intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Quảng Minh- Thành phố Sầm Sơn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:22

24
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là nhằm nâng cao chất lượng dạy - học cho giáo viên và học sinh. Giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm không chỉ trong phạm vi một văn bản của tiết tập đọc mà biết đọc diễn cảm bất kì một bài văn nào. Biết vận dụng kiến thức, hiểu biết của mình trong giao tiếp hàng ngày để nói hay, nói đúng, mạnh dạn, tự tin, bình tĩnh trước tập thể. Đóng góp một số kinh nghiệm nhỏ của mình cho đồng nghiệp, cho trường trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 nói riêng và cho học sinh toàn trường nói chung, góp phần nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Tập đọc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Quảng Minh- Thành phố Sầm Sơn

  1. MỤC LỤC Nội dung Trang 1.Mở đầu 1.2. Lý do chọn đề tài. 1.2. Mục đích nghiên cứu.         2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 2 2.1. Cơ sở lí luận                          2 2.2. Thực trạng 4 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 6 Biện pháp 1. Tìm hiểu học sinh, ổn định tổ chức lớp 6 Biện pháp 2. Khắc phục tình trạng đọc ngắc ngứ và ngắt nghỉ  6 chưa đúng Biện pháp 3. Khắc phục tình trạng đọc sai những tiếng có phụ  7 âm đầu hay nhầm lẫn s – x ; ch – tr; d – r­ gi…; tiếng có dấu  thanh hay nhầm lẫn: thanh ngã/ thanh hỏi. Biện pháp 4.  Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tùy  9 tiện. Biện pháp 5. Hướng dẫn đọc ngắt nhịp, nhịp độ đọc. 9 Biện pháp 6. Bám sát yêu cầu của bài tập đọc. 10 Biện pháp 7. Giảng từ và khai thác nghệ thuật. 11 Biện pháp 8. Giảng ý và liên hệ thực tế. 13 Biện pháp 9. Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho  14 học sinh bằng cách tổ chức trò chơi học tậ trong giờ học. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 15 3. Kết luận , kiến nghị 16 3.1. Kết luận  16 3.2. Kiến nghị 17 Tài liệu tham khảo 18
  2. 2 1. Mở đầu 1.1. Lý do chon đề tài Mục tiêu của giáo dục phổ  thông là giúp học sinh phát triển toàn diện   về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng  lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt  Nam xã hội chủ  nghĩa, xây dựng tư  cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị  cho học sinh tiếp tục học lên; phát triển khả năng tự học và học tập suốt đời   hoặc tham gia vào cuộc sống lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Giáo dục   tiểu học giúp hoc sinh hình thành những cơ  sở  ban đầu cho sự  phát triển về  đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học   sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống   hằng ngày.  Với con người, tiếng Việt là công cụ  để  giao tiếp và tư  duy. Đối với học   sinh tiểu học thì tiếng Việt càng có vai trò quan trọng hơn, vì đó là tiếng  phổ thông dùng trong giao tiếp chính thức hàng ngày của các em. Bên cạnh   đó, tiếng Việt còn có nhiệm vụ  hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ  cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ này được thể hiện ở bốn dạng   hoạt động tương  ứng với bốn kỹ  năng “nghe, nói, đọc, viết”. Dạng hoạt   động ngôn ngữ này là quá trình chuyển từ hình thức chữ viết sang lời nói có  âm thanh (ứng với hình thức đọc thành tiếng) và hình thức chữ  viết thành  các đơn vị  không có âm thanh (ứng với đọc thầm). Đây là một việc làm   quan trọng để  tạo cho các em có khả  năng sử  dụng tiếng Việt thành thạo  trong học tập và giao tiếp. Từ đó, giúp các em nói­viết đúng, chính xác, phù  hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp, đồng thời góp phần mở  mang tri thức,   rèn luyện tình yêu tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.  Tập đọc là phân môn mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ  dạy  đọc cho học sinh, nó còn có nhiệm vụ  trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho   học sinh( phát âm, từ ngữ, câu văn, đoạn văn... ), kiến thức bước đầu về văn  học ( văn xuôi, văn vần, nhân vật ...), kiến thức về đời sống, về giáo dục tình  cảm, thể chất, thẩm mĩ. Môn học này góp phần rèn luyện cho học sinh tư duy   trừu tượng, tư  duy lôgic. Giờ  tập đọc, ngoài việc rèn đọc, dẫn dắt cho học  sinh cảm thụ tốt bài văn, thấy cái hay cái đẹp của hình tượng văn học, chúng   ta còn cho học sinh tìm bố  cục để  phát triển óc phân tích, tìm đại ý để  phát  triển óc tổng hợp. Phân môn Tập đọc kết hợp chặt chẽ  với các phân môn khác của  chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn, bài thơ  chọn lọc, học sinh vừa   cảm thụ được cái hay cái đẹp, vừa học cách dùng từ chính xác, đặt câu sinh  động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Học phân môn Tập đọc, việc rèn đọc và cảm thụ  bài đọc là hai yếu   tố  không thể thiếu, hai yếu tố này có quan hệ  mật thiết với nhau, gắn bó, 
  3. 3 hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho các em tìm được giọng đọc   thích hợp cho bài đọc, từ đó các em sẽ đọc một cách hay, diễn cảm. Ngược   lại, đọc diễn cảm không tốt sẽ khó khăn việc cảm thụ bài văn. Để nâng cao chất lượng học phân môn Tập đọc cho học sinh khối 5  nói chung và cho học sinh lớp tôi nói riêng là một vấn đề vô cùng cần thiết.  Là một giáo viên Tiểu học,nhiều năm giảng dạy  lớp 5, tôi nhận thức được  rất rõ tầm quan trọng của môn tập đọc trong chương trình giáo dục . Xuất  phát từ  lòng say mê, nhiệt huyết nghề  nghiệp,  từ   thực trạng dạy và học  phân môn Tập đọc , với kinh nghiệm của bản thân, tôi xin được trình bày: “Một số  biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5  ở  Trường Tiểu học   Quảng Minh­ Thành phố Sầm Sơn”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: ­ Nhằm nâng cao chất lượng dạy­ học cho giáo viên và học sinh. ­ Giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm không chỉ  trong phạm vi một  văn bản của tiết tập đọc mà biết đọc diễn cảm bất kì một bài văn nào. ­ Biết vận dụng kiến thức, hiểu biết của mình trong giao tiếp hàng  ngày để  nói hay, nói đúng, mạnh dạn, tự  tin, bình tĩnh trước tập thể. Đóng  góp một số  kinh nghiệm nhỏ  của mình cho đồng nghiệp, cho trường trong  việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 nói riêng và cho học sinh toàn  trường nói chung, góp phần nâng cao chất lượng dạy­ học phân môn Tập đọc,  1.3. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5  ở Trường Tiểu   học Quảng Minh­ Thành phố Sầm Sơn. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra Phương pháp kiểm tra, đánh giá Phương pháp trực quan Phương pháp trò chơi  Phương pháp thu thập , nghiên cứu tài liệu  2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1. Mục tiêu của phân môn Tập đọc ở sách Tiếng Việt 5. Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh.Phân môn Tập đọc lớp 5 tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc một cách đầy đủ, toàn diện cho học sinh nhằm hoàn thiện yêu cầu cần đạt ghi trong Chương trình Tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành: Đọc rành mạch, lưu loát bài văn( khoảng 120 tiếng/ phút); đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài đọc. Cụ thể:
  4. 4 Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành  ở  các lớp dưới; tăng cường tốc độ  đọc, khả  năng đọc lướt để  chọn thông tin   nhanh; khả năng đọc diễn cảm. Phát triển kĩ năng đọc ­ hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được  một số  khái niệm như  đề  tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,... để  hiểu ý   nghĩa của bài và phát hiện một vài giá trị  nghệ  thuật trong  các bài văn, bài  thơ.Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình  thành nhân cách của con người mới. 2.1.2. Nội dung, cấu trúc phân môn Tập đọc lớp 5. Phân môn Tập đọc ở lớp 5 gồm 66 tiết/ năm, mỗi tuần có hai tiết. 40 bài   văn xuôi thuộc loại hình nghệ thuật, báo chí, khoa học, 2 vở kịch ( trích), 18 bài thơ. Các bài Tập đọc gồm các chủ  đề: " Việt Nam­ Tổ  quốc em ", " Cánh  chim hoà bình", " Con người với thiên nhiên", "Giữ  lấy màu xanh","Vì hạnh  phúc   con   người","Người   công   dân","Vì   cuộc   sống   thanh   bình","Nhớ  nguồn","Nam và nữ","Những chủ  nhân tương lai". Bài Tập đọc lớp 5 nhằm  mục đích: Tiếp tục củng cố  và nâng cao kĩ năng đọc cho HS: đọc trơn, đọc   thầm với tốc độ  nhanh hơn, nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm. Từ  đó giúp các  em hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của văn bản. Mở rộng vốn hiểu biết, bồi   dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho HS.  Các bài đọc gồm các phần: văn  bản đọc, chú giải những từ  ngữ  khó, hướng dẫn đọc( chỉ  dẫn cách đọc một   số  câu khó, đoạn khó, cách ngắt nhịp, nhấn giọng hoặc gợi ra những đặc  điểm về  nội dung, những sắc thái tình cảm được biểu hiện qua giọng đọc).  Phần tìm hiểu bài gồm những câu hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trị  nội  dung và giá trị nghệ  thuật của bài văn, bài thơ.  Ở nhiều bài có thêm yêu cầu  học thuộc lòng từng đoạn, cả bài.  2.1.3. Vị trí, vai trò của môn Tập đọc trong Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt  ở  trường phổ  thông có nhiệm vụ  hình thành năng  lực hoạt động ngôn ngữ  cho học sinh. Đọc không chỉ  là công việc giải  quyết một bộ  mã gồm hai phần chữ  viết và âm thanh, nghĩa là nó không  phải chỉ  là sự  "đánh vần" lên thành tiếng theo đúng như các ký hi ệu chữ  viết, mà đọc còn là quá trình nhận thức để có khả năng hiểu đọc những gì  đã được đọc. Tập đọc là cách học văn bản từ  đọc đúng, đọc nhanh, đọc  hiểu, đọc diễn cảm. Dạy Tập đọc chính là việc giáo viên hướng dẫn hoàn  thành 4 kĩ năng trên. Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn  ở  Tiểu   học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập, nó  cũng là công cụ để học các môn khác, nó tạo ra hứng thú và động cơ trong  học tập. Đồng thời nó tạo điều kiện để HS có khả năng tự học và tinh thần  học. Đọc là khả năng không thể thiếu được của con người. Trong thời đại  văn minh, biết đọc sẽ  giúp các em hiểu biết nhiều hơn, hướng các em tới  cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết tư duy.  Để bài dạy đạt kết quả cao, cần quan tâm đến cách tổ chức và lôgíc các nội
  5. 5 dung bài trong giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn. Vai trò của giáo viên trong mỗi tiết học chỉ là người tổ chức, dẫn dắt học sinh tự tìm ra tri thức. Ngoài ra, để phần tìm hiểu bài tiến hành được tốt thì cần phải có yếu tố như: cơ sở vật chất đầy đủ, tranh ảnh minh hoạ cho bài tập phải đẹp, phong phú và cuối cùng là trình độ giáo viên phải đáp ứng được yêu cầu của môn học.  Muốn rèn đọc diễn cảm tốt, trước hết trong các giờ Tập đọc, HS phải  nắm được nội dung, phong cách văn bản của bài đọc. Mức độ  đọc diễn cảm   tỉ lệ thuận với mức độ hiểu bài của học sinh. Qua hệ thống từ ngữ, kiểu câu,   bố cục, thể loại văn bản ... các em cảm thụ sâu sắc văn bản( bài văn, bài thơ)   từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm văn bản nghệ thuật, đọc   đúng ngữ điệu các văn bản có mục đích thông báo khác. Đọc diễn cảm( đọc   hay) là biết thể  hiện kĩ thuật đọc phù hợp với từng bài như: ngắt nhịp đúng  câu văn, câu thơ, thể hiện được nội dung bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui,   buồn, trầm, bổng, gợi cảm, nhẹ nhàng, thiết tha hay mạnh mẽ, dứt khoát, tốc  độ  chậm rãi, khoan thai hay dồn dập... Ngoài ra, cần biết thể hiện đúng các   kiểu câu như: câu hỏi, câu kể, câu cảm... Biết phân biệt giọng đọc của các  nhân vật, của người dẫn chuyện trong bài. Học sinh bước đầu làm chủ được   giọng đọc sao cho vừa đúng về ngữ điệu, về tốc độ, cao độ, trường  độ và âm  sắc; vừa thể hiện cảm nhận riêng của từng cá nhân nhằm diễn tả đúng nội dung   đọc. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN. Những việc đã làm được: Nhà trường đã tổ chức coi, chấm thi KTĐK một cách nghiêm túc, đánh giá  một cách chính xác chất lượng các môn học nói chung và phân môn Tập đọc nói  riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tập đọc trong nhà  trường. Dưới sự chỉ đạo của nhà trường các tổ khối đã tổ chức cho giáo viên  của tổ  mình thi đọc hay một cách có hiệu quả, nhằm củng cố, nâng cao   hiểu biết về tầm quan trọng của phân môn Tập đọc nói chung và đọc diễn  cảm nói riêng. Từ  việc làm này đã giúp cho giáo viên phần nào nắm vững   hơn phương pháp dạy phân môn Tập đọc. Mỗi giáo viên đều tìm tòi, học hỏi, đổi mới phương pháp giảng dạy   phân môn Tập đọc và đã chú trọng đến việc đọc diễn cảm của học sinh,  đặc biệt chú trọng hơn về  vấn đề  này đối với HS lớp 5; đã khắc phục  được tình trạng đọc ê a... ngắc ngứ, ngắt nghỉ chưa đúng và phát âm sai ở  nhiều học sinh; đã tổ  chức cho các em thi đọc diễn cảm trong nhóm và  trước lớp, giúp các em học tốt hơn phân môn Tập đọc nói riêng, môn tiếng  Việt nói chung. Hầu hết các em học sinh đều nêu cao ý thức rèn đọc cho  mình, đặc biệt là đọc diễn cảm. Nhiều HS biết đọc diễn cảm, đọc hay,  ham mê học tiếng Việt. Chất lượng môn Tập đọc ngày một được nâng lên  một cách rõ rệt. 
  6. 6 Những việc chưa làm được: Qua thực tế  giảng dạy  ở  lớp 5, tại trường Tiểu học Quảng Minh, tôi  nhận thấy việc dạy của giáo viên và việc học của HS có một số  vấn đề  như sau:  Về phía giáo viên: Đối với đa số giáo viên, Tập đọc không phải là phân   môn khó dạy. Hầu hết trong số  họ  đều có nhiều cố  gắng trong việc tìm tòi  phương pháp, nghiên cứu nội dung, học hỏi kinh nghiệm, đặc biệt có đổi mới   phương pháp giảng dạy“ Lấy học sinh làm trung tâm” song kết quả cho thấy   học sinh chưa đọc được hay( đọc diễn cảm) bài đọc. Bởi trong khi dạy, giáo  viên thường mới chỉ coi trọng và sửa cho học sinh vấn đề đọc to, rõ ràng, lưu   loát chứ chưa quan tâm nhiều đến kĩ thuật đọc, giọng đọc, cách đọc diễn cảm   của học sinh hay việc đọc mẫu của giáo viên. Giáo viên dạy Tập đọc như  dạy Văn trước đây. Nhìn chung phương pháp còn mang tính chất hưởng thụ  và áp đặt( về cách hiểu nội dung bài, cách đọc bài). Giáo viên giảng giải quá  nhiều về  các từ  khó, về  ý nghĩa của bài mà xem nhẹ  phần luyện đọc, đặc  biệt là luyện đọc diễn cảm. Bên cạnh đó, do khách quan, một số  giáo viên  không có chất giọng tốt để  đọc hay bài đọc. Giáo viên tiểu học lại dạy quá   nhiều môn trong một buổi học nên việc đầu tư thời gian để luyện đọc trước   khi lên lớp còn có phần hạn chế...   Về  phía học sinh: Học sinh không quan tâm đến phương pháp đọc  của mình, do đó các em rất yếu về năng lực di chuyển kĩ năng đọc đã được  hình thành ở các lớp trước, các bài trước để  giải quyết những vấn đề  đặt  ra trong bài mới. Các em đã đọc thành tiếng, phát âm tương đối tốt ,song  các em còn gặp khó khăn khi phát âm các tiếng từ  có âm đầu   s/x,  ch/tr;  r/d/gi, chưa phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã (lỗi vùng miền). Khả năng  đọc để  thể  hiện nội dung bài đọc thì còn thấp. Khi đọc, nhiều em chưa  hiểu ý của từng đoạn, từng bài, các em ngắt nghỉ câu văn, ngắt nhịp câu thơ  chưa chính xác, vẫn còn hiện tượng đọc ê a..., ngắc ngứ, phát âm sai, chưa   thể  hiện được nội dung và tình cảm bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui,  buồn, trầm, bổng, gợi cảm... Kĩ năng đọc lướt để  tìm hiểu nội dung bài  chưa tốt  ở  đa số  các em.  Ảnh hưởng của phương ngữ: tình trạng phát âm  lẫn giữa các tiếng có thanh ngã và thanh hỏi, các tiếng có nguyên âm đôi...  còn nặng nề. Do đặc điểm vùng miền, kinh tế ở gia đình chưa cao nên các   em chưa được tạo điều kiện tốt để  học tập. Qua điều tra khảo sát chất   lượng đọc của học sinh ngay từ  đầu năm học, tôi thấy lượng học sinh đã  biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít, nhất là đối với những học sinh có  lực học trung bình hay yếu. Cụ thể điều tra chất lượng đọc của HS hai lớp 5 đầu năm học này có  số liệu cụ thể như sau: Lớp 5A đầu năm học 2020­ 2021 Sĩ  Học sinh đọc diễn  Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh chưa đọc to, 
  7. 7 số cảm lưu loát   34 2 HS = 5,9 % 25 HS =73,5 % 7 HS = 20,6% ­ Lớp 5B đầu năm học 2020 ­ 2021  Sỉ  Học sinh chưa đọc to,  Học sinh đọc diễn cảm Học sinh đọc to, lưu loát số lưu loát 3 3 HS = 8,3% 26 HS = 72,2% 7 HS = 19,5 % 6 Sau khi khảo sát thực trạng, tôi tiến hành phân tích, thâm nhập thực  tế cuộc sống của các em, đồng thời trao đổi với giáo viên chủ  nhiệm năm   trước và tìm ra nguyên nhân dẫn đến tồn nêu trên là: ­ Nhìn chung: Tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm của hai lớp còn quá thấp.  Tỉ lệ học sinh đọc to, lưu loát gần như ngang nhau. Tỉ lệ đoc chưa đọc to,  lưu loát còn cao. ­Do học sinh chủ  yếu các em người nông thôn, chủ  yếu làm nghề  nông. Một số gia đình chưa quan tâm tới việc học tập của con cái, phó mặc   mọi việc cho nhà trường. Thời gian học của các em chủ  yếu  ở  trường,  nhiều em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ  hơi, chưa biết nhấn giọng,   lên giọng, hạ  giọng những từ  ngữ  cần thiết. Khả  năng cảm thụ  văn thơ  của các em và vốn hiểu biết về từ ngữ còn có những hạn chế, các em chưa  hiểu rõ tác dụng của việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong thơ. Trong khi đó việc chữa lỗi cho học sinh giáo viên chưa được tiến  hành một cách thường xuyên triệt để  trong tất cả  các giờ  học, giáo viên  thường sửa các lỗi mà sách giáo viên gợi ý chứ chưa sữa được lỗi mà thực   tế học sinh mình mắc phải .Các em có đọc đúng, đọc nhanh, hiểu được nội  dung ý nghĩa bài học thì các em mới từng bước tiến hành đọc diễn cảm tốt.  Mặt khác thời gian dành cho phần luyện đọc diễn cảm trong một tiết tập   đọc lại ít (5 đến 7 phút ) không đủ để giáo viên hướng dẫn cụ thể cho học  sinh luyện đọc diễn cảm ( từ ngữ, câu ,đoạn, cả bài ) trong một bài văn cụ  thể  đã hết giờ. Vì vậy, số  lượng các em được đọc ít và chỉ  chú trọng vaò  các em đọc hoàn thành tốt với hình thức đọc lại bài còn học sinh chưa hoàn   thành hầu như không có. Đứng trước thực trạng đó, tôi luôn trăn trở, không ngừng tìm tòi, học  hỏi ,tham khảo tài liệu, kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp và mạnh   dạn đưa ra các biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học  phần luyện đọc diễn cảm­ phân môn tập đọc cho học sinh lớp 5.  2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:  Để  giúp học sinh lớp mình đọc diễn cảm tốt, tôi đã tiến hành và thực   hiện các biện pháp sau:
  8. 8 Biện pháp 1: Tìm hiểu học sinh, ổn định tổ chức lớp:     Sau khi được phân công chuyên môn, việc làm đầu tiên là tôi cho lớp   ổn định mọi nề  nếp tổ  chức. Sau đó đi sâu, đi sát để  nắm được từng đối   tượng HS về lực học, về hoàn cảnh gia đình, đặc biệt là về khả năng đọc,  kĩ năng đọc vàphân loại học sinh theo 3 đối tượmg: *Đối tượng 1: Học sinh đọc chậm nhỏ. *Đối tượng 2: Học sinh biết đọc to, lưu loát. *Đối tượng 3: Học sinh biết đọc diễn cảm. Căn  cứ  vào  đó, tôi   đã tiến hành sắp xếp  chỗ  ngồi cho học sinh,   những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt. Trong cùng một  bàn có đủ các đối tượng học sinh để các em có điều kiện giúp đỡ nhau, rèn  luyện bổ sung cho nhau qua quá trình luyện đọc theo cặp đôi và theo nhóm   bàn để các em cùng tiến bộ. Công việc tiếp theo, tôi giới thiệu với học sinh về  cấu trúc chương  trình phân môn để các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học kỳ và  trong cả  năm học. Đặc biệt tôi đã nêu tầm quan trọng, yêu cầu kỹ  năng cơ  bản về  việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Hướng dẫn học sinh lưu lại những   câu, đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ hay trong sổ tay của mình, giao trách  nhiệm cho một số em đọc khá, đọc tốt thường xuyên kèm cặp giúp đỡ những  em đọc chưa tốt ở mọi bài học, mọi môn học chứ không chỉ dừng lại ở phần   đọc theo cặp đôi hay đọc theo nhóm, đọc phân vai...  Biện pháp 2: Khắc phục tình trạng đọc ngắc ngứ và ngắt nghỉ chưa  đúng. Như chúng ta đã biết, chữ Tiếng Việt của chúng ta viết rời ra từng âm  tiết chứ không phải viết liền từng từ như chữ một số nước khác (Anh, Nga,  Pháp..) nhưng khi đọc ta lại không đọc rời rạc từng âm tiết một mà phải đọc   theo từng cụm từ. Ví dụ: Trong vườn, lắc lư những chùm quả  xoan vàng lịm không trông  thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Nếu tính về  mặt âm tiết thì câu văn trên có 24 âm tiết, 19 từ, 7 cụm từ. Khi  học sinh tập đọc không để các em đọc rời rạc từng âm tiết như kiểu đọc nhát  gừng. Nếu để  học sinh đọc theo từng từ  thì vẫn chưa diễn đạt được ý của  câu văn nên tôi phải hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ. Trong vườn,/ lắc lư /những chùm quả xoan/ vàng lịm/ không trông thấy   cuống, /như những chuỗi tràng hạt bồ đề/ treo lơ lửng. Cách hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ của tôi như sau: + Tôi viết câu văn đó ra bảng phụ( đã chuẩn bị từ trước). + Vì giai đoạn đầu lớp còn đọc yếu, do vậy tôi đọc mẫu theo cách nghỉ  như trên sao cho thật chuẩn. Sau đó tôi cho học sinh phát hiện những chỗ ngắt   nghỉ  của cô, nếu đúng tôi sẽ  dùng phấn màu gạch chéo sau những từ  cần  ngắt. Nếu học sinh chưa phát hiện ra tôi có thể đọc mẫu lần thứ 2 những câu  đó để  học sinh có thể  nhận ra. Đồng thời tôi luôn củng cố  kỹ  năng đọc khi  
  9. 9 gặp dấu chấm( phải nghỉ hơi), gặp dấu phẩy phải ngắt hơi. Khi đã nhận ra  cách ngắt nghỉ  sau cụm từ, sau dấu phẩy, sau dấu chấm tôi gọi một số  học   sinh khá đọc, sau đó mới gọi những em hay đọc  ngắc ngứ. Có thể là một lần,  cũng có thể  là hai lần và phải tiến hành trong một thời gian. Tôi nghĩ hiện  tượng đọc ngắc ngứ  và ngắt nghỉ  chưa đúng  ở  các em sẽ  không còn xảy ra  nữa. + Vậy khi học sinh đọc những câu văn dài, học sinh đã biết ngắt hơi  sau cụm nhưng ngắt hơi trong thời gian bao lâu thì cũng là điều cần phải  hướng dẫn các em. Thông thường, tôi hướng dẫn các em ngắt hơi sau cụm từ  bằng thời gian ngắt nghỉ  khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy và đương  nhiên thời gian đó phải ít hơn thời gian nghỉ  khi đọc gặp dấu chấm. Tránh  tình trạng học sinh ngắt nghỉ quá lâu làm cho người nghe cảm thấy rời rạc. Số học sinh mắc lỗi đọc ngắc ngứ, ngắt nghỉ chưa đúng hoặc đọc liến  thoắng không nhiều nên chỉ sau 3 tuần kiên trì rèn đọc cho các em( gọi cho các   em đọc nhiều hơn, sửa cho các em kỹ  hơn) thì loại lỗi này không còn trong   lớp tôi nữa, các em đọc đã khá trôi chảy, lưu loát. Biện pháp 3: Khắc phục tình trạng đọc sai những tiếng có phụ  âm đầu  haynhầm lẫn s – x ; ch – tr; d – r­ gi…; tiếng có dấu thanh hay nhầm lẫn:   thanh ngã/ thanh hỏi. Những tiếng, những từ  này thường là những từ  khó đối với HS. Cho  nên, trong bước rèn đọc đúng cho HS, tôi cho các em đọc thầm toàn bài để tự  phát hiện ra những tiếng, từ mà HS cảm thấy khó có trong bài. Trong thực tế,  nhiều khi giáo viên quá phụ  thuộc vào sách hướng dẫn mà ép học sinh phải  chỉ ra những từ khó giống như trong sách nêu ra là không nên bởi những từ đó  với HS có thể  chưa phải là khó. Song từ, tiếng khó đọc mà tự  các em phát  hiện ra có thể  là rất nhiều. Do vậy, giáo viên cần kết hợp với việc quan sát  theo dõi của mình trong tất cả  các giờ  học để  thấy HS lớp mình hay nhầm   lẫn ở những cặp phụ âm nào, vần nào, tiếng nào để tập trung rèn cho các em   những tiếng khó, từ khó ở các loại đó. Ví dụ:  Ở  lớp tôi ngay từ  khi mới nhận lớp, qua theo dõi trong các tiết  học và trong khi giao tiếp với học sinh tôi thấy các em còn hay nhầm lẫn khi phát   âm: Thanh ngã/ Thanh  Các lỗi Nguyên âm đôi s/ x ch/ tr d/ r/ gi hỏi Tỷ lệ mắc  25% 65% 20% 35% 70% lỗi Tôi thấy đây không chỉ là những lỗi của các em khi đọc, khi nói mà cả  nhân dân địa phương nơi đây cũng hay nhầm lẫn như vậy. Do vậy, trong một  giờ học, một tuần học, thậm chí cả một tháng ta cũng không thể sửa ngay cho   các em tất cả các loại lỗi. Những lỗi mà tỷ lệ học sinh mắc ít hơn và cũng dễ 
  10. 10 sửa hơn tôi đặt ra cho mình kế  hoạch sẽ  tiến hành rèn cho các em liên tục   trong nhiều tuần đầu (Đó là những cặp phụ âm s/x, ch/ tr, d/ r/ gi ). Còn những  lỗi khó sửa hơn (lỗi thanh ngã/ thanh hỏi) tỷ lệ HS mắc lỗi nhiều hơn, tôi đặt  ra cho mình kế hoạch rèn cho các em liên tục trong 3 tháng nhưng sau đó phải  thường xuyên rèn trong khi nói,  khi đọc và khi viết, có như thế mới trở thành  thói quen nói đúng, viết đúng được. ­ Cách tiến hành rèn đọc đúng cho học sinh của tôi như sau: + Mục đích phần rèn đọc của bài “Phong cảnh Đền Hùng”( TV 5, tập 2,  tr.68 ) tôi sẽ tập trung rèn HS đọc đúng những tiếng có phụ âm đầu s/x.  + Sau khi nghe HS  đọc tốt đọc mẫu lần 1, tôi yêu cầu cả lớp đọc thầm  toàn bài( kết hợp với việc dặn học sinh chuẩn bị bài ở  nhà) tìm ra những từ,   tiếng khó đọc có trong bài. sau đó cho HS nêu ra, tôi lần lượt ghi lên bảng. Ví dụ: HS tìm được các từ khó: sừng sững, Sóc Sơn, phù sa, soi gương,  xa xa, trong xanh .... Tôi ghi các từ đó lên bảng và hỏi: Em thấy những từ đó khó đọc ở phần  nào?(HS:phụ âm đầu s và x). Tôi dùng phấn xanh mạc lại những tiếng có âm  đầu là s, phấn đỏ mạc lại những âm đầu là x Đối với những âm này, với HS của tôi, tôi phải hướng dẫn học các cách   phát âm thật cụ thể, chi tiết. + Tôi hướng dẫn các em cách phát âm phụ âm s/nnhư sau: Khi phát âm âm vị  s ta để  đầu lưỡi cong lên hàm trên. Lúc này miệng  hơi mở. Bật nhanh đầu lưỡi lên luồng hơi từ họng đi qua hai lỗ mũi tạo thành   âm s ( ét sờ). Phát âm âm vị  x:  Để  đầu lưỡi sát chân răng hàm trên. Lúc này miệng  hơi mở. Cuốn nhanh đầu lưỡi lên; luồng hơi từ họng đi qua hai mép lưỡi tạo   thành âm x.(x xì) Giáo viên làm mẫu hai lần, sau đó cho HS khá phát âm, gọi học sinh hay   nhầm lẫn về phụ âm này tập phát âm. Lưu ý nên cho các em phát âm cá nhân  để dễ phát hiện những em phát âm sai để sửa;  Nếu chỉ  rèn như v ậy thì cũng chưa đủ  mà việc luyện đọc từ  khó cần  phải được đặt trong văn cảnh, trong môi trường ngôn ngữ  thì HS đọc những   từ  đó mới đúng hơn. Bởi nhiều khi đọc riêng từ  HS có thể  đọc đúng nhưng   khi đặt từ  đó vào trong câu văn, đoạn văn thì chưa chắc các em đã đọc đúng.  Chính vì thế, sau khi rèn phát âm luyện đọc từ  khó có chứa âm khó, tôi lại   phải yêu cầu học sinh tìm những câu văn, câu thơ  thậm chí đoạn văn, đoạn  thơ  có chứa từ  khó đó cho học sinh đọc vì mục đích của rèn đọc đúng là rèn   phát âm đúng để đọc đúng văn bản. Cách thức rèn cho HS đọc đúng các tiếng có thanh ngã, thanh hỏi cũng   tương tự như trên. Rèn cho HS thói quen đọc đúng những tiếng có nguyên âm   đôi, các phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn là một việc làm không đơn giản.  Bản thân một mình phân môn Tập đọc cũng khó có thể  giải quyết được. Do  vậy, theo tôi trong tất cả các giờ học và trong bất kỳ hoàn cảnh giao tiếp nào 
  11. 11 tôi và lực lượng nòng cốt của tôi gồm 20% HS không mắc lỗi sẽ giúp các em   sửa ngay. Có như th ế  mới giải quyết được vấn đề. Với những cặp phụ  âm  còn lại, tôi cũng tiến hành rèn cho HS lần lượt theo từng bước như v ậy. Đến  nay, năm học đã tiến hành được gần 3 tháng thì mức độ  sai những tiếng có   phụ  âm hay nhầm lẫn, những tiếng có thanh hỏi, thanh ngã và những tiếng có  nguyên âm đôi như đã nêu ra ở trên đã giảm rõ rệt. Nguyên  Các lỗi s/x ch/ tr d/ r/ gi Thanh ngã/ Thanh hỏi âm đôi Tỷ lệ mắc  15 5% 10% 15% 20% lỗi % Từ kinh nghiệm của những năm học trước tôi tin tưởng rằng trong hơn hai  tháng của học kỳ 2 tôi sẽ giải quyết triệt để các lỗi còn lại. Biện pháp 4: Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tùy tiện. Theo tôi muốn khắc phục tình trạng lên xuống giọng tuỳ  tiện thì giáo  viên phải hướng dẫn thật tốt cách đọc các kiểu câu: ­ Câu kể: Ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối  câu. ­ Câu hỏi:Ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phải lên giọng ở cuối   câu. ­ Câu kể có dấu chấm lửng: khi đọc phải kéo dài giọng. ­ Câu cảm, cầu cầu khiến: Ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần   phải lên giọng ở cuối câu. Ví dụ: Trong bài"Tác phẩm của Si­ le và tên phát­ xít”(TV5, tập 1, tr.58)  tôi hướng dẫn học sinh cách đọc các loại câu này như sau: Chép đoạn văn đó   lên bảng phụ. Hỏi học sinh trong đoạn văn đó có những câu văn nào là câu  hỏi, câu kể,câu cảm, câu cầu khiến và cách đọc của từng loại câu này, giáo  viên dùng. phấn mầu ghi ký hiệu lên giọng , xuống giọng  ở cuối mỗi loại câu. Lão thích nhà văn Đức hơn lời chào của người Đức chăng?  ( câu hỏi).  Sao ngài lại nói thế? Si­ le là nhà văn quốc tế  chứ!  ( câu cảm)­ Ông  già điềm đạm trả lời. ( câu kể) Sau đó tôi hoặc học sinh khá đọc mẫu theo cách đọc đó rồi cho học sinh   nhất là những em yếu kém luyện đọc với số lượng từ 5 – 6 em. Việc làm này  phải được tiến hành thường xuyên , có như th ế  mới hình thành được thói  quen đọc đúng. Sau khoảng thời gian 1 tháng số học sinh mắc lỗi này đã giảm  chỉ còn 3/34 em. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp, nhịp độ đọc. Một số người lầm tưởng hướng dẫn đọc ngắt nhịp trong thơ là hướng  dẫn đọc diễn cảm. Không phải như v ậy, mà đó mới chỉ  là cách đọc đúng  trong thơ mà thôi. Vậy muốn hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ đúng thì 
  12. 12 giáo viên phải nắm vững cách đọc các thể  thơ. Các bài thơ  trong sách Tiếng  Việt 5 thường được viết theo thể  thơ  tự  do. Vì vậy, ngắt nhịp thơ  còn phụ  thuộc vào cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng   HS cảm nhận theo cách khai thác được giá trị nội dung và giá trị thẩm mĩ cao nhất. Trong bài"Hành trình của bầy ong ", học sinh thường ngắt nhịp như  sau: Chắt trong / vị ngọt mùi hương Lặng thầm thay những / con đường ong bay. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc nhấn giọng và ngắt nhịp như sau:                                   Chắt trong vị ngọt / mùi hương                                  Lặng thầm thay / những con đường ong bay. Do vậy, tôi muốn nói khi hướng dẫn HS ngắt nhịp thơ  thì giáo viên cần   phải cho học sinh nhận biết bài thơ  đó được viết  ở  thể  thơ  nào? Cách ngắt   nhịp chung của toàn bài ra sao? Song cũng cần phải phát hiện những câu,  những đoạn có cách ngắt nhịp khác biệt trong bài để hướng dẫn HS. Do vậy,   ngắt nhịp thơ không đúng câu thơ sẽ trở nên tối nghĩa, mất hết ý vị còn đâu có  thể  cảm nhận được nội  dung của bài. Khi đọc văn bản văn xuôi cũng cần   chú ý tới ngắt nhịp. Đọc bài Mùa thảo quả( TV5, tập 1), chú ý nghỉ hơi ngắn  ở  những câu ngắn( Gió thơm. Cây cỏ  thơm. Đấttrời thơm.) nhằm thể  hiện   nhịp thở  của người đang hít vào để  cảm nhận mùi thơm của thảo quả  lan   trong không gian. Không ch ỉ quan tâm đến việc ngắt nh ịp trong khi đọ c mà  còn th ể hi ện  nhịp độ đọc. Đọc nhanh hay chậm, vừa phải là do nôị dung bài văn, bài thơ quyết   định. Trong một bài có thể  đọc nhanh, chậm, vừa phải tuỳ  thuộc theo nội   dung từng đoạn như  khi dạy bài:“ Kì diệu rừng xanh”( TV5­ tập 1). Cần  hướng dẫn học sinh đọc giọng khoan thai, thể  hiện thái độ  ngỡ  ngàng,  ngưỡng mộ  cảnh vật  ở  đoạn 1; đọc nhanh hơn  ở  những câu miêu tả  hình  ảnh thoắt  ẩn, thoắt hiện của muông thú  ở  đoạn 2; đọc thong thả ở những  câu cuối miêu tả vẻ thơ mộng của cánh rừng trong sắc vàng mênh mông ở đoạn  3. HS phải biết thay đổi tốc độ đọc như vậy tức là đã cảm nhận được vẻ đẹp kì   thú của rừng xanh.  Với câu văn dài, tốc độ đọc giãn ra, làm cho người đọc, người nghe có thời   gian suy nghĩ:“ Cô bé ngây thơ tin vào truyền thuyết nói rằng nếu gấpđủ một nghìn  con sếu bằng giấy treo quanh phòng, em sẽ khỏi bệnh. Nhưng Xa­ da­ cô chết khi   em mới gấp được 644 con”( Những con sếu bằng giấy­ TV5­ tập 1). Khi gặp những câu văn có dấu chấm lửng cần hướng dẫn học sinh nghỉ hơi   dài: “ Để có một ngôi làng như mọi ngôi làng ở trên đất liền, rồi sẽ có chợ, có trường  học, có nghĩa trang... /” ( Lập làng giữ biển ­ TV5, tập 2).  Làm tốt khâu rèn đọc đúng tức là ta đã tạo ra cơ sở ban đầu để giúp HS hiểu   đúng nội dung bài tập đọc và như vậy mới có thể hướng dẫn HS  biết đọc diễm   cảm
  13. 13 Biện pháp 6:  Bám sát yêu cầu của bài tập đọc. Yêu cầu của bài tập đọc phải được xác định từ khi soạn bài ở nhà. VD: + Đọc trôi chảy, lưu loát bài thơ, đúng nhịp của thể  thơ  tự do. Biết đọc  diễn cảm bài thơ thể hiện niềm xúc động của tác giả khi nghe tiếng đàn trong  đêm trăng, ngắm sự kì vĩ của công trình thuỷ điện sông Đà, mơ tưởng về một   tương lai tốt đẹp khi công trình hoàn thành. + Hiểu ý nghĩa bài thơ: Ca ngợi vẻ kì vĩ của công trình, sức mạnh của  những người đang chinh phục dòng sông và sự  gắn bó, hoà quyện giữa con  người với thiên nhiên. + Gd HS yêu thiên nhiên, trân trọng những người đã chinh phục được thiên nhiên.  Bám sát yêu cầu của bài tập đọc, trong 3 yêu cầu  ấy phải đượctoát ra   từ  bản thân bài tập đọc và GV phải vận dụng vào thực tế lớp mình giảng dạy  thì việc bám sát yêu cầu của bài tập đọc mới thực sự hiệu quả. Biện pháp 7: Giảng từ và khai thác nghệ thuật. ­ Giảng từ: trong bài tập đọc thường có nhiều từ. Vậy ta cần phải   giảng  những từ nào? + Qua kinh nghiệm về giảng dạy phân môn Tập đọc tôi thấy có thể  chia  những từ để giảng làm 3 loại: loại từ khó, loại từ gắn với chủ đề đang học  và loại từ chìa khoá (từ trung tâm).  Từ khó có thể là từ địa phương được tác giả đưa vào bài, là loại từ Hán  Việt, là danh từ riêng. Loại từ này thường có trong phần chú giải cho nên sau  khi đọc mẫu xong tôi cho học sinh đọc phần chú giải để học sinh hiểu ngay  được những từ này khi bắt đầu tiếp xúc với bài tập đọc. Từ  chủ đề: Trong mỗi chủ đề  tập đọc có một số  từ  ngữ  mà giáo viên  cần lưu ý bởi đó là những từ làm toát lên chủ đề. Từ chủ đề cũng có khi là từ  khó. Giáo viên có thể  kết hợp giảng các từ  chủ  đề  với các từ  khó hoặc với  các từ trung tâm trong quá trình khai thác. Từ trung tâm: Đây là những từ có sức nặng, giáo viên cần khai thác để  làm toát lên nội dung bài học. Ta chia những từ  cần giảng làm 3 loại như v ậy để  dễ  phân biệt còn   trong thực tế nhiều khi từ khó cũng là từ chủ đề hoặc từ trung tâm. + Vậy khi giảng từ ta có thể dùng những phương pháp nào?  Những phương pháp phổ  biến là phương pháp trực quan, liên hệ, so sánh,  phương pháp định nghĩa, giảng giải. Phương pháp trực quan Khi dùng phương pháp trực quan, tôi áp dụng bằng nhiều hình thức:   Trực quan bằng giọng nói, nét mặt, ánh mắt, động tác, hình mẫu, tranh  ảnh   vật thực.
  14. 14 VD: Trong bài “Người ăn xin”, khi giảng về từ nhìn chằm chằm tôi có thể  dùng ánh mắt của mình nhìn một cách chăm chú, lâu không chớp mắt và có ý dò  hỏi? Trong bài tập đọc khác tôi có thể dùng môi để giảng từ mấp máy, dùng  cách. Điđể giảng từ rón rén, dùng tư thế để  giảng từ  lom khom, dùng giọng  nói để giảng từ sang sảng, oang oang, dùng chỉ màu để giảng từ sặc sỡ, dùng  hình mẫu để giảng từ nhà sàn, nhà trệt. Phương pháp trực quan là phương pháp rất tốt để học sinh có thể hiểu   và nhớ lâu nghĩa của từ nhưng phương pháp này chỉ dùng để giảng từ cụ thể.   Khi gặp những từ trừu tượng như sắc lệnh, tổng tuyển cử, hữu nghị, khiêm  tốn thì rất khó dùng phương pháp này. Do vậy, ngoài phương pháp này tôi còn   sử dụng nhiều phương pháp khác. Phương pháp định nghĩa, giảng giải. Ở lớp 5 nhận thức lý tính tổng quát của học sinh đã phát triển nên trong  khi giảng từ cho học sinh hiểu tôi vẫn thường dùng phương pháp định nghĩa  hay giảng giải xen lẫn các phương pháp khác. Ví dụ: Khi giảng từ quyến rũ tôi dùng phương pháp giảng giải ­ Quyến   rũ có nghĩa là có một sức lôi cuốn mạnh mẽ làm cho quyến luyến không muốn  rời xa. Mãnh liệt, day dứt ý nói thôi thúc, day dứt, dai dẳng và mạnh mẽ. Khi giảng về từ truyền thống tôi dùng phương pháp định nghĩa. Truyền thống là những phẩm chất tốt đẹp hoặc những điều tốt đẹp  được giữ gìn, phát triển và truyền từ đời này sang đời khác. Ví dụ: Dân tộc ta có truyền thống yêu nước nồng nàn. Phương pháp so sánh: Khi giảng về từ lạnh tê tái, tôi nêu lên một loạt các khái niệm lạnh lẽo,  lạnh buốt, lạnh giá để học sinh thấy được lạnh tê tái ở mức độ cao hơn. Mặt  khác, tôi cho học sinh tìm từ trái nghĩa với từ lạnh tê tái là nóng hầm hập để  học sinh càng hiểu rõ hơn về ý nghĩa của từ này. Khai thác nghệ thuật: Theo tôi bài tập đọc là một thể  thống nhất giữa hai mặt nội dung và   nghệ thuật, do vậy, tôi nghĩ chúng ta phải thông qua việc khai thác nghệ thuật  để  làm toát lên nội dung tư tưởng. Tôi thấy trong khi dạy tập đọc vốn kiến   thức văn học mà học sinh tích luỹ được chưa nhiều. Có đ/c hỏi: “Khai thác nghệ  thuật của một bài tập đọc là khai thác những  gì?” Theo tôi tuỳ từng bài mà chúng ta phải xem bài tập đọc ấy có những nét  gì nổi bật về nghệ thuật cần khai thác. VD: Trong bài Đất nước, cần giúp HS hiểu tác giả  đã sử  dụng biện   pháp nhân hoá( Trời thu thay áo mới­ Trong biếc nói cười thiếttha), lặp từ ngữ
  15. 15 ( đây, của chúng ta), liệt kê các hình ảnh( Những cánh đồng thơm mát­ Những  ngã đường bát ngát­ Những dòng sông đỏ nặngphù sa)... nhằm tả vẻ đẹp của mùa  thu thắng lợi,đồng thời thể hiện niềm tự hào về đất nước tự do. Hoặc trong bài Mùa thảo quả  tôi tập trung khai thác điệp từ  thơm và  việc sử dụng một loạt câu văn ngắn xen lẫn với câu văn dài để  làm nổi bật   mùi thơm đặc bệt của thảo quả. VD: Gió tây lướt thướt bay, qua rừng, quyến hương thảo quả  đi, rải  theo triền núi, đưa hương thảo quả  ngọt lựng, thơm nồng vào các thôn xóm  Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả  về, hương thơm đậm, ủ ấp trong từng nếp áo nếp khăn. Tuy nhiên vẫn phải kết hợp xen kẽ các hình thức nghệ thuật khác nhau   như: Khai thác nghệ  thuật dùng từ, khai thác nghệ  thuật viết câu văn, khai   thác nghệ  thuật xây dựng bố  cục bài văn… Có như th ế, phần khai thác nội   dung bài mới đầy đủ. Song, nói như vậy cũng chưa thật đầy đủ nếu ta không  nhắc đến biện pháp khai thác biện pháp nghệ thuật tu từ. Qua thực tế nhiều   năm giảng dạy tôi thấy các biện pháp tu từ ở tiểu học cần tập trung khai thác  là: Biện pháp so sánh, điệp từ, nhân hoá….nếu khai thác tốt các biện pháp tu từ này   thì giúp ích rất nhiều trong việc hướng dẫn HS cảm thụ bài văn, học tốt phân môn  tập làm văn. VD: Trong bài Cửa sông, tôi giúp học sinh hiểu phép nhân hoá  ở  khổ  thơ cuối( giáp mặt, chẳng dứt, nhớ) giúp tác giả nói được "tấm lòng" của cửa  sông không quên cội nguồn, đòng thời nói lên tình cảm thuỷ  chung của con   người Việt Nam. Biện pháp 8: Giảng ý và liên hệ thực tế. Giảng ý: Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi khẳng định một điều: giảng từ và giảng ý thường phải gắn chặt với nhau. Ta phải giảng từ, khai thác hình ảnh   để  làm toát lên ý của bài hay nói cách khác ta phải khai thác nghệ  thuật để  làm toát lên nội dung. VD: Trong bài “ Hạt gạo làng ta” tác giả có viết: Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm  Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi hôm nay.  Hỏi: Trong khổ thơ trên tác giả nêu lên hạt gạo quê  thơm ngon là nhờ  đâu?( câu hỏi về nội dung) ( nhờ có vị phù sa, có hương sen thơm, có lời mẹ hát)  Hỏi: Trong khổ thơ đó từ nào được lặp lại nhiều lần? Lặp lại nhưvậy  để nhằm mục đích gì?( Từ có được lặp lại nhiều lần, để  nhấn mạnh hương   vị thơm ngon của hạt gạo quê hương)
  16. 16 VD: Cho học sinh đọc khổ thơ cuối, hỏi câu cuối “ Hạt vàng làng ta” ý nói  gì? Câu hỏi nặng về giảng ý để toát lên nội dung bài. (Hạt gạo rất quý vì được làm ra bởi công sức của biết bao người với   bao thử thách gay go quyết liệt. Hạt gạo xứng đáng được ví như hạt vàng.) Tóm lại trong quá trình giảng dạy những câu hỏi giảng ý thường gắn  với những câu hỏi giảng từ và câu hỏi khai thác hình ảnh thành một hệ thống câu  hỏi dẫn dắt học sinh thâm nhập vào nội dung của bài để cảm nhận được cái   hay, cái đẹp của bài văn. Từ  đó học trò mới có cảm xúc thực sự  và mới đọc   hay bài tập đọc được. Trước những việc làm nêu trên, ngoài ra trong giờ  tập đọc, tôi thường  xuyên quan tâm đến những em rụt rè, nhút nhát, kịp thời khuyến khích động  viên để  các em có hứng thú đọc tốt hơn. Đối với những em đọc nhỏ, chậm,  ngoài việc hướng dẫn chung đọc diễn cảm cho cả lớp, tôi đã có kế hoạch bồi   dưỡng ngay từ  đầu như: thường xuyên uốn nắn việc phát âm tiếng có vần  khó, hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, từng ngữ. Với những câu văn dài tôi  cho học sinh này dùng bút chì vạch sẵn những chỗ  ngắt nhịp vào sách giáo  khoa, giúp các em ngắt nhịp đúng chỗ, cứ  như  vậy uốn nắn dần để  các em  đọc tốt dần lên. Đặc biệt trong giờ  Tập đọc, tôi luôn tạo cho lớp học một  không khí thoải mái để  các em phấn khởi học tập. Trong việc rèn kỹ  năng  đọc diễn cảm cho học sinh tôi không sử  dụng sự  gò ép, áp đặt, mà thường   phươ ng pháp gợi m ở  để  phát huy tính chủ  độ ng, tích cự c  xuyên sử  dụng  và sự  sáng tạo  ở  mỗi học sinh, t ừ  đó các em có điề u kiện để  thể  hiệ n   mình. Biện pháp 9: Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học  sinhbằng cách tổ chức trò chơi học tập trong giờ học. Để  tạo hứng thú luyện đọc của học sinh, giáo viên có thể  tổ  chức các  trò chơi học tập. Thông qua các trò chơi kích thích hứng thú đọc; rèn tư  duy  linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng tình  cảm tốt đẹp. Trò chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc  diễn cảm (HTL). Tuỳ thời gian và điều kiện cho phép, giáo viên lựa chọn trò   chơi học tập thích hợp để tổ chức cho học sinh tham gia. Ví dụ: Thi đọc nối   tiếp từng đoạn (theo nhóm, tổ), đọc "truyền điện" thi tìm nhanh­ đọc đúng;  nhìn một từ  đọc cả  câu (hoặc nhìn một câu đọc cả  đoạn), nghe đọc đoạn ­  đoán tên bài; thi đọc truyện theo vai, thả thơ.... Dưới đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi luyện đọc như sau: a) Thi đọc tiếp sức: * Chuẩn bị: 1 đồng hồ, SGK, giáo viên dự kiến số nhóm tham gia chơi. * Tiến hành:
  17. 17 ­ Giáo viên yêu cầu, hướng dẫn cách chơi. ­ Giáo viên quy định các nhóm có số lượng học sinh bằng nhau. ­ Từng nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang mỗi em cầm một cuốn   sách giáo khoa, đã mở sẵn trong đó có bài văn sẽ thi đọc. + Giáo viên hô lệnh: "Bắt đầu, em số  1 (đầu hàng bên phải hoặc bên  trái) đọc câu thứ  nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng câu thứ  nhất, em số  2  (cạnh số  1) mới được đọc tiếp câu số  2..Cứ  như  vậy cho đến em cuối cùng  của nhóm. Nếu chưa hết bài, câu tiếp theo lại đến lượt em số  1, em số  2   đọc... cho đến hết bài văn thì dừng lại ­ Giáo viên tính và ghi bảng thời gian   đọc của mỗi nhóm. ­ Học sinh sẽ  bị  trừ  điểm nếu đọc sai, lẫn hay thừa thiếu tiếng trong   câu hoặc đọc câu sau khi người trước chưa đọc sau, đọc vượt quá một câu  theo quy định. ­ Giáo viên cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian của mỗi nhóm cho   điểm nhóm "đọc tiếp sức" mỗi câu văn đọc đúng cho 1 điểm, không cho điểm   các trường hợp vi  phạm. Giáo viên cùng cả  lớp nhận xét, chọn và tuyên  dương nhóm đọc tiếp sức hay nhất. * Lưu ý: ở tiết tập đọc 1 bài thơ, giáo viên nên cho học sinh đọc 2 dòng  hoặc 1 câu lục bát, nếu là tiết Tập đọc ­ Học thuộc lòng, giáo viên cho thi  tiếp sức theo cách trên nhưng học sinh không nhìn sách giáo khoa. b) Thả thơ: * Chuẩn bị: Giáo viên viết vào phiếu câu thơ  đầu (hoặc giữa)  ở  mỗi  khổ  thơ hoặc 1 ­ 2 từ đầu của mỗi câu thơ. Ví dụ  bài: Hạt gạo làng ta. Giáo  viên làm các phiếu như sau:                         Phiếu 1: Hạt gạo làng ta ………. ngọt bùi đắng cay                         Phiếu 2: Hạt gạo làng ta ……….. mẹ em xuống cấy                         Phiếu 3: Hạt gạo làng ta ………. thơm hào giao thông                         Phiếu 4: Hạt gạo làng ta ………... quang trành quết đất. * Tiến hành: Giáo viên hướng dẫn cách chơi và nêu yêu cầu. ­ Mỗi lượt chơi gồm 2 nhóm và số người bằng số phiếu mỗi nhóm cử  nhóm trưởng, 2 nhóm trưởng bốc thăm để giành quyền "thả thơ" trước. ­ Mỗi em trong nhóm cầm một tờ  phiếu (giữ  kín). Giáo viên hô "bắt  đầu" nhóm được thả thơ trước cử 1 người thả thơ ra một tờ phiếu cho 1 bạn   nhóm kia. Bạn nhận được tờ  phiếu phải đọc thuộc cả  khổ  thơ, hoặc cả câu  thơ lục bát có câu, từ ghi trên phiếu.Nếu đọc đúng được tính 1 điểm. ­ Giáo viên tính số điểm của nhóm đọc thuộc thơ, đổi nhóm chơi tương   tự trên, giáo viên tính điểm nhóm thứ hai. c) Đọc thơ "truyền điện" * Chuẩn bị: thời điểm chơi cuối tiết Tập đọc ­ HTL hoặc tiết ôn tập   HTL. Học sinh 2 nhóm ngồi quay mặt vào nhau. * Tiến hành: ­ Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi.
  18. 18 ­ 2 nhóm bắt thăm (hoặc oản tù tì) để giành quyền đọc trước. + Đại diện nhóm đọc trước là "A" đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ rồi   chỉ định thật nhanh "truyền điện" 1 bạn bất kì (B).Bạn được chỉ định đọc tiếp   khổ thơ thứ hai của bài.Nếu đọc thuộc được thì chỉ định của 1 bạn nhóm (S)   đọc tiếp khổ thơ thứ 3...Cứ như vậy cho đến hết bài. Ví dụ: Bài Sắc màu em yêu Học sinh A1: Em yêu màu đỏ …… khăn quàng đội viên Học sinh B1: Em yêu màu vàng ….. nắng trời rực rỡ Học sinh A2: Em yêu màu trắng ….. mái tóc của bà Học sinh B2: Em yêu màu đen ……… màn đêm yên tĩnh Học sinh A3 : Em yêu màu xanh ……. bầu trời cao vợi Học sinh B3: Em yêu màu tím ……. nét mực chữ em ….. Tiếp tục như vậy cho hết bài. Trường hợp học sinh được "truyền điện"  chưa thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ  hô từ  1 đến 5, nếu không đọc được   phải đứng yên tại chỗ  bị  "điện giật", lúc đó học sinh A1 chỉ  tiếp học sinh   B2...Nhóm nào có nhiều người phải đứng bị "điện giật" là nhóm thua cuộc. Như  vậy, ta thấy tổ  chức trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh   hào hứng say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh ham mê học hơn. 2.4. Hiệu quả  của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục ,  với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường ­ Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên cho   học sinh lớp mình. Tôi đã tiến hành khảo sát lớp tôi đang dạy và lớp 5B trong  từng giai đoạn và có kết quả như sau:  + Lớp 5A( Lớp do tôi chủ nhiệm) Giai   đoạn  HS   đọc   nhỏ,  Sĩ số HS đọc diễn cảm HS đọc to, lưu loát ạ chậm Đầu năm 34 2 HS = 5,9 % 25 HS =73,5 % 7 HS = 20,6% Giữa kì 2 34 8 HS   = 23,5% 23 HS = 67,7 % 3 HS = 8,8% Cuối kì 2 34 15 HS = 44,1% 19 HS = 55,9% 0 HS = 0 % + Lớp 5B  HS   đọc   nhỏ,  Giai đoạn Sĩ số HS đọc diễn cảm HS đọc to, lưu loát chậm Đầu năm 36 7  HS   =  19,5  3 HS = 8,3% 26 HS = 72,2% % Giữa kì 2 36 6 HS = 16.7 % 25 HS = 69,4 % 5 HS = 13,9 % Cuối kì 2 36 8 HS = 22,3 % 26 HS = 72,2 % 2 HS = 5,5 % So sánh đối chứng:  Qua kết quả  tổng hợp tôi đã nêu trên, tôi rất phấn khởi vì thấy trong   giờ Tập đọc, học sinh không những đã say mê học tập, lớp học rất sôi nổi mà   kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Nó không chỉ  nâng lên theo từng giai đoạn khảo sát mà nó còn có sự tiến bộ hơn giữa lớp áp  
  19. 19 dụng kinh nghiệm này vào rèn đọc diễn cảm cho học sinh so với lớp không   đưa kinh nghiệm này vào giảng dạy.  Ở lần khảo sát đầu tiên để điều tra thực trạng trong giai đoạn đầu năm học:  Tỉ lệ học sinh đọc nhỏ và chậm ở lớp 5A cao hơn lớp 5B. Tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm ở lớp 5A thấp hơn lớp 5B. Đến giữa học kì 2 và cuối kì 2 tỉ lệ này có thay đổi rõ rệt. Lớp 5A tỉ lệ  học sinh đọc nhỏ và chậm còn ít hơn lớp 5B và tỉ  lệ học sinh có kĩ năng đọc  diễn cảm đã cao hơn lớp 5B. Dẫu rằng kết quả trên là chưa cao nhưng nó đã  đánh dấu bước đầu sự thành công của tôi trong quá trình giảng dạy để nghiên  cứu, tìm tòi ra những biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình. 3. Kết luận,kiến nghị: 3.1. Kết luận: Tập đọc là một môn không khó nhưng cũng không dễ  dạy. Cái khó đó  do chủ quan người dạy và cũng do khách quan của bộ môn tạo nên. Phía chủ  quan người dạy phải có kiến thức rộng về  ngữ  văn, phải có trình độ  nhất   định về  tư  tưởng, tình cảm và phải nắm chắc phương pháp bộ  môn. Phía   khách quan, Tập đọc là một phân môn khó dạy vì tính chất phong phú của nó.  Nếu chỉ chú ý tính khoa học của bài như phân tích ngữ âm, câu, từ thì bài dạy  sẽ khô khan. Nếu khai thác tính nghệ thuật mà không dựa cơ sở ngôn ngữ thì  cũng dễ tràn lan. Do vậy, tôi thiết nghĩ muốn dạy tốt phân môn tập đọc chúng   ta cần phải không ngừng học tập để  nâng cao trình độ  nhận thức của bản   thân, nắm vững phương pháp giảng dạy bộ  môn, kiên trì luyện cho mình kỹ  năng đọc tốt cùng với tâm huyết của mình dành cho nghề . Thông qua thực tế trong giảng dạy, tôi đi đến kết luận: Muốn rèn đọc  diễn cảm cho học sinh tốt thì điều kiện quan trọng nhất là người thầy. Bởi  thầy là người hướng dẫn các em cách đọc đúng đọc hay. Vì vậy thầy phải  hướng dẫn thật cụ thể chu đáo từng chữ, từng ngữ... với từng đối tượng học  sinh. Đặc biệt là đọc mẫu bởi thầy có vai trò quan trọng trong việc đọc diễn   cảm của trò. Muốn đạt được điều đó đòi hỏi thầy phải là người có tâm thực  sự   quan   tâm   đến   trò,   nhiệt   tình   trong   phương   pháp   soạn   giảng,   trau   dồi   nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm để  nâng cao chất lượng giảng dạy các môn  học, đặc biệt là phân môn Tập đọc. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm   cho HS lớp 5 trong giờ Tập đọc. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các vị   độc  giả. 3.2. Kiến nghị: Để có kết quả rèn đọc diễn cảm cho học sinh cao hơn, tôi mạn phép đề  xuất một vài ý kiến với các cấp chỉ đạo như sau: Thường xuyên dự  giờ của giáo viên để  nắm vững phương pháp giảng  dạy, từ  đó khắc phục kịp thời những tồn tại  để  thống nhất phương pháp  giảng dạy đặc biệt là việc rèn đọc diễn cảm. Khơi dậy phong trào thi ngâm 
  20. 20 thơ,   kể   chuyện,   đọc   diễn   cảm   cho   học   sinh,   giáo   viên   trong   khối,   trong  trường. Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ  cho giáo viên  ở  các   môn học nhất là phân môn Tập đọc. Có đầy đủ  đồ  dùng dạy học cho giáo  viên  nhất là đồ dùng dạy phân môn Tập đọc. Đề nghị cấp phòng sau khi chấm sáng kiến kinh nghiệm nên phổ biến những  kinh nghiệm giảng dạy có chất lượng để  giáo viên học tập kinh nghiệm   giảng dạy của đồng nghiệp. Sau mỗi đợt thi giáo viên giỏi chúng tôi rất mong   ban chỉ đạo hội thi có những thống nhất  một cách cụ thể chi tiết về phương pháp  giảng dạy các phân môn.  Tổ chức thường xuyên hội thi đọc hay với GV và HS để tăng cường ý thức   luyện đọc hay ở từng giáo viên và học sinh. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG  Thanh Hóa, ngày 15  tháng 4 năm 2021 ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của  mình viết, không sao chép nội dung  của người khác.                  Nguyễn Thị Huệ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
62=>2