Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Quảng Minh- Thành phố Sầm Sơn
lượt xem 2
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là nhằm nâng cao chất lượng dạy - học cho giáo viên và học sinh. Giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm không chỉ trong phạm vi một văn bản của tiết tập đọc mà biết đọc diễn cảm bất kì một bài văn nào. Biết vận dụng kiến thức, hiểu biết của mình trong giao tiếp hàng ngày để nói hay, nói đúng, mạnh dạn, tự tin, bình tĩnh trước tập thể. Đóng góp một số kinh nghiệm nhỏ của mình cho đồng nghiệp, cho trường trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 nói riêng và cho học sinh toàn trường nói chung, góp phần nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Tập đọc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Quảng Minh- Thành phố Sầm Sơn
- MỤC LỤC Nội dung Trang 1.Mở đầu 1.2. Lý do chọn đề tài. 1.2. Mục đích nghiên cứu. 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 2 2.1. Cơ sở lí luận 2 2.2. Thực trạng 4 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 6 Biện pháp 1. Tìm hiểu học sinh, ổn định tổ chức lớp 6 Biện pháp 2. Khắc phục tình trạng đọc ngắc ngứ và ngắt nghỉ 6 chưa đúng Biện pháp 3. Khắc phục tình trạng đọc sai những tiếng có phụ 7 âm đầu hay nhầm lẫn s – x ; ch – tr; d – r gi…; tiếng có dấu thanh hay nhầm lẫn: thanh ngã/ thanh hỏi. Biện pháp 4. Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tùy 9 tiện. Biện pháp 5. Hướng dẫn đọc ngắt nhịp, nhịp độ đọc. 9 Biện pháp 6. Bám sát yêu cầu của bài tập đọc. 10 Biện pháp 7. Giảng từ và khai thác nghệ thuật. 11 Biện pháp 8. Giảng ý và liên hệ thực tế. 13 Biện pháp 9. Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho 14 học sinh bằng cách tổ chức trò chơi học tậ trong giờ học. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 15 3. Kết luận , kiến nghị 16 3.1. Kết luận 16 3.2. Kiến nghị 17 Tài liệu tham khảo 18
- 2 1. Mở đầu 1.1. Lý do chon đề tài Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên; phát triển khả năng tự học và học tập suốt đời hoặc tham gia vào cuộc sống lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Giáo dục tiểu học giúp hoc sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống hằng ngày. Với con người, tiếng Việt là công cụ để giao tiếp và tư duy. Đối với học sinh tiểu học thì tiếng Việt càng có vai trò quan trọng hơn, vì đó là tiếng phổ thông dùng trong giao tiếp chính thức hàng ngày của các em. Bên cạnh đó, tiếng Việt còn có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ này được thể hiện ở bốn dạng hoạt động tương ứng với bốn kỹ năng “nghe, nói, đọc, viết”. Dạng hoạt động ngôn ngữ này là quá trình chuyển từ hình thức chữ viết sang lời nói có âm thanh (ứng với hình thức đọc thành tiếng) và hình thức chữ viết thành các đơn vị không có âm thanh (ứng với đọc thầm). Đây là một việc làm quan trọng để tạo cho các em có khả năng sử dụng tiếng Việt thành thạo trong học tập và giao tiếp. Từ đó, giúp các em nóiviết đúng, chính xác, phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp, đồng thời góp phần mở mang tri thức, rèn luyện tình yêu tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tập đọc là phân môn mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy đọc cho học sinh, nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh( phát âm, từ ngữ, câu văn, đoạn văn... ), kiến thức bước đầu về văn học ( văn xuôi, văn vần, nhân vật ...), kiến thức về đời sống, về giáo dục tình cảm, thể chất, thẩm mĩ. Môn học này góp phần rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng, tư duy lôgic. Giờ tập đọc, ngoài việc rèn đọc, dẫn dắt cho học sinh cảm thụ tốt bài văn, thấy cái hay cái đẹp của hình tượng văn học, chúng ta còn cho học sinh tìm bố cục để phát triển óc phân tích, tìm đại ý để phát triển óc tổng hợp. Phân môn Tập đọc kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn, bài thơ chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay cái đẹp, vừa học cách dùng từ chính xác, đặt câu sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Học phân môn Tập đọc, việc rèn đọc và cảm thụ bài đọc là hai yếu tố không thể thiếu, hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó,
- 3 hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho các em tìm được giọng đọc thích hợp cho bài đọc, từ đó các em sẽ đọc một cách hay, diễn cảm. Ngược lại, đọc diễn cảm không tốt sẽ khó khăn việc cảm thụ bài văn. Để nâng cao chất lượng học phân môn Tập đọc cho học sinh khối 5 nói chung và cho học sinh lớp tôi nói riêng là một vấn đề vô cùng cần thiết. Là một giáo viên Tiểu học,nhiều năm giảng dạy lớp 5, tôi nhận thức được rất rõ tầm quan trọng của môn tập đọc trong chương trình giáo dục . Xuất phát từ lòng say mê, nhiệt huyết nghề nghiệp, từ thực trạng dạy và học phân môn Tập đọc , với kinh nghiệm của bản thân, tôi xin được trình bày: “Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Quảng Minh Thành phố Sầm Sơn”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho giáo viên và học sinh. Giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm không chỉ trong phạm vi một văn bản của tiết tập đọc mà biết đọc diễn cảm bất kì một bài văn nào. Biết vận dụng kiến thức, hiểu biết của mình trong giao tiếp hàng ngày để nói hay, nói đúng, mạnh dạn, tự tin, bình tĩnh trước tập thể. Đóng góp một số kinh nghiệm nhỏ của mình cho đồng nghiệp, cho trường trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 nói riêng và cho học sinh toàn trường nói chung, góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc, 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Quảng Minh Thành phố Sầm Sơn. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra Phương pháp kiểm tra, đánh giá Phương pháp trực quan Phương pháp trò chơi Phương pháp thu thập , nghiên cứu tài liệu 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1. Mục tiêu của phân môn Tập đọc ở sách Tiếng Việt 5. Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh.Phân môn Tập đọc lớp 5 tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc một cách đầy đủ, toàn diện cho học sinh nhằm hoàn thiện yêu cầu cần đạt ghi trong Chương trình Tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành: Đọc rành mạch, lưu loát bài văn( khoảng 120 tiếng/ phút); đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài đọc. Cụ thể:
- 4 Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp dưới; tăng cường tốc độ đọc, khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh; khả năng đọc diễn cảm. Phát triển kĩ năng đọc hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,... để hiểu ý nghĩa của bài và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ.Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình thành nhân cách của con người mới. 2.1.2. Nội dung, cấu trúc phân môn Tập đọc lớp 5. Phân môn Tập đọc ở lớp 5 gồm 66 tiết/ năm, mỗi tuần có hai tiết. 40 bài văn xuôi thuộc loại hình nghệ thuật, báo chí, khoa học, 2 vở kịch ( trích), 18 bài thơ. Các bài Tập đọc gồm các chủ đề: " Việt Nam Tổ quốc em ", " Cánh chim hoà bình", " Con người với thiên nhiên", "Giữ lấy màu xanh","Vì hạnh phúc con người","Người công dân","Vì cuộc sống thanh bình","Nhớ nguồn","Nam và nữ","Những chủ nhân tương lai". Bài Tập đọc lớp 5 nhằm mục đích: Tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc cho HS: đọc trơn, đọc thầm với tốc độ nhanh hơn, nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm. Từ đó giúp các em hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của văn bản. Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho HS. Các bài đọc gồm các phần: văn bản đọc, chú giải những từ ngữ khó, hướng dẫn đọc( chỉ dẫn cách đọc một số câu khó, đoạn khó, cách ngắt nhịp, nhấn giọng hoặc gợi ra những đặc điểm về nội dung, những sắc thái tình cảm được biểu hiện qua giọng đọc). Phần tìm hiểu bài gồm những câu hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài văn, bài thơ. Ở nhiều bài có thêm yêu cầu học thuộc lòng từng đoạn, cả bài. 2.1.3. Vị trí, vai trò của môn Tập đọc trong Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Đọc không chỉ là công việc giải quyết một bộ mã gồm hai phần chữ viết và âm thanh, nghĩa là nó không phải chỉ là sự "đánh vần" lên thành tiếng theo đúng như các ký hi ệu chữ viết, mà đọc còn là quá trình nhận thức để có khả năng hiểu đọc những gì đã được đọc. Tập đọc là cách học văn bản từ đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm. Dạy Tập đọc chính là việc giáo viên hướng dẫn hoàn thành 4 kĩ năng trên. Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập, nó cũng là công cụ để học các môn khác, nó tạo ra hứng thú và động cơ trong học tập. Đồng thời nó tạo điều kiện để HS có khả năng tự học và tinh thần học. Đọc là khả năng không thể thiếu được của con người. Trong thời đại văn minh, biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn, hướng các em tới cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết tư duy. Để bài dạy đạt kết quả cao, cần quan tâm đến cách tổ chức và lôgíc các nội
- 5 dung bài trong giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn. Vai trò của giáo viên trong mỗi tiết học chỉ là người tổ chức, dẫn dắt học sinh tự tìm ra tri thức. Ngoài ra, để phần tìm hiểu bài tiến hành được tốt thì cần phải có yếu tố như: cơ sở vật chất đầy đủ, tranh ảnh minh hoạ cho bài tập phải đẹp, phong phú và cuối cùng là trình độ giáo viên phải đáp ứng được yêu cầu của môn học. Muốn rèn đọc diễn cảm tốt, trước hết trong các giờ Tập đọc, HS phải nắm được nội dung, phong cách văn bản của bài đọc. Mức độ đọc diễn cảm tỉ lệ thuận với mức độ hiểu bài của học sinh. Qua hệ thống từ ngữ, kiểu câu, bố cục, thể loại văn bản ... các em cảm thụ sâu sắc văn bản( bài văn, bài thơ) từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm văn bản nghệ thuật, đọc đúng ngữ điệu các văn bản có mục đích thông báo khác. Đọc diễn cảm( đọc hay) là biết thể hiện kĩ thuật đọc phù hợp với từng bài như: ngắt nhịp đúng câu văn, câu thơ, thể hiện được nội dung bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui, buồn, trầm, bổng, gợi cảm, nhẹ nhàng, thiết tha hay mạnh mẽ, dứt khoát, tốc độ chậm rãi, khoan thai hay dồn dập... Ngoài ra, cần biết thể hiện đúng các kiểu câu như: câu hỏi, câu kể, câu cảm... Biết phân biệt giọng đọc của các nhân vật, của người dẫn chuyện trong bài. Học sinh bước đầu làm chủ được giọng đọc sao cho vừa đúng về ngữ điệu, về tốc độ, cao độ, trường độ và âm sắc; vừa thể hiện cảm nhận riêng của từng cá nhân nhằm diễn tả đúng nội dung đọc. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN. Những việc đã làm được: Nhà trường đã tổ chức coi, chấm thi KTĐK một cách nghiêm túc, đánh giá một cách chính xác chất lượng các môn học nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc trong nhà trường. Dưới sự chỉ đạo của nhà trường các tổ khối đã tổ chức cho giáo viên của tổ mình thi đọc hay một cách có hiệu quả, nhằm củng cố, nâng cao hiểu biết về tầm quan trọng của phân môn Tập đọc nói chung và đọc diễn cảm nói riêng. Từ việc làm này đã giúp cho giáo viên phần nào nắm vững hơn phương pháp dạy phân môn Tập đọc. Mỗi giáo viên đều tìm tòi, học hỏi, đổi mới phương pháp giảng dạy phân môn Tập đọc và đã chú trọng đến việc đọc diễn cảm của học sinh, đặc biệt chú trọng hơn về vấn đề này đối với HS lớp 5; đã khắc phục được tình trạng đọc ê a... ngắc ngứ, ngắt nghỉ chưa đúng và phát âm sai ở nhiều học sinh; đã tổ chức cho các em thi đọc diễn cảm trong nhóm và trước lớp, giúp các em học tốt hơn phân môn Tập đọc nói riêng, môn tiếng Việt nói chung. Hầu hết các em học sinh đều nêu cao ý thức rèn đọc cho mình, đặc biệt là đọc diễn cảm. Nhiều HS biết đọc diễn cảm, đọc hay, ham mê học tiếng Việt. Chất lượng môn Tập đọc ngày một được nâng lên một cách rõ rệt.
- 6 Những việc chưa làm được: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5, tại trường Tiểu học Quảng Minh, tôi nhận thấy việc dạy của giáo viên và việc học của HS có một số vấn đề như sau: Về phía giáo viên: Đối với đa số giáo viên, Tập đọc không phải là phân môn khó dạy. Hầu hết trong số họ đều có nhiều cố gắng trong việc tìm tòi phương pháp, nghiên cứu nội dung, học hỏi kinh nghiệm, đặc biệt có đổi mới phương pháp giảng dạy“ Lấy học sinh làm trung tâm” song kết quả cho thấy học sinh chưa đọc được hay( đọc diễn cảm) bài đọc. Bởi trong khi dạy, giáo viên thường mới chỉ coi trọng và sửa cho học sinh vấn đề đọc to, rõ ràng, lưu loát chứ chưa quan tâm nhiều đến kĩ thuật đọc, giọng đọc, cách đọc diễn cảm của học sinh hay việc đọc mẫu của giáo viên. Giáo viên dạy Tập đọc như dạy Văn trước đây. Nhìn chung phương pháp còn mang tính chất hưởng thụ và áp đặt( về cách hiểu nội dung bài, cách đọc bài). Giáo viên giảng giải quá nhiều về các từ khó, về ý nghĩa của bài mà xem nhẹ phần luyện đọc, đặc biệt là luyện đọc diễn cảm. Bên cạnh đó, do khách quan, một số giáo viên không có chất giọng tốt để đọc hay bài đọc. Giáo viên tiểu học lại dạy quá nhiều môn trong một buổi học nên việc đầu tư thời gian để luyện đọc trước khi lên lớp còn có phần hạn chế... Về phía học sinh: Học sinh không quan tâm đến phương pháp đọc của mình, do đó các em rất yếu về năng lực di chuyển kĩ năng đọc đã được hình thành ở các lớp trước, các bài trước để giải quyết những vấn đề đặt ra trong bài mới. Các em đã đọc thành tiếng, phát âm tương đối tốt ,song các em còn gặp khó khăn khi phát âm các tiếng từ có âm đầu s/x, ch/tr; r/d/gi, chưa phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã (lỗi vùng miền). Khả năng đọc để thể hiện nội dung bài đọc thì còn thấp. Khi đọc, nhiều em chưa hiểu ý của từng đoạn, từng bài, các em ngắt nghỉ câu văn, ngắt nhịp câu thơ chưa chính xác, vẫn còn hiện tượng đọc ê a..., ngắc ngứ, phát âm sai, chưa thể hiện được nội dung và tình cảm bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui, buồn, trầm, bổng, gợi cảm... Kĩ năng đọc lướt để tìm hiểu nội dung bài chưa tốt ở đa số các em. Ảnh hưởng của phương ngữ: tình trạng phát âm lẫn giữa các tiếng có thanh ngã và thanh hỏi, các tiếng có nguyên âm đôi... còn nặng nề. Do đặc điểm vùng miền, kinh tế ở gia đình chưa cao nên các em chưa được tạo điều kiện tốt để học tập. Qua điều tra khảo sát chất lượng đọc của học sinh ngay từ đầu năm học, tôi thấy lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít, nhất là đối với những học sinh có lực học trung bình hay yếu. Cụ thể điều tra chất lượng đọc của HS hai lớp 5 đầu năm học này có số liệu cụ thể như sau: Lớp 5A đầu năm học 2020 2021 Sĩ Học sinh đọc diễn Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh chưa đọc to,
- 7 số cảm lưu loát 34 2 HS = 5,9 % 25 HS =73,5 % 7 HS = 20,6% Lớp 5B đầu năm học 2020 2021 Sỉ Học sinh chưa đọc to, Học sinh đọc diễn cảm Học sinh đọc to, lưu loát số lưu loát 3 3 HS = 8,3% 26 HS = 72,2% 7 HS = 19,5 % 6 Sau khi khảo sát thực trạng, tôi tiến hành phân tích, thâm nhập thực tế cuộc sống của các em, đồng thời trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm trước và tìm ra nguyên nhân dẫn đến tồn nêu trên là: Nhìn chung: Tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm của hai lớp còn quá thấp. Tỉ lệ học sinh đọc to, lưu loát gần như ngang nhau. Tỉ lệ đoc chưa đọc to, lưu loát còn cao. Do học sinh chủ yếu các em người nông thôn, chủ yếu làm nghề nông. Một số gia đình chưa quan tâm tới việc học tập của con cái, phó mặc mọi việc cho nhà trường. Thời gian học của các em chủ yếu ở trường, nhiều em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, chưa biết nhấn giọng, lên giọng, hạ giọng những từ ngữ cần thiết. Khả năng cảm thụ văn thơ của các em và vốn hiểu biết về từ ngữ còn có những hạn chế, các em chưa hiểu rõ tác dụng của việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong thơ. Trong khi đó việc chữa lỗi cho học sinh giáo viên chưa được tiến hành một cách thường xuyên triệt để trong tất cả các giờ học, giáo viên thường sửa các lỗi mà sách giáo viên gợi ý chứ chưa sữa được lỗi mà thực tế học sinh mình mắc phải .Các em có đọc đúng, đọc nhanh, hiểu được nội dung ý nghĩa bài học thì các em mới từng bước tiến hành đọc diễn cảm tốt. Mặt khác thời gian dành cho phần luyện đọc diễn cảm trong một tiết tập đọc lại ít (5 đến 7 phút ) không đủ để giáo viên hướng dẫn cụ thể cho học sinh luyện đọc diễn cảm ( từ ngữ, câu ,đoạn, cả bài ) trong một bài văn cụ thể đã hết giờ. Vì vậy, số lượng các em được đọc ít và chỉ chú trọng vaò các em đọc hoàn thành tốt với hình thức đọc lại bài còn học sinh chưa hoàn thành hầu như không có. Đứng trước thực trạng đó, tôi luôn trăn trở, không ngừng tìm tòi, học hỏi ,tham khảo tài liệu, kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp và mạnh dạn đưa ra các biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần luyện đọc diễn cảm phân môn tập đọc cho học sinh lớp 5. 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Để giúp học sinh lớp mình đọc diễn cảm tốt, tôi đã tiến hành và thực hiện các biện pháp sau:
- 8 Biện pháp 1: Tìm hiểu học sinh, ổn định tổ chức lớp: Sau khi được phân công chuyên môn, việc làm đầu tiên là tôi cho lớp ổn định mọi nề nếp tổ chức. Sau đó đi sâu, đi sát để nắm được từng đối tượng HS về lực học, về hoàn cảnh gia đình, đặc biệt là về khả năng đọc, kĩ năng đọc vàphân loại học sinh theo 3 đối tượmg: *Đối tượng 1: Học sinh đọc chậm nhỏ. *Đối tượng 2: Học sinh biết đọc to, lưu loát. *Đối tượng 3: Học sinh biết đọc diễn cảm. Căn cứ vào đó, tôi đã tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt. Trong cùng một bàn có đủ các đối tượng học sinh để các em có điều kiện giúp đỡ nhau, rèn luyện bổ sung cho nhau qua quá trình luyện đọc theo cặp đôi và theo nhóm bàn để các em cùng tiến bộ. Công việc tiếp theo, tôi giới thiệu với học sinh về cấu trúc chương trình phân môn để các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học kỳ và trong cả năm học. Đặc biệt tôi đã nêu tầm quan trọng, yêu cầu kỹ năng cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Hướng dẫn học sinh lưu lại những câu, đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ hay trong sổ tay của mình, giao trách nhiệm cho một số em đọc khá, đọc tốt thường xuyên kèm cặp giúp đỡ những em đọc chưa tốt ở mọi bài học, mọi môn học chứ không chỉ dừng lại ở phần đọc theo cặp đôi hay đọc theo nhóm, đọc phân vai... Biện pháp 2: Khắc phục tình trạng đọc ngắc ngứ và ngắt nghỉ chưa đúng. Như chúng ta đã biết, chữ Tiếng Việt của chúng ta viết rời ra từng âm tiết chứ không phải viết liền từng từ như chữ một số nước khác (Anh, Nga, Pháp..) nhưng khi đọc ta lại không đọc rời rạc từng âm tiết một mà phải đọc theo từng cụm từ. Ví dụ: Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Nếu tính về mặt âm tiết thì câu văn trên có 24 âm tiết, 19 từ, 7 cụm từ. Khi học sinh tập đọc không để các em đọc rời rạc từng âm tiết như kiểu đọc nhát gừng. Nếu để học sinh đọc theo từng từ thì vẫn chưa diễn đạt được ý của câu văn nên tôi phải hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ. Trong vườn,/ lắc lư /những chùm quả xoan/ vàng lịm/ không trông thấy cuống, /như những chuỗi tràng hạt bồ đề/ treo lơ lửng. Cách hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ của tôi như sau: + Tôi viết câu văn đó ra bảng phụ( đã chuẩn bị từ trước). + Vì giai đoạn đầu lớp còn đọc yếu, do vậy tôi đọc mẫu theo cách nghỉ như trên sao cho thật chuẩn. Sau đó tôi cho học sinh phát hiện những chỗ ngắt nghỉ của cô, nếu đúng tôi sẽ dùng phấn màu gạch chéo sau những từ cần ngắt. Nếu học sinh chưa phát hiện ra tôi có thể đọc mẫu lần thứ 2 những câu đó để học sinh có thể nhận ra. Đồng thời tôi luôn củng cố kỹ năng đọc khi
- 9 gặp dấu chấm( phải nghỉ hơi), gặp dấu phẩy phải ngắt hơi. Khi đã nhận ra cách ngắt nghỉ sau cụm từ, sau dấu phẩy, sau dấu chấm tôi gọi một số học sinh khá đọc, sau đó mới gọi những em hay đọc ngắc ngứ. Có thể là một lần, cũng có thể là hai lần và phải tiến hành trong một thời gian. Tôi nghĩ hiện tượng đọc ngắc ngứ và ngắt nghỉ chưa đúng ở các em sẽ không còn xảy ra nữa. + Vậy khi học sinh đọc những câu văn dài, học sinh đã biết ngắt hơi sau cụm nhưng ngắt hơi trong thời gian bao lâu thì cũng là điều cần phải hướng dẫn các em. Thông thường, tôi hướng dẫn các em ngắt hơi sau cụm từ bằng thời gian ngắt nghỉ khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy và đương nhiên thời gian đó phải ít hơn thời gian nghỉ khi đọc gặp dấu chấm. Tránh tình trạng học sinh ngắt nghỉ quá lâu làm cho người nghe cảm thấy rời rạc. Số học sinh mắc lỗi đọc ngắc ngứ, ngắt nghỉ chưa đúng hoặc đọc liến thoắng không nhiều nên chỉ sau 3 tuần kiên trì rèn đọc cho các em( gọi cho các em đọc nhiều hơn, sửa cho các em kỹ hơn) thì loại lỗi này không còn trong lớp tôi nữa, các em đọc đã khá trôi chảy, lưu loát. Biện pháp 3: Khắc phục tình trạng đọc sai những tiếng có phụ âm đầu haynhầm lẫn s – x ; ch – tr; d – r gi…; tiếng có dấu thanh hay nhầm lẫn: thanh ngã/ thanh hỏi. Những tiếng, những từ này thường là những từ khó đối với HS. Cho nên, trong bước rèn đọc đúng cho HS, tôi cho các em đọc thầm toàn bài để tự phát hiện ra những tiếng, từ mà HS cảm thấy khó có trong bài. Trong thực tế, nhiều khi giáo viên quá phụ thuộc vào sách hướng dẫn mà ép học sinh phải chỉ ra những từ khó giống như trong sách nêu ra là không nên bởi những từ đó với HS có thể chưa phải là khó. Song từ, tiếng khó đọc mà tự các em phát hiện ra có thể là rất nhiều. Do vậy, giáo viên cần kết hợp với việc quan sát theo dõi của mình trong tất cả các giờ học để thấy HS lớp mình hay nhầm lẫn ở những cặp phụ âm nào, vần nào, tiếng nào để tập trung rèn cho các em những tiếng khó, từ khó ở các loại đó. Ví dụ: Ở lớp tôi ngay từ khi mới nhận lớp, qua theo dõi trong các tiết học và trong khi giao tiếp với học sinh tôi thấy các em còn hay nhầm lẫn khi phát âm: Thanh ngã/ Thanh Các lỗi Nguyên âm đôi s/ x ch/ tr d/ r/ gi hỏi Tỷ lệ mắc 25% 65% 20% 35% 70% lỗi Tôi thấy đây không chỉ là những lỗi của các em khi đọc, khi nói mà cả nhân dân địa phương nơi đây cũng hay nhầm lẫn như vậy. Do vậy, trong một giờ học, một tuần học, thậm chí cả một tháng ta cũng không thể sửa ngay cho các em tất cả các loại lỗi. Những lỗi mà tỷ lệ học sinh mắc ít hơn và cũng dễ
- 10 sửa hơn tôi đặt ra cho mình kế hoạch sẽ tiến hành rèn cho các em liên tục trong nhiều tuần đầu (Đó là những cặp phụ âm s/x, ch/ tr, d/ r/ gi ). Còn những lỗi khó sửa hơn (lỗi thanh ngã/ thanh hỏi) tỷ lệ HS mắc lỗi nhiều hơn, tôi đặt ra cho mình kế hoạch rèn cho các em liên tục trong 3 tháng nhưng sau đó phải thường xuyên rèn trong khi nói, khi đọc và khi viết, có như thế mới trở thành thói quen nói đúng, viết đúng được. Cách tiến hành rèn đọc đúng cho học sinh của tôi như sau: + Mục đích phần rèn đọc của bài “Phong cảnh Đền Hùng”( TV 5, tập 2, tr.68 ) tôi sẽ tập trung rèn HS đọc đúng những tiếng có phụ âm đầu s/x. + Sau khi nghe HS đọc tốt đọc mẫu lần 1, tôi yêu cầu cả lớp đọc thầm toàn bài( kết hợp với việc dặn học sinh chuẩn bị bài ở nhà) tìm ra những từ, tiếng khó đọc có trong bài. sau đó cho HS nêu ra, tôi lần lượt ghi lên bảng. Ví dụ: HS tìm được các từ khó: sừng sững, Sóc Sơn, phù sa, soi gương, xa xa, trong xanh .... Tôi ghi các từ đó lên bảng và hỏi: Em thấy những từ đó khó đọc ở phần nào?(HS:phụ âm đầu s và x). Tôi dùng phấn xanh mạc lại những tiếng có âm đầu là s, phấn đỏ mạc lại những âm đầu là x Đối với những âm này, với HS của tôi, tôi phải hướng dẫn học các cách phát âm thật cụ thể, chi tiết. + Tôi hướng dẫn các em cách phát âm phụ âm s/nnhư sau: Khi phát âm âm vị s ta để đầu lưỡi cong lên hàm trên. Lúc này miệng hơi mở. Bật nhanh đầu lưỡi lên luồng hơi từ họng đi qua hai lỗ mũi tạo thành âm s ( ét sờ). Phát âm âm vị x: Để đầu lưỡi sát chân răng hàm trên. Lúc này miệng hơi mở. Cuốn nhanh đầu lưỡi lên; luồng hơi từ họng đi qua hai mép lưỡi tạo thành âm x.(x xì) Giáo viên làm mẫu hai lần, sau đó cho HS khá phát âm, gọi học sinh hay nhầm lẫn về phụ âm này tập phát âm. Lưu ý nên cho các em phát âm cá nhân để dễ phát hiện những em phát âm sai để sửa; Nếu chỉ rèn như v ậy thì cũng chưa đủ mà việc luyện đọc từ khó cần phải được đặt trong văn cảnh, trong môi trường ngôn ngữ thì HS đọc những từ đó mới đúng hơn. Bởi nhiều khi đọc riêng từ HS có thể đọc đúng nhưng khi đặt từ đó vào trong câu văn, đoạn văn thì chưa chắc các em đã đọc đúng. Chính vì thế, sau khi rèn phát âm luyện đọc từ khó có chứa âm khó, tôi lại phải yêu cầu học sinh tìm những câu văn, câu thơ thậm chí đoạn văn, đoạn thơ có chứa từ khó đó cho học sinh đọc vì mục đích của rèn đọc đúng là rèn phát âm đúng để đọc đúng văn bản. Cách thức rèn cho HS đọc đúng các tiếng có thanh ngã, thanh hỏi cũng tương tự như trên. Rèn cho HS thói quen đọc đúng những tiếng có nguyên âm đôi, các phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn là một việc làm không đơn giản. Bản thân một mình phân môn Tập đọc cũng khó có thể giải quyết được. Do vậy, theo tôi trong tất cả các giờ học và trong bất kỳ hoàn cảnh giao tiếp nào
- 11 tôi và lực lượng nòng cốt của tôi gồm 20% HS không mắc lỗi sẽ giúp các em sửa ngay. Có như th ế mới giải quyết được vấn đề. Với những cặp phụ âm còn lại, tôi cũng tiến hành rèn cho HS lần lượt theo từng bước như v ậy. Đến nay, năm học đã tiến hành được gần 3 tháng thì mức độ sai những tiếng có phụ âm hay nhầm lẫn, những tiếng có thanh hỏi, thanh ngã và những tiếng có nguyên âm đôi như đã nêu ra ở trên đã giảm rõ rệt. Nguyên Các lỗi s/x ch/ tr d/ r/ gi Thanh ngã/ Thanh hỏi âm đôi Tỷ lệ mắc 15 5% 10% 15% 20% lỗi % Từ kinh nghiệm của những năm học trước tôi tin tưởng rằng trong hơn hai tháng của học kỳ 2 tôi sẽ giải quyết triệt để các lỗi còn lại. Biện pháp 4: Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tùy tiện. Theo tôi muốn khắc phục tình trạng lên xuống giọng tuỳ tiện thì giáo viên phải hướng dẫn thật tốt cách đọc các kiểu câu: Câu kể: Ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối câu. Câu hỏi:Ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phải lên giọng ở cuối câu. Câu kể có dấu chấm lửng: khi đọc phải kéo dài giọng. Câu cảm, cầu cầu khiến: Ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần phải lên giọng ở cuối câu. Ví dụ: Trong bài"Tác phẩm của Si le và tên phát xít”(TV5, tập 1, tr.58) tôi hướng dẫn học sinh cách đọc các loại câu này như sau: Chép đoạn văn đó lên bảng phụ. Hỏi học sinh trong đoạn văn đó có những câu văn nào là câu hỏi, câu kể,câu cảm, câu cầu khiến và cách đọc của từng loại câu này, giáo viên dùng. phấn mầu ghi ký hiệu lên giọng , xuống giọng ở cuối mỗi loại câu. Lão thích nhà văn Đức hơn lời chào của người Đức chăng? ( câu hỏi). Sao ngài lại nói thế? Si le là nhà văn quốc tế chứ! ( câu cảm) Ông già điềm đạm trả lời. ( câu kể) Sau đó tôi hoặc học sinh khá đọc mẫu theo cách đọc đó rồi cho học sinh nhất là những em yếu kém luyện đọc với số lượng từ 5 – 6 em. Việc làm này phải được tiến hành thường xuyên , có như th ế mới hình thành được thói quen đọc đúng. Sau khoảng thời gian 1 tháng số học sinh mắc lỗi này đã giảm chỉ còn 3/34 em. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp, nhịp độ đọc. Một số người lầm tưởng hướng dẫn đọc ngắt nhịp trong thơ là hướng dẫn đọc diễn cảm. Không phải như v ậy, mà đó mới chỉ là cách đọc đúng trong thơ mà thôi. Vậy muốn hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ đúng thì
- 12 giáo viên phải nắm vững cách đọc các thể thơ. Các bài thơ trong sách Tiếng Việt 5 thường được viết theo thể thơ tự do. Vì vậy, ngắt nhịp thơ còn phụ thuộc vào cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng HS cảm nhận theo cách khai thác được giá trị nội dung và giá trị thẩm mĩ cao nhất. Trong bài"Hành trình của bầy ong ", học sinh thường ngắt nhịp như sau: Chắt trong / vị ngọt mùi hương Lặng thầm thay những / con đường ong bay. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc nhấn giọng và ngắt nhịp như sau: Chắt trong vị ngọt / mùi hương Lặng thầm thay / những con đường ong bay. Do vậy, tôi muốn nói khi hướng dẫn HS ngắt nhịp thơ thì giáo viên cần phải cho học sinh nhận biết bài thơ đó được viết ở thể thơ nào? Cách ngắt nhịp chung của toàn bài ra sao? Song cũng cần phải phát hiện những câu, những đoạn có cách ngắt nhịp khác biệt trong bài để hướng dẫn HS. Do vậy, ngắt nhịp thơ không đúng câu thơ sẽ trở nên tối nghĩa, mất hết ý vị còn đâu có thể cảm nhận được nội dung của bài. Khi đọc văn bản văn xuôi cũng cần chú ý tới ngắt nhịp. Đọc bài Mùa thảo quả( TV5, tập 1), chú ý nghỉ hơi ngắn ở những câu ngắn( Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đấttrời thơm.) nhằm thể hiện nhịp thở của người đang hít vào để cảm nhận mùi thơm của thảo quả lan trong không gian. Không ch ỉ quan tâm đến việc ngắt nh ịp trong khi đọ c mà còn th ể hi ện nhịp độ đọc. Đọc nhanh hay chậm, vừa phải là do nôị dung bài văn, bài thơ quyết định. Trong một bài có thể đọc nhanh, chậm, vừa phải tuỳ thuộc theo nội dung từng đoạn như khi dạy bài:“ Kì diệu rừng xanh”( TV5 tập 1). Cần hướng dẫn học sinh đọc giọng khoan thai, thể hiện thái độ ngỡ ngàng, ngưỡng mộ cảnh vật ở đoạn 1; đọc nhanh hơn ở những câu miêu tả hình ảnh thoắt ẩn, thoắt hiện của muông thú ở đoạn 2; đọc thong thả ở những câu cuối miêu tả vẻ thơ mộng của cánh rừng trong sắc vàng mênh mông ở đoạn 3. HS phải biết thay đổi tốc độ đọc như vậy tức là đã cảm nhận được vẻ đẹp kì thú của rừng xanh. Với câu văn dài, tốc độ đọc giãn ra, làm cho người đọc, người nghe có thời gian suy nghĩ:“ Cô bé ngây thơ tin vào truyền thuyết nói rằng nếu gấpđủ một nghìn con sếu bằng giấy treo quanh phòng, em sẽ khỏi bệnh. Nhưng Xa da cô chết khi em mới gấp được 644 con”( Những con sếu bằng giấy TV5 tập 1). Khi gặp những câu văn có dấu chấm lửng cần hướng dẫn học sinh nghỉ hơi dài: “ Để có một ngôi làng như mọi ngôi làng ở trên đất liền, rồi sẽ có chợ, có trường học, có nghĩa trang... /” ( Lập làng giữ biển TV5, tập 2). Làm tốt khâu rèn đọc đúng tức là ta đã tạo ra cơ sở ban đầu để giúp HS hiểu đúng nội dung bài tập đọc và như vậy mới có thể hướng dẫn HS biết đọc diễm cảm
- 13 Biện pháp 6: Bám sát yêu cầu của bài tập đọc. Yêu cầu của bài tập đọc phải được xác định từ khi soạn bài ở nhà. VD: + Đọc trôi chảy, lưu loát bài thơ, đúng nhịp của thể thơ tự do. Biết đọc diễn cảm bài thơ thể hiện niềm xúc động của tác giả khi nghe tiếng đàn trong đêm trăng, ngắm sự kì vĩ của công trình thuỷ điện sông Đà, mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp khi công trình hoàn thành. + Hiểu ý nghĩa bài thơ: Ca ngợi vẻ kì vĩ của công trình, sức mạnh của những người đang chinh phục dòng sông và sự gắn bó, hoà quyện giữa con người với thiên nhiên. + Gd HS yêu thiên nhiên, trân trọng những người đã chinh phục được thiên nhiên. Bám sát yêu cầu của bài tập đọc, trong 3 yêu cầu ấy phải đượctoát ra từ bản thân bài tập đọc và GV phải vận dụng vào thực tế lớp mình giảng dạy thì việc bám sát yêu cầu của bài tập đọc mới thực sự hiệu quả. Biện pháp 7: Giảng từ và khai thác nghệ thuật. Giảng từ: trong bài tập đọc thường có nhiều từ. Vậy ta cần phải giảng những từ nào? + Qua kinh nghiệm về giảng dạy phân môn Tập đọc tôi thấy có thể chia những từ để giảng làm 3 loại: loại từ khó, loại từ gắn với chủ đề đang học và loại từ chìa khoá (từ trung tâm). Từ khó có thể là từ địa phương được tác giả đưa vào bài, là loại từ Hán Việt, là danh từ riêng. Loại từ này thường có trong phần chú giải cho nên sau khi đọc mẫu xong tôi cho học sinh đọc phần chú giải để học sinh hiểu ngay được những từ này khi bắt đầu tiếp xúc với bài tập đọc. Từ chủ đề: Trong mỗi chủ đề tập đọc có một số từ ngữ mà giáo viên cần lưu ý bởi đó là những từ làm toát lên chủ đề. Từ chủ đề cũng có khi là từ khó. Giáo viên có thể kết hợp giảng các từ chủ đề với các từ khó hoặc với các từ trung tâm trong quá trình khai thác. Từ trung tâm: Đây là những từ có sức nặng, giáo viên cần khai thác để làm toát lên nội dung bài học. Ta chia những từ cần giảng làm 3 loại như v ậy để dễ phân biệt còn trong thực tế nhiều khi từ khó cũng là từ chủ đề hoặc từ trung tâm. + Vậy khi giảng từ ta có thể dùng những phương pháp nào? Những phương pháp phổ biến là phương pháp trực quan, liên hệ, so sánh, phương pháp định nghĩa, giảng giải. Phương pháp trực quan Khi dùng phương pháp trực quan, tôi áp dụng bằng nhiều hình thức: Trực quan bằng giọng nói, nét mặt, ánh mắt, động tác, hình mẫu, tranh ảnh vật thực.
- 14 VD: Trong bài “Người ăn xin”, khi giảng về từ nhìn chằm chằm tôi có thể dùng ánh mắt của mình nhìn một cách chăm chú, lâu không chớp mắt và có ý dò hỏi? Trong bài tập đọc khác tôi có thể dùng môi để giảng từ mấp máy, dùng cách. Điđể giảng từ rón rén, dùng tư thế để giảng từ lom khom, dùng giọng nói để giảng từ sang sảng, oang oang, dùng chỉ màu để giảng từ sặc sỡ, dùng hình mẫu để giảng từ nhà sàn, nhà trệt. Phương pháp trực quan là phương pháp rất tốt để học sinh có thể hiểu và nhớ lâu nghĩa của từ nhưng phương pháp này chỉ dùng để giảng từ cụ thể. Khi gặp những từ trừu tượng như sắc lệnh, tổng tuyển cử, hữu nghị, khiêm tốn thì rất khó dùng phương pháp này. Do vậy, ngoài phương pháp này tôi còn sử dụng nhiều phương pháp khác. Phương pháp định nghĩa, giảng giải. Ở lớp 5 nhận thức lý tính tổng quát của học sinh đã phát triển nên trong khi giảng từ cho học sinh hiểu tôi vẫn thường dùng phương pháp định nghĩa hay giảng giải xen lẫn các phương pháp khác. Ví dụ: Khi giảng từ quyến rũ tôi dùng phương pháp giảng giải Quyến rũ có nghĩa là có một sức lôi cuốn mạnh mẽ làm cho quyến luyến không muốn rời xa. Mãnh liệt, day dứt ý nói thôi thúc, day dứt, dai dẳng và mạnh mẽ. Khi giảng về từ truyền thống tôi dùng phương pháp định nghĩa. Truyền thống là những phẩm chất tốt đẹp hoặc những điều tốt đẹp được giữ gìn, phát triển và truyền từ đời này sang đời khác. Ví dụ: Dân tộc ta có truyền thống yêu nước nồng nàn. Phương pháp so sánh: Khi giảng về từ lạnh tê tái, tôi nêu lên một loạt các khái niệm lạnh lẽo, lạnh buốt, lạnh giá để học sinh thấy được lạnh tê tái ở mức độ cao hơn. Mặt khác, tôi cho học sinh tìm từ trái nghĩa với từ lạnh tê tái là nóng hầm hập để học sinh càng hiểu rõ hơn về ý nghĩa của từ này. Khai thác nghệ thuật: Theo tôi bài tập đọc là một thể thống nhất giữa hai mặt nội dung và nghệ thuật, do vậy, tôi nghĩ chúng ta phải thông qua việc khai thác nghệ thuật để làm toát lên nội dung tư tưởng. Tôi thấy trong khi dạy tập đọc vốn kiến thức văn học mà học sinh tích luỹ được chưa nhiều. Có đ/c hỏi: “Khai thác nghệ thuật của một bài tập đọc là khai thác những gì?” Theo tôi tuỳ từng bài mà chúng ta phải xem bài tập đọc ấy có những nét gì nổi bật về nghệ thuật cần khai thác. VD: Trong bài Đất nước, cần giúp HS hiểu tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hoá( Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiếttha), lặp từ ngữ
- 15 ( đây, của chúng ta), liệt kê các hình ảnh( Những cánh đồng thơm mát Những ngã đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặngphù sa)... nhằm tả vẻ đẹp của mùa thu thắng lợi,đồng thời thể hiện niềm tự hào về đất nước tự do. Hoặc trong bài Mùa thảo quả tôi tập trung khai thác điệp từ thơm và việc sử dụng một loạt câu văn ngắn xen lẫn với câu văn dài để làm nổi bật mùi thơm đặc bệt của thảo quả. VD: Gió tây lướt thướt bay, qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào các thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm, ủ ấp trong từng nếp áo nếp khăn. Tuy nhiên vẫn phải kết hợp xen kẽ các hình thức nghệ thuật khác nhau như: Khai thác nghệ thuật dùng từ, khai thác nghệ thuật viết câu văn, khai thác nghệ thuật xây dựng bố cục bài văn… Có như th ế, phần khai thác nội dung bài mới đầy đủ. Song, nói như vậy cũng chưa thật đầy đủ nếu ta không nhắc đến biện pháp khai thác biện pháp nghệ thuật tu từ. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tôi thấy các biện pháp tu từ ở tiểu học cần tập trung khai thác là: Biện pháp so sánh, điệp từ, nhân hoá….nếu khai thác tốt các biện pháp tu từ này thì giúp ích rất nhiều trong việc hướng dẫn HS cảm thụ bài văn, học tốt phân môn tập làm văn. VD: Trong bài Cửa sông, tôi giúp học sinh hiểu phép nhân hoá ở khổ thơ cuối( giáp mặt, chẳng dứt, nhớ) giúp tác giả nói được "tấm lòng" của cửa sông không quên cội nguồn, đòng thời nói lên tình cảm thuỷ chung của con người Việt Nam. Biện pháp 8: Giảng ý và liên hệ thực tế. Giảng ý: Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi khẳng định một điều: giảng từ và giảng ý thường phải gắn chặt với nhau. Ta phải giảng từ, khai thác hình ảnh để làm toát lên ý của bài hay nói cách khác ta phải khai thác nghệ thuật để làm toát lên nội dung. VD: Trong bài “ Hạt gạo làng ta” tác giả có viết: Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi hôm nay. Hỏi: Trong khổ thơ trên tác giả nêu lên hạt gạo quê thơm ngon là nhờ đâu?( câu hỏi về nội dung) ( nhờ có vị phù sa, có hương sen thơm, có lời mẹ hát) Hỏi: Trong khổ thơ đó từ nào được lặp lại nhiều lần? Lặp lại nhưvậy để nhằm mục đích gì?( Từ có được lặp lại nhiều lần, để nhấn mạnh hương vị thơm ngon của hạt gạo quê hương)
- 16 VD: Cho học sinh đọc khổ thơ cuối, hỏi câu cuối “ Hạt vàng làng ta” ý nói gì? Câu hỏi nặng về giảng ý để toát lên nội dung bài. (Hạt gạo rất quý vì được làm ra bởi công sức của biết bao người với bao thử thách gay go quyết liệt. Hạt gạo xứng đáng được ví như hạt vàng.) Tóm lại trong quá trình giảng dạy những câu hỏi giảng ý thường gắn với những câu hỏi giảng từ và câu hỏi khai thác hình ảnh thành một hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh thâm nhập vào nội dung của bài để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài văn. Từ đó học trò mới có cảm xúc thực sự và mới đọc hay bài tập đọc được. Trước những việc làm nêu trên, ngoài ra trong giờ tập đọc, tôi thường xuyên quan tâm đến những em rụt rè, nhút nhát, kịp thời khuyến khích động viên để các em có hứng thú đọc tốt hơn. Đối với những em đọc nhỏ, chậm, ngoài việc hướng dẫn chung đọc diễn cảm cho cả lớp, tôi đã có kế hoạch bồi dưỡng ngay từ đầu như: thường xuyên uốn nắn việc phát âm tiếng có vần khó, hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, từng ngữ. Với những câu văn dài tôi cho học sinh này dùng bút chì vạch sẵn những chỗ ngắt nhịp vào sách giáo khoa, giúp các em ngắt nhịp đúng chỗ, cứ như vậy uốn nắn dần để các em đọc tốt dần lên. Đặc biệt trong giờ Tập đọc, tôi luôn tạo cho lớp học một không khí thoải mái để các em phấn khởi học tập. Trong việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh tôi không sử dụng sự gò ép, áp đặt, mà thường phươ ng pháp gợi m ở để phát huy tính chủ độ ng, tích cự c xuyên sử dụng và sự sáng tạo ở mỗi học sinh, t ừ đó các em có điề u kiện để thể hiệ n mình. Biện pháp 9: Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinhbằng cách tổ chức trò chơi học tập trong giờ học. Để tạo hứng thú luyện đọc của học sinh, giáo viên có thể tổ chức các trò chơi học tập. Thông qua các trò chơi kích thích hứng thú đọc; rèn tư duy linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng tình cảm tốt đẹp. Trò chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc diễn cảm (HTL). Tuỳ thời gian và điều kiện cho phép, giáo viên lựa chọn trò chơi học tập thích hợp để tổ chức cho học sinh tham gia. Ví dụ: Thi đọc nối tiếp từng đoạn (theo nhóm, tổ), đọc "truyền điện" thi tìm nhanh đọc đúng; nhìn một từ đọc cả câu (hoặc nhìn một câu đọc cả đoạn), nghe đọc đoạn đoán tên bài; thi đọc truyện theo vai, thả thơ.... Dưới đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi luyện đọc như sau: a) Thi đọc tiếp sức: * Chuẩn bị: 1 đồng hồ, SGK, giáo viên dự kiến số nhóm tham gia chơi. * Tiến hành:
- 17 Giáo viên yêu cầu, hướng dẫn cách chơi. Giáo viên quy định các nhóm có số lượng học sinh bằng nhau. Từng nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang mỗi em cầm một cuốn sách giáo khoa, đã mở sẵn trong đó có bài văn sẽ thi đọc. + Giáo viên hô lệnh: "Bắt đầu, em số 1 (đầu hàng bên phải hoặc bên trái) đọc câu thứ nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng câu thứ nhất, em số 2 (cạnh số 1) mới được đọc tiếp câu số 2..Cứ như vậy cho đến em cuối cùng của nhóm. Nếu chưa hết bài, câu tiếp theo lại đến lượt em số 1, em số 2 đọc... cho đến hết bài văn thì dừng lại Giáo viên tính và ghi bảng thời gian đọc của mỗi nhóm. Học sinh sẽ bị trừ điểm nếu đọc sai, lẫn hay thừa thiếu tiếng trong câu hoặc đọc câu sau khi người trước chưa đọc sau, đọc vượt quá một câu theo quy định. Giáo viên cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian của mỗi nhóm cho điểm nhóm "đọc tiếp sức" mỗi câu văn đọc đúng cho 1 điểm, không cho điểm các trường hợp vi phạm. Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương nhóm đọc tiếp sức hay nhất. * Lưu ý: ở tiết tập đọc 1 bài thơ, giáo viên nên cho học sinh đọc 2 dòng hoặc 1 câu lục bát, nếu là tiết Tập đọc Học thuộc lòng, giáo viên cho thi tiếp sức theo cách trên nhưng học sinh không nhìn sách giáo khoa. b) Thả thơ: * Chuẩn bị: Giáo viên viết vào phiếu câu thơ đầu (hoặc giữa) ở mỗi khổ thơ hoặc 1 2 từ đầu của mỗi câu thơ. Ví dụ bài: Hạt gạo làng ta. Giáo viên làm các phiếu như sau: Phiếu 1: Hạt gạo làng ta ………. ngọt bùi đắng cay Phiếu 2: Hạt gạo làng ta ……….. mẹ em xuống cấy Phiếu 3: Hạt gạo làng ta ………. thơm hào giao thông Phiếu 4: Hạt gạo làng ta ………... quang trành quết đất. * Tiến hành: Giáo viên hướng dẫn cách chơi và nêu yêu cầu. Mỗi lượt chơi gồm 2 nhóm và số người bằng số phiếu mỗi nhóm cử nhóm trưởng, 2 nhóm trưởng bốc thăm để giành quyền "thả thơ" trước. Mỗi em trong nhóm cầm một tờ phiếu (giữ kín). Giáo viên hô "bắt đầu" nhóm được thả thơ trước cử 1 người thả thơ ra một tờ phiếu cho 1 bạn nhóm kia. Bạn nhận được tờ phiếu phải đọc thuộc cả khổ thơ, hoặc cả câu thơ lục bát có câu, từ ghi trên phiếu.Nếu đọc đúng được tính 1 điểm. Giáo viên tính số điểm của nhóm đọc thuộc thơ, đổi nhóm chơi tương tự trên, giáo viên tính điểm nhóm thứ hai. c) Đọc thơ "truyền điện" * Chuẩn bị: thời điểm chơi cuối tiết Tập đọc HTL hoặc tiết ôn tập HTL. Học sinh 2 nhóm ngồi quay mặt vào nhau. * Tiến hành: Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi.
- 18 2 nhóm bắt thăm (hoặc oản tù tì) để giành quyền đọc trước. + Đại diện nhóm đọc trước là "A" đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ rồi chỉ định thật nhanh "truyền điện" 1 bạn bất kì (B).Bạn được chỉ định đọc tiếp khổ thơ thứ hai của bài.Nếu đọc thuộc được thì chỉ định của 1 bạn nhóm (S) đọc tiếp khổ thơ thứ 3...Cứ như vậy cho đến hết bài. Ví dụ: Bài Sắc màu em yêu Học sinh A1: Em yêu màu đỏ …… khăn quàng đội viên Học sinh B1: Em yêu màu vàng ….. nắng trời rực rỡ Học sinh A2: Em yêu màu trắng ….. mái tóc của bà Học sinh B2: Em yêu màu đen ……… màn đêm yên tĩnh Học sinh A3 : Em yêu màu xanh ……. bầu trời cao vợi Học sinh B3: Em yêu màu tím ……. nét mực chữ em ….. Tiếp tục như vậy cho hết bài. Trường hợp học sinh được "truyền điện" chưa thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5, nếu không đọc được phải đứng yên tại chỗ bị "điện giật", lúc đó học sinh A1 chỉ tiếp học sinh B2...Nhóm nào có nhiều người phải đứng bị "điện giật" là nhóm thua cuộc. Như vậy, ta thấy tổ chức trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh hào hứng say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh ham mê học hơn. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục , với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên cho học sinh lớp mình. Tôi đã tiến hành khảo sát lớp tôi đang dạy và lớp 5B trong từng giai đoạn và có kết quả như sau: + Lớp 5A( Lớp do tôi chủ nhiệm) Giai đoạn HS đọc nhỏ, Sĩ số HS đọc diễn cảm HS đọc to, lưu loát ạ chậm Đầu năm 34 2 HS = 5,9 % 25 HS =73,5 % 7 HS = 20,6% Giữa kì 2 34 8 HS = 23,5% 23 HS = 67,7 % 3 HS = 8,8% Cuối kì 2 34 15 HS = 44,1% 19 HS = 55,9% 0 HS = 0 % + Lớp 5B HS đọc nhỏ, Giai đoạn Sĩ số HS đọc diễn cảm HS đọc to, lưu loát chậm Đầu năm 36 7 HS = 19,5 3 HS = 8,3% 26 HS = 72,2% % Giữa kì 2 36 6 HS = 16.7 % 25 HS = 69,4 % 5 HS = 13,9 % Cuối kì 2 36 8 HS = 22,3 % 26 HS = 72,2 % 2 HS = 5,5 % So sánh đối chứng: Qua kết quả tổng hợp tôi đã nêu trên, tôi rất phấn khởi vì thấy trong giờ Tập đọc, học sinh không những đã say mê học tập, lớp học rất sôi nổi mà kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Nó không chỉ nâng lên theo từng giai đoạn khảo sát mà nó còn có sự tiến bộ hơn giữa lớp áp
- 19 dụng kinh nghiệm này vào rèn đọc diễn cảm cho học sinh so với lớp không đưa kinh nghiệm này vào giảng dạy. Ở lần khảo sát đầu tiên để điều tra thực trạng trong giai đoạn đầu năm học: Tỉ lệ học sinh đọc nhỏ và chậm ở lớp 5A cao hơn lớp 5B. Tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm ở lớp 5A thấp hơn lớp 5B. Đến giữa học kì 2 và cuối kì 2 tỉ lệ này có thay đổi rõ rệt. Lớp 5A tỉ lệ học sinh đọc nhỏ và chậm còn ít hơn lớp 5B và tỉ lệ học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm đã cao hơn lớp 5B. Dẫu rằng kết quả trên là chưa cao nhưng nó đã đánh dấu bước đầu sự thành công của tôi trong quá trình giảng dạy để nghiên cứu, tìm tòi ra những biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình. 3. Kết luận,kiến nghị: 3.1. Kết luận: Tập đọc là một môn không khó nhưng cũng không dễ dạy. Cái khó đó do chủ quan người dạy và cũng do khách quan của bộ môn tạo nên. Phía chủ quan người dạy phải có kiến thức rộng về ngữ văn, phải có trình độ nhất định về tư tưởng, tình cảm và phải nắm chắc phương pháp bộ môn. Phía khách quan, Tập đọc là một phân môn khó dạy vì tính chất phong phú của nó. Nếu chỉ chú ý tính khoa học của bài như phân tích ngữ âm, câu, từ thì bài dạy sẽ khô khan. Nếu khai thác tính nghệ thuật mà không dựa cơ sở ngôn ngữ thì cũng dễ tràn lan. Do vậy, tôi thiết nghĩ muốn dạy tốt phân môn tập đọc chúng ta cần phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ nhận thức của bản thân, nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, kiên trì luyện cho mình kỹ năng đọc tốt cùng với tâm huyết của mình dành cho nghề . Thông qua thực tế trong giảng dạy, tôi đi đến kết luận: Muốn rèn đọc diễn cảm cho học sinh tốt thì điều kiện quan trọng nhất là người thầy. Bởi thầy là người hướng dẫn các em cách đọc đúng đọc hay. Vì vậy thầy phải hướng dẫn thật cụ thể chu đáo từng chữ, từng ngữ... với từng đối tượng học sinh. Đặc biệt là đọc mẫu bởi thầy có vai trò quan trọng trong việc đọc diễn cảm của trò. Muốn đạt được điều đó đòi hỏi thầy phải là người có tâm thực sự quan tâm đến trò, nhiệt tình trong phương pháp soạn giảng, trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học, đặc biệt là phân môn Tập đọc. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm cho HS lớp 5 trong giờ Tập đọc. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các vị độc giả. 3.2. Kiến nghị: Để có kết quả rèn đọc diễn cảm cho học sinh cao hơn, tôi mạn phép đề xuất một vài ý kiến với các cấp chỉ đạo như sau: Thường xuyên dự giờ của giáo viên để nắm vững phương pháp giảng dạy, từ đó khắc phục kịp thời những tồn tại để thống nhất phương pháp giảng dạy đặc biệt là việc rèn đọc diễn cảm. Khơi dậy phong trào thi ngâm
- 20 thơ, kể chuyện, đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên trong khối, trong trường. Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các môn học nhất là phân môn Tập đọc. Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên nhất là đồ dùng dạy phân môn Tập đọc. Đề nghị cấp phòng sau khi chấm sáng kiến kinh nghiệm nên phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy có chất lượng để giáo viên học tập kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp. Sau mỗi đợt thi giáo viên giỏi chúng tôi rất mong ban chỉ đạo hội thi có những thống nhất một cách cụ thể chi tiết về phương pháp giảng dạy các phân môn. Tổ chức thường xuyên hội thi đọc hay với GV và HS để tăng cường ý thức luyện đọc hay ở từng giáo viên và học sinh. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2021 ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Nguyễn Thị Huệ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 432 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 186 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 173 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 121 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 100 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 130 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 186 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 62 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn