà trường:            Với đơn vị  trường nơi tôi công tác cũng gặp rất nhiều khó khăn và nhiều   điều cần quan tâm. Toàn trường có 14 lớp với 422 học sinh  trong đó có : 217 em  nam , 205 em nữ. Đây là một trong những đơn vị  có số  lượng học sinh khá đông.  Nhiều em có hoàn cảnh khó khăn, hơn 70% phụ huynh là lao động chân tay, có 40  em thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo 46 em có hoàn cảnh khó khăn (gia đình khó  khăn về  kinh tế, bố  mẹ  ly hôn, mồ  côi bố  hoặc mẹ  và mồ  côi cả  bố  và mẹ  ).   Thông tin 2 chiều và sự  phối hợp giữa phụ huynh giáo viên và nhà trường đôi khi   thiếu kịp thời ...Nhiều phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn nên lơ là, thiếu quan tâm  trong công tác giáo dục và kết hợp với ban Đại diện cha mẹ học sinh của lớp, của  trường để chăm lo việc học và giáo dục cho các em.           Ngoài ra số lượng học sinh mỗi lớp khá đông (bình quân 30em/lớp ) đây cũng   là một khó khăn trong việc giáo dục học sinh. * Đối với giáo viên: Trong thực tế  hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết đánh giá   sự  hình thành và phát triển phẩm chất cho học sinh  ở  một số  giáo viên còn hạn  chế. Nội dung đánh giá phẩm chất đối với giáo viên từ trước tới nay còn mang tính  chung chung, chưa cụ thể. Trong giảng dạy, một bộ phận giáo viên vẫn chỉ  quan   tâm đến việc truyền thụ kiến thức lý thuyết, không tạo cho học sinh được học tập   thực sự. Trong lúc những phẩm chất học sinh được hình thành và phát triển thông   qua việc lồng ghép trong các môn học như  giáo dục đạo đức, tự  nhiên xã hội,  Tiếng Việt, tài liệu sống đẹp … hay trong các các hoạt động giáo dục khác như  chào cờ đầu tuần, hoạt động tập tthể,….. Qua dùng phiếu thăm dò, tổ  chức các  7
  8. hoạt động chung, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên còn lúng túng và khó   khăn cả  về  nội dung, biện pháp, khó khăn trong các bước thực hiện; khó khăn  trong việc xác định các biểu hiện chính giúp cho việc nhận xét về phẩm chất của  học sinh tiểu học; khó khăn trong việc đưa ra nhận định; cách ghi nhật ký tự  đánh   giá đối với học sinh; cách phối hợp với gia đình và cộng đồng, huy động cả xã hội   cùng tham gia vào quá trình giáo dục học sinh…đặc biệt là làm thế nào để phát huy   việc đánh giá của học sinh và đánh giá của phụ huynh học sinh, cộng đồng. Một số  giáo viên còn chưa linh hoạt, sáng tạo trong đánh giá. Và điều đặc biệt quan trọng  ̀ ́ ́ ̣ ựa chọn nội dung, phương pháp dạy học và tổ  là giáo viên con lung tung trong viêc l chức hoạt động như  thế  nào để  tạo cơ  hội cho học sinh hình thành và phát triển  phẩm chất.  *Đối với học sinh Qua việc tham gia vào giảng dạy trực tiếp học sinh tất cả các khối lớp, tổ  chức các hoạt động tập thể, tham gia vào các hoạt động Đội như đội cờ đỏ, kiểm   tra công tác vệ  sinh các lớp, trao đổi cùng các giáo viên chủ  nhiệm, giáo viên bộ  môn, bản thân tôi thấy phẩm chất của học sinh ở trường thông qua một số hành vi   và kĩ năng sống chưa cao. Chỉ  một số  học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt,  các em biết chăm học, chăm lao động, mạnh dạn trong giao tiếp, hợp tác, tự trọng,  tự tin, đoàn kết với bạn bè,…. còn nhiều em có các biểu hiện của sự thiếu văn hóa   như: ­ Nghỉ học không có lí do. ­ Xả giấy rác bừa bãi. ­ Chưa có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường, bảo vệ của công. ­ Lười biếng trong lao động, làm vệ sinh trường lớp.  ­ Không chấp hành nội quy lớp học. ­ Chưa biết sắp xếp thời gian học tập; không làm việc theo yêu cầu của giáo  viên. ­ Chưa biết nhận lỗi khi làm sai. Thậm chí còn đổ lỗi cho người khác. ­ Chưa biết tôn trọng lời hứa và giữ đúng lời hứa;  chưa có ý thức sữa chữa sai  lầm, dễ tái phạm. 8
  9. ­ Hiện tượng học sinh vô lễ với thầy cô giáo và người lớn tuổi; cư xử thô lỗ  với bạn bè; chưa biết nhường nhịn em nhỏ. ­ Vẫn còn hiện tượng học sinh ghen ghét, tị nạnh với bạn; chưa biết giúp đỡ  nhau cùng tiến bộ. ­ Học sinh về nhà không vâng lời ông bà, bố mẹ; thậm chí cãi ngang, vô lễ. ­ Học sinh nói dối, ăn cắp vặt... ­ Một số tệ nạn học đường còn diễn ra: học sinh đánh nhau, chia bè phái, chơi  điện tử, trộm cắp… Đi sâu tìm hiểu về học sinh từng khối lớp tôi nhận thấy:  Học sinh khối 1: Phần lớn học sinh ý thức tự  giác học bài, tham gia làm vệ  sinh trường lớp chưa cao, cô bảo gì các em làm việc đó, nhiều em ngơ  ngác chưa   định hình được công việc. Đa phần các em chưa biết chịu trách nhiệm về việc làm  của mình, tính kỉ luật chưa cao, nhiều em  đi học muộn, một số em đi lại, nói năng   tùy tiện trong lớp.  Học sinh khối 2: Tuy các em đã có ý thức về học tập, lao động hơn học sinh   lớp Một, các em có nề nếp hơn  tuy nhiên trong mỗi lớp vẫn còn một bộ phận học  sinh chưa có ý thức tự giác, còn ỉ lại. Khả năng mạnh dạn trong giao tiếp cũng như  tính kỉ luật  một số học sinh còn hạn chế. Học sinh khối 3, 4, 5:  Học sinh chú ý hơn trong học tập, lao động, ý thức   hoàn thành nhiệm vụ học tập, lao đông cao hơn song bắt đầu có những biểu hiện  như  khi có cô giáo thì nghiêm túc, chăm chỉ  nhưng khi không có cô giáo ý thức tự  quản chưa cao, các em thích nói chuyện riêng, làm việc riêng, tính thiếu trung thực   xuất hiện một số học sinh như gian lận trong kiểm tra, hay đổ lỗi cho bạn…   Một số hành vi cá biệt khác như: ý thức nhận lỗi chưa cao (em Phú ở lớp 3C),  lấy cắp đồ dùng của bạn (em Cường ở 4C). Một số em chưa thân thiện, đoàn kết  như em Hiệu lớp 3C, em Đạt ở 5C  Mặt khác do đặc điểm của địa phương nên học sinh thuộc khối A của trường   (vùng dân chủ yếu làm nghề cá, đời sống thấp) học sinh phần lớn rụt rè, thiếu tự  9
  10. tin còn học sinh thuộc khối B (gần chợ, gần trung tâm) học sinh mạnh dạn, tự tin   hơn, nhưng hay nói chuyện riêng, nhiều em lười học, chưa có kĩ năng trong lao  động, học sinh thuộc khối C có nhiều học sinh cá biệt. * Đối với phụ huynh học sinh Về  phía các bậc cha mẹ  các em luôn nóng vội trong việc dạy con, họ  chỉ  chú trọng đến việc con mình về  nhà mà chưa đọc, viết chữ  , hoặc chưa biết làm  toán thì lo lắng một cách thái quá. Ngoài ra, một trở ngại nữa là một số phụ huynh  quá nuông chiều con, cung phụng con cái khiến trẻ không có ý thức tự lập, ý thức   tập thể. Ngược lại, một số  phụ huynh vì bận nhiều công việc nên chưa quan tâm  đến việc học tập cũng như giáo dục phẩm chất cho con em mình. Một số học sinh   con em gia đình làm thuê, làm mướn, điều kiện kinh tế khó khăn, gia đình chủ yếu  lo làm kiếm sống cho nên ít có điều kiện quan tâm giáo dục các em. Địa bàn rộng,   một số học sinh nhà xa nên công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường còn   hạn chế. * Công tác điều tra, khảo sát những biểu hiện phẩm chất đầu năm  học:  Ngay từ  đầu năm học, với phần hành 4 tiết/tuần tôi đã lần lượt tham gia  giảng dạy từng khối lớp (mỗi khối một tuần) đến thời điểm cuối tháng 9 tôi được   giảng dạy tất cả các lớp trong trường với nhiều môn học khác nhau. Trong các tiết  học tôi đặc biệt chú ý đến thái độ học tập như các em đã chăm học chưa, đã mạnh  dạn, tự tin chưa, có tính kỉ  luật hay không. Bên cạnh đó tôi còn tham gia đánh giá  các hoạt động lao động như  tham gia kiểm tra nề nếp vệ sinh cùng đội cờ  đỏ; tổ  chức các hoạt động chung của Liên đội như  tổ  chức Tết Trung thu, khai giảng,… Ngoài ra để  nắm được thông tin về  các biểu hiện phẩm chất học sinh tôi đã trao  dổi với tất cả các thầy cô giáo chủ nhiệm, thầy cô giáo bộ môn trong trường. Kết   quả thu được như sau: Kết quả qua khảo sát lần 1 Khối TSHS Chăm học, chăm làm Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Khối 1 92 9 9.8 20 21.7 63 68.5 Khối 2 62 12 19.4 19 30.6 31 50.0 10
  11. Khối 3 102 27 26.5 35 34.3 40 39.2 Khối 4 83 24 28.9 32 38.6 27 32.5 Khối 5 83 26 31.3 32 38.6 25 30.1 Toàn  23.2 32.7 186 44.1 trường 422 98 138 Khối TSHS Tự tin, trách nhiệm Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Khối 1 92 8 8.7 18 19.6 66 71.7 Khối 2 62 14 22.6 21 33.9 27 43.5 Khối 3 102 28 27.5 36 35.3 38 37.3 Khối 4 83 25 30.1 33 39.8 25 30.1 Khối 5 83 28 33.7 32 38.6 23 27.7 Toàn  24.4 33.2 179 42.4 trường 422 103 140 Khối TSHS Trung thực, kỉ luật Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Khối 1 92 9 9.8 22 23.9 61 66.3 Khối 2 62 13 21.0 23 37.1 26 41.9 Khối 3 102 30 29.4 33 32.4 39 38.2 Khối 4 83 26 31.3 37 44.6 20 24.1 Khối 5 83 27 32.5 31 37.3 25 30.1 Toàn  24.9 34.6 171 40.5 trường 422 105 146 Khối TSHS Đoàn kết, yêu thương Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Khối 1 92 9 9.8 18 19.6 65 70.7 Khối 2 62 13 21.0 23 37.1 26 41.9 Khối 3 102 28 27.5 34 33.3 40 39.2 Khối 4 83 28 33.7 36 43.4 19 22.9 11
  12. Khối 5 83 25 30.1 31 37.3 27 32.5 Toàn  24.4 33.6 177 41.9 trường 422 103 142 Từ bảng số liệu và thực tế cho thấy học sinh khối 1 các biểu hiện về phẩm   chất như  chăm học, chăm làm; tự  tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ  luật; còn quá  nhiều hạn chế  (dưới 30%), nhưng lên đến lớp 4, lớp 5 học sinh có ý thức hơn   trong học tập, mạnh dạn, tự tin hơn, song vẫn còn một bộ phận học sinh lười học   tập, lao động, né tránh công việc, gian lận trong kiểm tra. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình  trạng “Học sinh chưa có những biểu hiện phẩm chất tốt” là do đâu? Đề từ  đó tìm  ra biện pháp chỉ đạo đội ngũ thực hiện tốt việc hình thành và phát triển phẩm chất   góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. 2.2.3 Nguyên nhân * Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân về phía gia đình Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian dài   nhất. Chính vì thế môi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với sự  hình thành và phát triển phẩm chất cho các em. Những thái độ, hành vi, cách cư xử  trong gia đình sẽ hình thành cho các em nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã hội.   Tuy nhiên hiện nay do mặt trái của sự  phát triển của nến kinh tế thị  trường, tình  trạng cha mẹ  mải lo kiếm tiền, không quan tâm đến con cái; cuộc sống gia đình   không hạnh phúc, bạo hành gia đình… đã dẫn đến những hệ lụy vô cùng nghiêm   trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ. Những em thiếu may   mắn sinh ra trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư  xử  của cha mẹ thô bạo, rượu   chè bê bết... đã tạo cho các em một ấn tượng không tốt. Nó ít nhiều có ảnh hưởng  đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em. Điều đó có thể dẫn đến tình   trạng học sinh trở nên lầm lì ít nói, dễ  nổi nóng cáu gắt, tính tình thô bạo. Thậm  chí có em còn ngại giao tiếp, sống khép kín… Có em còn  ảnh hưởng những thói  quen không tốt đó cũng có những hành vi cử xử không tốt với mọi người. Một số  12
  13. cha mẹ  học sinh thiếu gương mẫu, ông bà cha mẹ, chửi mắng lẫn nhau, một số  gia đình còn khoán trắng bỏ  mặc cho nhà trường và xã hội, thậm chí còn nuông  chiều con cái quá mức, dẫn đến một số  học sinh vô lễ  với người trên, nhiều em  không vâng lời ông bà, bố mẹ, lười lao động lười học, trộm cắp … Trong giao tiếp  nói năng thô lỗ, cục cằn. Bên cạnh đó, một số cha mẹ chưa quan tâm đến việc lựa  chọn môi trường, chọn bạn cho con chơi. Do đó, các em dễ bị rủ rê, sa ngã vào các   thói hư  tật xấu. Chính những điều đó dần hình thành nên tính cách xấu, những   hành động không có văn hóa trong chính bản thân các em mà các em không hề hay   biết và không nhận thức được tác hại của nó. Nguyên nhân về phía  nhà trường Trường học chính là ngôi nhà thứ  hai, giáo viên chính là người mẹ  hiền thứ  hai của các em. Môi trường giáo dục tốt sẽ  giúp các em có điều kiện phát triển   toàn diện về  mọi mặt. Nhưng để  đạt được đúng như  điều vừa nêu cũng không  phải là dễ. Thực tế cho thấy học sinh hiện nay rất nhạy cảm, rất dễ thích ứng với  các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội như: hiện tượng nói tục, các hành vi thiếu   văn hoá vẫn còn. Đặc biệt một số học sinh không biết áp dụng kiến thức đã học  vào thực tế. Chẳng hạn học sinh vừa được học bài “Lễ  phép vâng lời thầy cô  giáo’’ nhưng lại chỉ chào hỏi thầy cô giáo dạy mình hoặc không biết cảm ơn, xin   lỗi khi được người khác giúp hay làm điều gì đó không phải. Đâu đó còn có những  thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự  yêu nghề  mến trẻ, chưa có tâm huyết   với sự nghiệp giáo. Cũng có một vài thầy cô giáo đôi khi không làm chủ được hành   vi, dễ nổi nóng, quát nạt, la mắng, thậm chí xúc phạm nhân cách học sinh. Do cách   cư  xử  chưa phù hợp nên đâu đó dễ  khiến học sinh bị  tổn thương, thậm chí có   trường hợp giáo viên còn trở thành những “gương điển hình” về  cách ứng xử  cho  học sinh noi theo. Một số  giáo viên do quỹ  thời gian eo hẹp nên chưa quan tâm   đúng mức trong việc phát hiện những hành vi sai trái và kịp thời uốn nắn cho học   sinh. Việc kết hợp, lồng ghép, liên hệ  trong giảng dạy giữa các phân môn nhằm  13
  14. nâng cao nhận thức và rèn luyện phẩm chất cho học sinh còn lúng túng và hạn chế.   Bên cạnh đó, một số  trường do điều kiện cơ  sở  vật chất, trang thiết bị  dạy học   còn thiếu thốn, kinh phí hạn hẹp nên  ở  trong các giờ  học thì giáo viên ít có điều   kiện tổ  chức các trò chơi học tập, nhà trường không thường xuyên cho các em  tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khoá. Việc rèn luyện nề nếp cho học sinh chưa   thực sự được quan tâm. Ngoài ra thì một số  giáo viên nhận thức chưa đầy đủ  nên  còn chỉ  tập trung vào giáo dục Toán, Tiếng Việt chứ  chưa chú trọng rèn luyện  phẩm chất cho các em.  Nguyên nhân về phía môi trường xã hội Ngoài môi trường gia đình và nhà trường, sự  hình thành và phát triển nhân   cách học sinh còn phụ  thuộc rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự  phát   triển kinh tế ­ xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự  du nhập  của nhiều loại hình văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh   thiếu niên. Hiện tượng học sinh nghiện Net, nghiện game... là chuyện thường  ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp. Nổi trội hiện nay là tình trạng  sử  dụng facebook để  làm quen, kết bạn và nảy sinh tình cảm yêu đương quá   sớm… Do còn quá non dại nên các em dễ  bị  rủ  rê, lôi kéo vào các tệ  nạn xã hội,  gây nên những hệ  lụy nghiêm trọng về  nhân cách và đạo đức lối sống của tuổi   học trò. * Nguyên nhân chủ quan về nhận thức của các em Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng "Ăn  chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì thế các  em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi. Thêm vào đó, do suy nghĩ chưa thấu đáo, khi phạm phải sai lầm các em chưa  biết lắng nghe, tiếp thu và sửa chữa để tiến bộ. Chính tư tưởng bảo thủ, cố chấp,   luôn cho rằng người lớn áp đặt mình đã khiến các em khó sửa sai và tiến bộ.          2.3 Một số biện pháp quản lí chỉ đạo hình thành và phát triển phẩm góp  phần giáo dục toàn diện học sinh tiểu học.  14
  15.        2.3.1 Giúp đội ngũ nhận thức sâu sắc về đánh giá sự hình thành và phát  triển phẩm chất cho học sinh tiểu học.          Hàng năm, công tác bồi dưỡng đội ngũ của nhà trường luôn được chú trọng,  bồi dưỡng đội ngũ về  phẩm chất đạo đức, về  đổi mới phương pháp giảng dạy,  về  kiểm tra đánh giá học sinh, ….trong đó bồi dưỡng để  nhận thức đúng đắn về  sự  thay đổi trong đánh giá người học sinh mà Thông tư  số  30/2014/BGDĐT ngày  22/8/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Thông tư  Ban hành quy định đánh giá học  sinh Tiểu học đã đưa ra và những điều chỉnh, sửu đổi, bổ  sung của Thông tư  số  22/2016/TT­BGDĐT ngày 22/9/2016 của Bộ  Giáo dục và Đào tạo về  sửa đổi, bổ  sung một số  điều của Quy định đánh giá học sinh Tiểu học ban hành kèm theo   Thông tư 30/2014/TT­BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào  tạo là một việc làm thường xuyên vào đầu năm học, vào cuối học kì I, vào cuối   năm học. Qua việc tổ chức cho đội ngũ ôn lại về mục đích, nguyên tắc, nội dung   và cách thức đánh giá giúp cho mỗi giáo viên thay đổi nhận thức về cách đánh giá  học sinh. Để  giáo viên vận dụng tốt cách đánh giá học sinh theo thông tư  thì nhà  trường đã dành thời gian thích đáng để mỗi giáo viên đọc kĩ, nghiên cứu kĩ Thông  tư  22/2016/TT­BGDĐT ngày 22/9/2016 của Bộ  Giáo dục và Đào tạo về  sửa đổi,  bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh Tiểu học ban hành kèm theo   Thông tư 30/2014/TT­BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào  tạo. Bằng sự  trải nghiệm thực tế của mình hãy phân tích, so sánh giữa cách đánh   giá cho điểm trước đây, với đánh giá kết hợp cho điểm định kì với đánh giá thường  xuyên bằng nhận xét, để  hiểu sâu sắc ý nghĩa, tính  ưu việt của sự  thay đổi. Đặc   biệt, lý giải cho được vì sao phải đổi mới đánh giá, nội dung cốt lõi của đánh giá   mới là gì và điều quan trọng là nó mang lại lợi ích gì cho học trò? Bởi việc gì có   lợi cho học trò, sẽ được sự ủng hộ của phụ huynh học sinh và xã hội. Nội dung đánh giá xoay quanh đánh giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết   quả  học tập của HS theo chuân kiên th ̉ ́ ưc, kĩ năng c ́ ủa chương trình giáo dục tiểu  học theo từng môn học và hoạt động giáo dục. Đánh giá sự hình thành và phát triển   15
  16. năng lực chung của HS tiểu học: tự phục vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác; tự học và   giải quyết vấn đề. Đánh giá sự  hình thành, phát triển các phẩm chất của HS tiểu   học: yêu cha mẹ, gia đình; yêu bạn bè, trường lớp; yêu quê hương, đất nước, con  người; tự  tin, tự  trọng, tự  chịu trách nhiệm; trung thực, kỉ  luật; chăm học, chăm   làm, thích hoạt động nghệ  thuật, thể  thao. Những đánh giá trên góp phần quan   trọng đến việc giáo dục con người toàn diện. Tham gia đánh giá học sinh không chỉ riêng mình giáo viên mà còn có HS (tự  đánh giá và đánh giá bạn qua hoạt động của tổ, nhóm, hội đồng tự  quản…); cha   mẹ và những người có trách nhiệm trong cộng đồng (gọi chung là phụ huynh). Cụ  thể: ­ GV đánh giá: GV dựa trên đặc điểm và mục tiêu của bài học, của mỗi hoạt  động mà HS phải thực hiện trong bài học (hoạt động cơ bản, hoạt động thực hành,  hoạt động  ứng dụng), GV thường xuyên quan sát, theo dõi cá nhân HS, nhóm HS   trong quá trình học tập để có nhận định, động viên hoặc gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối  với từng việc làm, từng nhiệm vụ  của mỗi cá nhân hoặc của cả  nhóm HS; nếu   hoàn thành nhiệm vụ thứ nhất thì chuyển sang nhiệm vụ thứ hai cho đến khi hoàn  thành bài học; chấp nhận sự khác nhau (nếu có) về  thời gian, tiến độ  hoàn thành  từng nhiệm vụ học tập của các HS trong lớp.  Các phẩm chất và năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình trải   nghiệm, tham gia thường xuyên hàng ngày vào các hoạt động học tập, sinh hoạt   tập thể. Việc đánh giá quá trình phát triển, đánh giá sự  tiến bộ  mới là đánh giá   thiết thực và hiệu quả  nhất cho sự phát triển của mỗi học sinh. Điều này đòi hỏi  giáo viên phải thường xuyên quan sát, theo dõi cá nhân học sinh, nhóm học sinh   trong quá trình học tập để có nhận định, động viên hoặc gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối  với từng việc làm, từng nhiệm vụ  của mỗi cá nhân hoặc của cả  nhóm học sinh.  Từ  đó, động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy  ưu điểm  và các tố chất riêng, sửa chữa khuyết điểm để học sinh ngày càng tiến bộ. Trong quá trình đánh giá thường xuyên, GV ghi vào Nhật kí đánh giá của  mình những điều cần đặc biệt lưu ý, giúp ích cho quá trình theo dõi, giáo dục đối   với cá nhân hoặc tập thể HS. ­ HS tự đánh giá: đối với mỗi nhiệm vụ, hoạt động cá nhân thì HS cố gắng   tự  thực hiện; trong quá trình thực hiện hoặc sau khi thực hiện nhiệm vụ, HS tự  đánh giá việc làm và kết quả thực hiện nhiệm vụ của mình. Chia sẻ kết quả hoặc   16
  17. khó khăn không thể vượt qua với bạn, nhóm bạn hoặc giáo viên để giúp bạn hoặc   được bạn hay GV giúp đỡ kịp thời. ­ HS đánh giá bạn: ngay trong quá trình tổ chức các hoạt động học tập, sinh   hoạt tập thể, GV hướng dẫn HS tham gia đánh giá bạn hoặc nhóm bạn. Ví dụ: GV  yêu cầu HS quan sát hoạt động để nhận xét bài làm, câu trả lời của bạn, nhóm bạn  hoặc giúp bạn hoạt động hiệu quả hơn. GV có thể đưa ra lời nhận xét, góp ý đối  với các đánh giá của HS cũng trên tinh thần tôn trọng ý kiến của các em. ­ Phụ huynh đánh giá: phụ huynh được mời tham gia hoặc quan sát các hoạt  động dạy học, giáo dục của nhà trường, sử dụng tài liệu hướng dẫn học tập, đáp   ứng các yêu cầu của HS trong quá trình học tập, nhất là những hoạt động học tập,   sinh hoạt ở gia đình, ở cộng đồng và nên ghi nhận định vào phiếu đánh giá. Thông   qua đó động viên, giúp đỡ các em học tập, rèn luyện, phát triển kĩ năng sống, vận  dụng kiến thức vào cuộc sống và tham gia các hoạt động xã hội, tìm hiểu về  những sự vật, hiện tượng tự nhiên và văn hóa, lịch sử, nghề truyền thống... của địa   phương. Chính vì thế  bên cạnh hướng dẫn học sinh cách đánh giá kết quả  học tập   của mình, của bạn, nhóm bạn thì người giáo viên còn làm tốt công tác tuyên truyền   và phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong quá trình giảng dạy, giáo dục nghĩa là  thay đổi cách nhận thức về  đánh giá trong phụ  huynh. Cần tăng cường công tác  tuyên truyền trong phụ huynh, cộng đồng về ý nghĩa, tính nhân văn của cách đánh  giá mới. Giúp cha mẹ học sinh thay đổi thói quen mỗi khi trẻ đi học về hỏi: “Hôm  nay con được điểm mấy?” sang cách quan tâm khác “Hôm nay con tham gia học   tập, hoạt động nào?”; “Con giúp đỡ bạn được những việc gì?”; “Ở trường con tự  làm được những nhiệm vụ gì”… Việc phối hợp với phụ  huynh học sinh không chỉ  giúp giáo viên có thêm   nguồn thông tin bổ ích khi đánh giá các năng lực, phẩm chất mà còn gắn kết trách   nhiệm giữa nhà trường và gia đình.  Để thực hiện tốt cách đánh giá như  vậy thì người giáo viên phải chuyển từ  quá trình dạy học thành quá trình tự  học của học sinh nghĩa là chuyển quá trình  thuyết giảng một cách hình thức, áp đặt của người dạy thành quá trình tự  học, tự  tìm tòi, khám phá của người học.          2.3.2 Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 17
  18.  Thứ nhât́: Xac đinh đung vai tro, vi tri, nhiêm vu cua minh:  ́ ̣ ́ ̀ ̣ ́ ̣ ̣ ̉ ̀ Theo khoản 1 điều  19 TT 22 thì giáo viên chủ nhiệm “Chịu trách nhiệm chính trong việc đánh giá học  sinh, kết quả giáo dục học sinh trong lớp; hoàn thành hồ sơ đánh giá học sinh theo   quy định; nghiệm thu, bàn giao chất lượng giáo dục học sinh”. Như  vậy, người  giáo viên chủ  nhiệm giữ  vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục học sinh   phát triển toàn diện. Người giáo viên chủ nhiệm phải tham gia các hoạt động dạy  học, phải rèn luyện đạo đức, tác phong sư  phạm đây vừa là trách nhiệm vừa yêu   cầu cần thiết trong việc giáo dục học sinh. Vì vậy để làm tốt công tác chủ  nhiệm  trước hết phải xây dựng được hình tượng thầy giáo trong lòng học sinh, được học  sinh tin yêu quý trọng, có vậy thì trong lời nói, cử  chỉ, hành động của ngươi GV ̀   mới có tính thuyết phục cao đối với học sinh. Ngoai ra, ng ̀ ươi GVCN cân năm ̀ ̀ ́   vưng muc tiêu cua giao duc noi chung, cua l ̃ ̣ ̉ ́ ̣ ́ ̉ ơp hoc. Co trach nhiêm cao trong viêc ́ ̣ ́ ́ ̣ ̣   ́ ̣ giao duc nhưng phâm chât, ren luyên năng l ̃ ̉ ́ ̀ ̣ ực đê cac em tr ̉ ́ ở thanh nh ̀ ưng công dân ̃   ́ ̉ ́ ước.  tôt cua đât n          Thứ hai:  Tim hiêu đăc điêm tinh hinh l ̀ ̉ ̣ ̉ ̀ ̀ ơp:  ́ Đối tượng giáo dục của giáo viên  chủ nhiệm là học sinh. Người giáo viên chủ nhiệm lớp muốn nâng cao chất lượng   và hiệu quả  giáo dục của lớp mình thì giáo viên phải có những biện pháp cụ  thể  phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lơp, nhân cách c ́ ủa từng học sinh trong  lớp. Vì vậy, khi nhận phân công của BGH nhà trường nhận lớp chủ  nhiệm, giáo   viên phải phải tìm hiểu hoàn cảnh, đặc điểm tâm sinh lý, nhân cách, những  ưu  điểm, hạn chế của từng học sinh. Sau khi nắm bắt lý lịch học sinh, giáo viên phải  nắm bắt những điểm mạnh, điểm yếu của cha mẹ các em, lựa chọn những người   tiêu biểu, có khả năng tuyên truyền và biết thu hút mọi người cùng quan tâm đến   các phong trào chung của lớp. Đối với những phụ  huynh có hoàn cảnh khó khăn,  giáo viên phải tiếp xúc, gặp gỡ để nắm bắt và chia sẽ, động viên về mặt tinh thần  cũng như giúp đỡ. Nhờ vào việc nắm bắt đặc điểm tình hình của lớp, nắm bắt các  thông tin kịp thời từ phụ huynh và học sinh giúp để xây dựng được một kế hoạch   chủ nhiệm phù hợp, sát tình hình thực tế và có tính khả thi cao.         Thư ba: ́  Chỉ đạo xây dựng kê hoach chu nhiêm: Đ ́ ̣ ̉ ̣ ể lớp có nề nếp tốt, ngay từ  đầu năm học tôi chỉ đạo giáo viên chủ  nhiệm xây dựng kế  hoạch chủ  nhiệm lớp  18
  19. cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế  hoạch của nhà trường của bộ  phận chuyên môn nhưng phải phù hợp với thực tế của lớp. Việc xây dựng và lập   kế  hoạch này giúp giáo viên có tầm nhìn xa, bao quát hơn trong công tác chủ  nhiệm. Kế  hoạch chủ  nhiệm cần xác định rõ mục tiêu, chỉ  tiêu các mặt giáo dục  học sinh theo từng tháng, học kì, cả năm học và đặc biệt đề ra những biện pháp cụ  thể nhằm đạt mục tiêu đề ra, phải được quán triệt đến tất cả phụ huynh trong các  cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm học. Những biện pháp giáo dục phải phù hợp  với đặc điểm riêng của lớp, của từng học sinh. Đầu năm học, qua hàng tháng tôi   đều theo dõi và kiểm tra sổ  công tác chủ  nhiệm của các giáo viên chủ  nhiệm và   nhận thấy hầu hết các giáo viên đã hiểu rõ đặc điểm học sinh trong lớp, nắm  được những học sinh cá biệt về phầm chất và đã có những biện pháp giáo dục phù  hợp, những biện pháp được thay dổi khi những biện pháp khác áp dụng chưa mang  lại hiệu quả. Các giáo viên chủ nhiệm lớp Một có biện pháp hướng dẫn tỉ mỉ, làm  mẫu để học sinh làm theo, kiểm tra lại kết quả sau khi học sinh đã làm. Các giáo  viên chủ nhiệm lớp Hai duy trì biện pháp hướng dẫn cụ thể, làm mẫu, nhắc nhở,   tăng cường tổ chức hoạt động tập thể để các em mạnh dạn,  tự tin hơn. Các giáo   viên chủ  nhiệm lớp Ba, Bốn, Năm có các biện pháp như  gắn việc thực hiện nội  quy lớp học, nội quy nhà trường với việc thi đua giữa các nhóm, giữa các lớp,… chú ý đến những học sinh cá biệt. Bên cạnh đó chỉ đạo các giáo viên dạy học sinh   khối A cần tăng cường tổ chức hoạt động tập thể, tạo điều kiện để  các em được  thể hiện mình, giao tiếp nhiều hơn. Các giáo viên dạy khối B cần có những biện   pháp cứng rắn, răn đe, gắn với thi đua, kết hợp động viên khen ngợi để các em có  ý thức kỉ  luật hơn. Các giáo viên dạy khối C cần có những biệ  pháp riêng với  những học sinh cá biệt như em Hùng, em Phú, em Hiệu 3C; em Cường 4C, em Đạt  5C. Ví dụ:         Với học sinh khối lớp 1, phần lớn các em  chưa chú ý trong giờ học, chưa biết  cách tham gia vệ  sinh trường lớp,  nhiều em tụt rè, thiếu tính kỉ  luật như  đi học  muộn, thích gì làm nấy ngay trong lớp học, một số  học sinh hoang nghịch, chọc   ghẹo bạn,… giáo viên chủ  nhiệm lớp 1 cần chỉ  rõ từng công việc kết hợp làm  mẫu như  trong giờ  học yêu cầu học sinh lấy quyển sách gì thì giơ  sách lên làm  mẫu, hướng dẫn học sinh viết cần bắt tay từng em. Trong lao động vệ sinh trường   lớp cần nêu yêu cầu công việc như yêu cầu các tổ đầu giờ phải quét lớp, cách quét   lớp học giáo viên cũng làm mẫu để  học sinh quan sát; Trong việc giáo dục sự  tự  19
  20. tin cần tổ chức các hoạt động tập thể như tổ chức trò chơi, thi hát múa,….tạo điều   kiện cho những học sinh nhút nhát tham gia. Hay muốn giáo dục tính kỉ  luật giáo  viên yêu cầu học sinh về nói với bố mẹ cần chở đi học đúng giờ. Hoặc ở lớp 1A  có em học sinh hay lấy bút chì của bạn ngoài việc trao đổi với phụ huynh thì giáo  viên đã đến và nhắc nhở riêng, quan sát những biểu hiện của em, nói chuyện gần   gũi với em, đưa ra những câu hỏi như : “ Nếu bạn lấy bút của em thì em lấy gì để  dùng? Em có bút để dùng không? Hay Em có cảm thấy tiếc khi bị mất bút không?          Với một số học sinh có biểu hiện thiểu trung thực như em Nguyễn Văn  Cường  lớp 4C, em Phú lớp 3C giáo viên  sử dụng biện pháp trò chuyện gần gũi  em, giữ đúng lời hứa của mình,  tôn trọng em, giao việc vừa sức (phù hợp) cho em,  khuyến khích, khen ngợi khi em nhận lỗi, phối hợp với giáo viên bộ môn để uốn  nắn em, trao đổi với phụ huynh để cùng nhau giáo dục          Với học sinh thiếu thân thiện với bạn bè như em Hiệu lớp 3C, em Đạt lớp  5C giáo viên đã đưa ra giải pháp tổ chức nhiều hoạt động tập thể, động viện em  tham gia để giúp em hòa đồng hơn. Sử dụng hộp thư bè bạn bè, gửi thư cho em để  chuyện trò, cũng như động viên cả lớp thường gửi thư cho em để em tự tin hơn.              Thứ tư: Xây dựng Hội đồng tự quản có năng lực. Việc xây dựng bộ máy tổ  chức lớp học sẽ  tạo ra nhân tố  rất quan trọng, tích cực để  giáo viên chủ  nhiệm  quản lý lớp, giáo dục học sinh một cách chủ động. Xây dựng bộ máy tổ  chức lớp   tốt sẽ  đẩy mạnh các hoạt động phong trào thi đua của lớp, của trường và đồng  thời phát huy vai trò tự  quản của mỗi học sinh và của tập thể lớp, góp phần giáo   dục toàn diện cho các em .   Giáo viên phải tô ch ̉ ưc cho l ́ ơp bâu Hôi đông t ́ ̀ ̣ ̀ ự  quan cua l ̉ ̉ ơp sau đo h ́ ́ ướng  dẫn các em cách tự quản lớp học và cách xử lí một số  tình huống thường xảy ra.   ̣ ̀ ự quan cua l Hôi đông t ̉ ̉ ơp không nh ́ ững chỉ có học sinh tiêu biểu mà còn có cả một   số em hiếu động ở trong lớp để các em có ý thức tự giác, biết sửa chữa bản thân,  để các em đều có tiến bộ và trở thành những học sinh gương mẫu.  Giáo viên phải hướng dẫn giao nhiệm vụ cụ thể với kế hoạch từng tuần rõ   ràng. Xây dựng hội đồng tự  quản gương mẫu, tự  giác là một yếu tố  quan trọng   giúp giáo viên  thành công trong công tác chủ  nhiệm lớp. Luôn đề  cao vai trò của  cán bộ lớp và luôn thay đổi Hôi đông t ̣ ̀ ự quan trong cac thang đ ̉ ́ ́ ể tạo cơ hội cho các  em phát huy năng lực lãnh đạo của mình, các em này thực sự là những thầy,cô giáo  nhỏ của lớp học. Nhưng tất cả các hoạt động của các em đều phải trong sự kiểm   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2