intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán không điển hình cho học sinh lớp 4A

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

23
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến chỉ ra các biện pháp cụ thể nhằm rèn kĩ năng giải toán không điển hình cho học sinh lớp 4A nói riêng và lớp 4 nói chung thông qua việc phân tích, so sánh cách giải của hai dạng toán (dạng điển hình và không điển hình), từ đó chỉ ra được điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng để tìm cách giải đúng thích hợp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán không điển hình cho học sinh lớp 4A

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Sáng kiến cải tiến kĩ thuật: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI  TOÁN KHÔNG ĐIỂN HÌNH CHO HỌC SINH  LỚP 4A.
  2.  Lệ Thủy, ngày 21 tháng 5 năm 2014 CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Sáng kiến cải tiến kĩ thuật: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIẢI  TOÁN KHÔNG ĐIỂN HÌNH CHO HỌC SINH  LỚP 4A. Họ và tên: Nguyễn Văn Dũng                                  Chức vụ: Giáo viên           Đơn vị: Trường Tiểu học Mai Thủy
  3.  Lệ Thủy, ngày 21tháng 5 năm 2014 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn sáng kiến      Cùng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển về lĩnh vực giáo dục cần   phải được chú trọng và quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc đổi phương pháp dạy  học để  nâng cao chất lượng dạy học đã được Bộ  Giáo dục và Đào tạo chỉ  thị  cho Sở  Giáo dục các tỉnh thực hiện. Trong nhiều năm qua, Phòng Giáo dục và   Đào tạo Lệ  Thủy đã coi trọng và triển khai đổi phương pháp dạy học. Song   không phải địa phương nào, trường nào, giáo viên nào cũng thực hiện tốt vấn đề  này. Mỗi môn học  ở  tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển   những cơ sở  ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong   các môn học  ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị  trí hết sức   quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng  trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các  môn học khác  ở  Tiểu học và học tập tiếp môn Toán  ở  Trung học cơ  sở. Với  việc dạy học môn Toán nói riêng, nếu giáo viên thực hiện tốt các phương pháp  dạy học phát huy tính tích cực, chủ  động và sáng tạo của học sinh sẽ  giúp các  em phát triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và các thao tác tư duy quan trọng  như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể  hóa, lập 
  4. luận có căn cứ, ….Trên thực tế, nhiều giáo viên ở nhiều nơi, do chưa vận dụng   thành công các phương pháp dạy học tích cực, học sinh còn bị  đặt  ở  thế  thụ  động lĩnh hội tri thức nên hiệu quả dạy học chưa khả quan. Cụ thể là học sinh   chưa hình thành hoặc chưa thành thạo kĩ năng giải toán, trong đó có kĩ năng giải   toán có lời văn, nhất là các bài toán có lời văn không điển hình. Hiện nay, việc  đổi mới phương pháp dạy học là nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng   tạo của người học. Đổi mới phương pháp dạy học là vừa kế  thừa và phát huy  những mặt tích cực của những phương pháp dạy học quen thuộc, vừa áp dụng  hiệu quả  những phương pháp dạy học mới. Việc lựa chọn phương pháp dạy  học phải căn cứ vào từng loại bài học, từng nội dung dạy học  ở từng lớp, phải   căn cứ vào điều kiện, phương tiện dạy học ở từng vùng, từng trường.       Việc dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung và rèn kĩ năng giải toán có lời   văn cho học sinh nói riêng đã được nhiều Nhà khoa học, Nhà giáo dục quan tâm   nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu và đưa ra cách  giải chung cho các bài toán có lời văn điển hình. Bên cạnh đó, nhiều giáo viên  trong quá trình dạy học chưa thực sự chú trọng việc rèn kĩ năng giải các bài toán  có lời văn không điển hình cho học sinh.   Mặc dầu, dạy giải các bài toán có lời   văn (điển hình và không điển hình) có vị trí quan trọng đặc biệt và chiếm khoảng  thời gian tương đối lớn trong nhiều tiết học cũng như trong toàn bộ chương trình   môn Toán ở Tiểu học. Mỗi bài toán có lời văn thường là một tình huống có vấn   đề của thực tiễn nếu nội dung thực tế của bài toán  gần gũi với đời sống và sản   xuất  ở  địa phương. Vì vậy, đề  tài tập trung nghiên cứu và đưa ra một số  biện  pháp rèn kĩ năng giải toán không điển hình. Bởi việc rèn kĩ năng giải toán có lời  văn (đặc biệt là kĩ năng giải toán có lời văn không điển hình) cho học sinh là   điều rất quan trọng và hết sức cần thiết. Vấn đề đặt ra là phải rèn được cho học   sinh: biết cách giải và cách trình bày bài giải với các bài toán có lời văn (dạng   không điển hình). Nắm chắc, thực hiện đúng quy trình bài toán. Biết giải một số 
  5. bài toán bằng các cách khác nhau. Và thông qua hoạt động giải toán để phát triển   đúng mức một số khả năng trí tuệ và các thao tác tư duy quan trọng như so sánh,   phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ  thể  hóa, lập luận có căn  cứ, …. Để giải quyết vấn đề này, tôi đã mạnh dạn lựa chọn và vận dụng: “Một  số biện pháp rèn kĩ năng giải toán không điển hình cho học sinh lớp 4 A” mà  tôi đang trực tiếp giảng dạy nhằm khẳng định những việc đã làm được tại lớp,  đồng thời trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học  ở  trường   tiểu học. 1.2. Điểm mới của sáng kiến      Sáng kiến chỉ ra các biện pháp cụ thể nhằm rèn kĩ năng giải toán không điển  hình cho học sinh lớp 4A nói riêng và lớp 4 nói chung thông qua việc phân tích,  so sánh cách giải của hai dạng toán (dạng điển hình và không điển hình), từ  đó  chỉ  ra được điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng để  tìm cách giải đúng  thích hợp. Với mong muốn góp phần nhỏ  bé công sức của mình vào sự  nghiệp  đào tạo thế hệ trẻ, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói chung   và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng ở Tiểu học, cụ thể hoá định hướng đổi   mới phương pháp dạy học  ở Nhà trường tiểu học. Đồng thời qua đó để  đúc rút  những kinh nghiệm thiết thực cho bản thân trong công tác giảng dạy sau này. 1.3. Phạm vi áp dụng sáng kiến      Do điều kiện và thời gian không cho phép nên sáng kiến chỉ tập trung nghiên  cứu một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán không điển hình cho học sinh lớp 4 ở  trường tiểu học mà tôi đang công tác.
  6. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH DẠY HỌC RÈN KĨ NĂNG GIẢI TOÁN  CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 4. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG. 2.1.1. Thực trạng tình hình dạy học rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học  sinh lớp 4.    Để tìm hiểu thực trạng dạy học rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh  lớp 4, tôi đã tiến hành khảo sát, điều tra trên cả hai đối tượng là giáo viên và học   sinh của trường tôi đang công tác. 2.1.1.1. Về phía học sinh     Năm học 2013 ­ 2014, tôi đã được nhà trường và chuyên môn phân công chủ  nhiệm và giảng dạy lớp 4A. Ngay từ giữa học kì I, tôi đã tiến hành khảo sát chất 
  7. lượng kĩ năng giải toán có lời văn đối với 24 học sinh lớp 4A mà tôi chủ nhiệm  qua 2 bài kiểm tra : ­ Bài khảo sát chất lượng số 1 (dạng điển hình, đề ra của nhà trường, xem phụ  lục) ­ Bài khảo sát chất lượng số 2 (dạng không điển hình, đề ra khảo sát thực trạng,   xem phụ lục) và đã thu được một số kết quả như sau:  Bảng 1 : Thống kê điểm bài khảo sát chất lượng số 1        Điể Tổn m 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 g số  Lớp hs 4A 0 0 0 1 2 3 6 4 3 5 24 * Điểm trung bình bài kiểm tra : ĐTB = 7.6 Bảng 2 : Thống kê tỉ lệ phần trăm điểm khảo sát chất lượng số 1        Xếp loại Giỏi Khá Trung bình Yếu Ghi  (9, 10) (7, 8) (5, 6) (1, 2, 3, 4) chú Lớp SL % SL % SL % SL % 4A 8 33.3 10 41.7 5 20.8 1 4.2 Nhận xét :     Nhìn vào bảng thống kê 1 cho thấy: Điểm của học sinh qua bài  kiểm tra khá cao. Điểm trung bình là 7.6. Điều này cho thấy chất lượng dạy học  kĩ năng giải toán điển hình rất tốt.     Từ bảng thống kê 2 chúng tôi nhận thấy: Số học sinh yếu kém chỉ chiếm một  tỉ lệ thấp 4.2%. Số học sinh trung bình chiếm tỉ lệ  20.8%. Bên cạnh đó, tỉ lệ học  sinh khá giỏi khá cao: 75%. Kết quả này phần nào phản ánh hiệu quả dạy học kĩ  năng giải toán điển hình rất khả quan. Bảng 3 : Thống kê điểm bài khảo sát chất lượng số 2        Điể Tổn m 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 g số  Lớp hs 4A 0 0 1 2 3 4 4 4 3 3 24 * Điểm trung bình bài kiểm tra : ĐTB = 7.0 Bảng 4 : Thống kê tỉ lệ phần trăm điểm bài khảo sát chất lượng số 2
  8.        Xếp loại Giỏi Khá Trung bình Yếu Ghi  (9, 10) (7, 8) (5, 6) (1, 2, 3, 4) chú Lớp SL % SL % SL % SL % 4A 6 25.0 8 33.3 7 29.2 3 12.5 Nhận xét :    Nhìn vào bảng thống kê 3 cho thấy: Điểm của học sinh qua bài khảo sát chất  lượng số 2 thấp hơn bài khảo sát chất lượng số 1. Điểm trung bình là 7.0. Điều  này cho thấy chất lượng dạy học kĩ năng giải toán không điển hình chưa tốt.    Từ bảng thống kê 4 chúng tôi nhận thấy: Số học sinh yếu kém chiếm tỉ lệ cao  hơn so với bài khảo sát chất lượng số  1 ( tăng 8.3%). Số  học sinh trung bình  chiếm tỉ lệ 29.2% so với bài bài khảo sát chất lượng số 1 (tăng 8.4%). Bên cạnh  đó, tỉ  lệ  học sinh khá giỏi lại giảm so với bài khảo sát chất lượng số  1 (giảm  16.7%). Kết quả  này phần nào phản ánh hiệu quả  dạy học kĩ năng giải toán  không điển hình còn hạn chế.      Nhận xét chung: Sở dĩ kết quả bài khảo sát chất lượng số 2 thấp là do một  số  học sinh chưa hiểu được ý nghĩa của cụm từ  “trung bình cộng”, chưa nắm   chắc cách giải toán. Trung bình cộng của tuổi chị và tuổi em là 18 tuổi, tức tổng  số  tuổi của chị  và em sẽ  là 18 x 2 = 36 (tuổi). Nhiều em đã hiểu máy móc nên   xem tổng số  tuổi của hai chị em vẫn là 18 tuổi. Một số  khác tính được tổng số  tuổi của hai chị em là 36 tuổi nhưng lại tính sai số tuổi của chị hoặc số tuổi của   em (lấy 18 tuổi trừ đi tuổi của em để tính tuổi của chị và ngược lại). Mặt khác,  một số em mắc một số sai sót về cách trình bày, diễn đạt lời giải và phép tính do   chưa nắm được bản chất và yêu cầu của bài toán. 2.1.1.2. Về phía giáo viên     Tôi đã tiến hành điều tra thực trạng dạy học rèn kĩ năng giải toán có lời văn   cho học sinh qua mẫu phiếu dành cho đối tượng giáo viên. Số  lượng điều tra là  6/6 giáo viên khối 4, 5 của trường tôi. Tôi đã thu được một số kết quả như sau: Bảng 5 : Vai trò của kĩ năng giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 4, 5 Vai trò của kĩ năng giải toán có lời  Số lượng GV Tỉ lệ (%) văn đối với hs lớp 4, 5
  9. Rất quan trọng 5 83,3 Quan trọng 1 16,7 Không quan trọng 0 0    Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy : Không có giáo viên nào cho rằng vai trò  của kĩ năng giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 4, 5 là không quan trọng (tỉ  lệ 0%). Điều này cho thấy, hầu hết các giáo viên đã ý thức được tầm quan trọng   của kĩ năng này. Trong đó, tỉ lệ giáo viên xác định vai trò rất quan trọng (83,3%)  và quan trọng (16,7%). Việc xác định hay không xác định được tầm quan trọng  của kĩ năng này sẽ phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dạy học môn Toán nói  chung và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng. Qua đó cũng để khẳng định rằng :   vai trò của kĩ năng giải toán có lời văn đối với học sinh lớp 4, 5 là rất quan trọng,   ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học của môn học. Bảng 6 : Sự quan tâm của GV đối với việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn   cho HS lớp 4, 5 Mức độ quan tâm của GV Số lượng GV Tỉ lệ (%) Rất quan tâm 5 83,3 Quan tâm 1 16,7 ít quan tâm 0 0 Không quan tâm 0 0     Từ bảng thống kê trên, tôi nhận thấy : Hầu hết Gv đều quan tâm đến việc rèn kĩ   năng giải toán có lời văn cho HS. Tỉ lệ 83,3% GV rất quan tâm là một tỉ lệ tương   đối cao. Mức độ quan tâm của GV sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn nội dung và  phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. 2.1.2. Nguyên nhân thực trạng 2.1.2.1. Học sinh ­ Khả năng nhận thức của học sinh còn hạn chế. ­ Học sinh thường không đọc kỹ  đề  bài, thấy đề  dài quá hoặc khó hiểu là nản  chí không suy nghĩ hoặc thấy na ná đề bài mình đã từng làm thì làm theo cách đã   làm.
  10. ­ Kĩ năng nhận dạng toán còn hạn chế, các em chưa thấy được mối liên hệ giữa  bài toán điển hình và không điển hình. ­ Tư duy của học sinh Tiểu học còn mang tính cụ  thể. Khả  năng khái quát hóa,  trừu tượng hóa còn non, chưa biết dựa vào các điểm tựa để nhận dạng toán. ­ Một số em chưa nắm chắc cách giải các bài toán điển hình nên khi gặp các bài   toán không điển hình thì lúng túng trong việc tìm cách giải. ­ Học sinh chưa hình thành được thói quen huy động vốn kiến thức đã học có  liên quan để giải quyết bài toán. ­ Học sinh ít tập trung trong lúc giáo viên giảng bài, chưa biết dựa vào các điểm  tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng dàn ý tài liệu cần ghi nhớ.  ­ Các em còn ít được luyện tập ­ thực hành thêm ở nhà cũng như ở lớp. 2.1.2.2. Giáo viên ­ Một số giáo viên chưa khai thác triệt để nội dung bài dạy hoặc không sáng tạo   khi dạy, cứ rập khuôn theo phương pháp của sách giáo viên. ­ Khi hướng dẫn học sinh giải toán, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh phân tích   kĩ đề  bài nhằm giúp các em có kĩ năng nhận dạng toán, thấy được mối liên hệ  giữa các dữ kiện của bài toán hoặc chưa đưa ra các gợi ý dưới dạng “mở” cho   học sinh lựa chọn để tìm các kiến thức liên quan hoặc cách giải thích hợp. ­ Giáo viên chưa hình thành được thói quen tìm tòi cách giải toán và huy động   vốn kiến thức đã học có liên quan để giải quyết bài toán cho học sinh. ­ Chưa thực sự chú trọng rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh (chưa quan   tâm hướng dẫn học sinh cách giải và trình bày bài giải). ­ Hiệu quả của phương pháp giảng dạy còn chưa cao, chưa thu hút lôi cuốn học  sinh vào bài học. ­ Giáo viên chưa có các biện pháp hữu hiệu để kiểm soát việc học của sinh học   ở nhà nhằm giúp các em ôn tập, củng cố kiến thức đã học ở trên lớp. 2.1.3. Nhận xét chung    Cùng với môn Tiếng Việt, vị  trí của môn Toán  ở  Tiểu học là rất quan trọng.  Nhưng thực tế, chất lượng dạy học môn Toán nói chung và kĩ năng giải toán có 
  11. lời văn nói riêng chưa cao, chưa ổn định ở thế vững chắc. Đối với việc giải toán  có lời văn thì học sinh cần nắm chắc cách giải của từng dạng toán và phải thực   hành, luyện tập nhiều. Hơn nữa, do đặc điểm của học sinh tiểu học là “mau   nhớ, mau quên” cho nên cần phải hình thành kĩ năng và thói quen cho các em  trong suốt quá trình dạy học. Vai trò của việc rèn kĩ năng giải toán cho học sinh   hết sức quan trọng trong việc phát triển tư  duy trẻ. Học tốt môn Toán sẽ  góp   phần giúp học sinh học tốt các phân môn và môn học khác  ở  Tiểu học và học  tiếp môn Toán ở Trung học cơ sở. 2.2.   MỘT   SỐ   BIỆN   PHÁP   RÈN   KĨ   NĂNG  GIẢI   TOÁN   KHÔNG   ĐIỂN  HÌNH CHO HỌC SINH LỚP 4A.      Từ  thực trạng nêu trên, trong năm học vừa qua, tôi đã mạnh dạn vận dụng  một số  biện pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn (dạng không điển hình) cho  học sinh lớp tôi dưới đây: 2.2.1. Biện pháp 1: Hình thành thói quen nhận diện đặc điểm dạng toán và  phân tích đề bài để tìm hiểu nội dung bài toán dạng không điển hình.    Bất kì một đề toán nào, việc giúp học sinh hiểu và nắm vững yêu cầu của đề  bài là rất quan trọng. Đây là định hướng đầu tiên để học sinh hệ thống lại trong   trí nhớ của mình dạng toán đã học hay chưa học. Từ đó, xác định được công việc  cần làm. Tức rèn cho các em có thói quen và kĩ năng nhận diện dạng toán cũng  như kĩ năng phân tích đề bài để hiểu nội dung bài toán.      Việc tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc bài toán  (dù bài toán cho dưới dạng lời văn hoàn chỉnh, hoặc bằng dạng tóm tắt, sơ  đồ).  Học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu rõ đề toán cho biết gì? cho biết điều kiện gì? bài   toán hỏi cái gì? Khi đọc bài toán, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được nội dung   và ý nghĩa của một số từ, thuật ngữ quan trọng chỉ rõ tình huống toán học được   diễn đạt theo ngôn ngữ  thông thường, chẳng hạn “kém”, “nhiều hơn”, “ít hơn”,  “gấp”, …Sau đó, học sinh “thuật lại” vắn tắt bài toán mà không cần đọc lại  nguyên văn bài đó.
  12.      Việc làm này phải được tiến hành thường xuyên đối với cả  lớp và với một  số  đối tượng học sinh cần quan tâm  trong kế  hoạch chủ  nhiệm của giáo viên  trước khi giải bài toán.      Ví dụ bài toán 1: Một cửa hàng tuần đầu bán được 319 m vải, tuần sau bán  được nhiều hơn tuần đầu 76m vải. Hỏi trong hai tuần đó, trung bình mỗi ngày  cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải, biết rằng cửa hàng mở  cửa tất cả  các  ngày trong tuần? (SGK Toán 4, trang 164).       Với bài toán này, học sinh dễ dàng nhận ra dạng toán về  tìm số  trung bình  cộng. Tuy nhiên, đây không phải là bài toán điển hình của dạng toán này. Nếu   không hướng dẫn học sinh phân tích kĩ đề  bài, nhiều em sẽ  nhầm lẫn. Điểm  mấu chốt  ở  đây là giáo viên phải giúp học sinh hiểu được thuật ngữ  “nhiều   hơn”, “trung bình” và nhận ra yêu cầu bài toán là tính xem trung bình mỗi ngày  cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải? chứ  không phải là   mỗi tuần  cửa hàng  bán được bao nhiêu mét vải. Vấn đề  đặt ra không phải đối với học sinh cả  lớp   mà chỉ những học sinh chưa hiểu được yêu cầu bài toán.      Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung đề bài bằng hệ thống  các câu hỏi như sau: + Bài toán này thuộc dạng toán gì đã học? (dạng toán tìm số trung bình cộng) +Bài toán đã cho biết gì? (biết một cửa hàng tuần đầu bán được 319 m vải, tuần   sau bán được nhiều hơn tuần đầu 76m vải) + Bài toán hỏi gì? (Hỏi trong hai tuần đó, trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được  bao nhiêu mét vải, biết rằng cửa hàng mở cửa tất cả các ngày trong tuần?) + Bài toán yêu cầu tính trung bình số  vải cửa hàng bán trong 2 tuần, tức là bao   nhiêu ngày? (14 ngày) + Yêu cầu học sinh “thuật lại” vắn tắt bài toán bằng lời theo hiểu biết của  mình.      Ví dụ bài toán 2: Một thửa ruộng có chu vi 530m, chiều rộng kém chiều dài  47m. Tính diện tích của thửa ruộng. (SKG Toán 4, trang 175)      Đây là bài toán không điển hình của dạng toán tìm hai số khi biết tổng và  hiệu của hai số đó. Điều quan trọng khi hướng dẫn học sinh phân tích đề bài, 
  13. giáo viên phải giúp học sinh hiểu được: ý nghĩa của từ “chu vi” trong bài toán?  (bằng hai lần tổng số đo chiều dài và chiều rộng), người ta cho chu vi để làm gì?  (để tính nửa chu vi và nửa chu vi chính là tổng số đo chiều dài và chiều rộng) và  thuật ngữ “kém” (dùng để chỉ 47m chính là hiệu số đo của chiều dài và chiều  rộng). Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung đề bài bằng hệ  thống các câu hỏi tương tự nêu trên.      Việc xác định hay không xác định được tầm quan trọng của việc nhận dạng  toán và phân tích đề  bài để  tìm hiểu nội dung bài toán sẽ   ảnh hưởng đến chất  lượng kĩ năng giải toán của học sinh. Do đó, giáo viên cần xác định đây là việc  làm thường xuyên và liên tục đối với học sinh về  dạng toán cần cung cấp cho   các em. 2.2.2. Biện pháp 2: Rèn cho học sinh thói quen chuyển từ dạng toán không  điển hình sang dạng toán điển hình đã học ;  kết hợp phân tích, so sánh chỉ  ra sự giống nhau và khác nhau về cách giải của hai dạng toán.      Đây là việc làm cần thiết để giúp học sinh xác định được mối liên quan giữa   hai dạng toán điển hình và không điển hình. Thực chất của biện pháp này là giúp   học sinh đặt lại đề  toán từ  đề  toán đã cho. Qua đó, học sinh thấy được điểm   giống nhau và khác nhau của hai bài toán (dạng toán) này. Thực chất dạng toán  không điển hình là dạng toán điển hình nhưng khác hình thức và có yếu tố “ẩn”  trong đề bài.        Sau khi học sinh xác lập được những yếu tố  liên quan giữa hai dạng toán,  giáo viên hướng dẫn học sinh tìm tòi cách giải nhằm chỉ  ra sự  giống nhau và  khác nhau về lời giải và phép tính của hai dạng toán. Hoạt động tìm tòi cách giải  bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ  kiện, điều kiện và câu hỏi của bài   toán nhằm xác lập mối liên hệ  giữa chúng và tìm được các phép tính số  học  thích hợp.      Với từng bài toán, giáo viên nên hướng dẫn học sinh theo các bước sau: + Cho học sinh minh họa bài toán bằng tóm tắt đề  toán, dùng sơ  đồ  hoặc lập  luận
  14. + Yêu cầu học sinh lập kế  hoạch giải toán nhằm xác định trình tự  giải quyết,  thực hiện các phép tính số  học. Giáo viên có thể  lựa chọn một trong hai hình  thức sau: đi từ  câu hỏi của bài toán đến các số  liệu, hoặc đi từ  số  liệu đến câu   hỏi của bài toán.       Bằng hệ thống câu hỏi định hướng mang tính gợi mở, giáo viên giúp học sinh   hệ thống các kiến thức có liên quan đến vấn đề cần giải quyết của bài toán.      Trở lại bài toán ví dụ 1 nêu trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đặt lại  các đề toán sau để đưa chúng về dạng điển hình đã học: * Bài toán 1:  Một cửa hàng trong 7 ngày đầu bán được 319 m vải, 7 ngày sau   bán được nhiều hơn 7 ngày đầu 76m vải. Hỏi trung bình mỗi ngày cửa hàng bán   được bao nhiêu mét vải? * Bài toán 2: Một cửa hàng tuần đầu bán được 319 m vải, tuần sau bán được   nhiều hơn tuần đầu 76m vải. Hỏi  trung bình mỗi tuần cửa hàng bán được bao   nhiêu mét vải?      Sau khi học sinh đặt được hai đề toán nói trên, giáo viên hướng dẫn học sinh   tìm lời giải và phép tính của từng bài toán, so sánh để  rút ra những điểm giống  và khác nhau về lời giải và phép tính (Giáo viên chia bảng làm hai cột tương ứng   với 2 cách giải của hai bài toán). Chẳng hạn:      Với bài toán ví dụ 1 nêu trên, giáo viên có thể hướng dẫn theo cách “xuất phát   từ  câu hỏi của bài toán đến dữ  kiện, tức là dùng phương pháp tính ngược từ  cuối” như sau: + Bài toán hỏi gì? (Hỏi trong hai tuần đó, trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được  bao nhiêu mét vải, biết rằng cửa hàng mở cửa tất cả các ngày trong tuần) + Muốn tính trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải, ta làm  thế nào? (lấy số vải bán được trong hai tuần chia cho số ngày cửa hàng mở cửa) + Vậy tiếp theo ta phải làm gì? (tính số vải bán được trong tuần sau, số vải bán   được trong hai tuần và tính số ngày trong 2 tuần lễ) + Làm thế  nào để  tính được số  vải bán được trong tuần sau? (lấy 319m cộng   76m) + Tiếp theo ta làm gì? (tính số vải bán được trong hai tuần, lấy số vải bán được   trong hai tuần cộng lại)
  15. + Tính số ngày cửa hàng mở cửa như thế nào? (lấy 7 nhân 2 vì một tuần lễ có 7   ngày) + Vậy đã giải quyết được yêu cầu bài toán chưa? (rồi)      Tương tự, bài toán 2 giáo viên có thể hướng dẫn như sau: + Bài toán hỏi gì? (Hỏi trung bình mỗi tuần cửa hàng bán được bao nhiêu mét   vải?) + Muốn tính trung bình mỗi tuần cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải, ta làm  thế nào? (lấy số vải bán được trong hai tuần chia cho số tuần cửa hàng mở cửa) + Vậy tiếp theo ta phải làm gì? (tính số vải bán được trong tuần sau, số vải bán   được trong hai tuần) + Làm thế  nào để  tính được số  vải bán được trong tuần sau? (lấy 319m cộng   76m) + Tiếp theo ta làm gì? (tính số vải bán được trong hai tuần, lấy số vải bán được   trong hai tuần cộng lại) + Vậy đã giải quyết được yêu cầu bài toán chưa? (rồi)       Đến đây, giáo viên yêu cầu học sinh hệ thống lại các bước giải của hai bài  toán và chỉ ra điểm giống nhau và khác nhau về cách giải của hai bài toán. Đó là:   Với bài toán ví dụ  1, muốn tính  trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được bao  nhiêu mét vải ta lấy số  vải bán được trong hai tuần chia cho  số  ngày cửa hàng  mở  cửa. Còn với bài toán 2: Muốn tính trung bình mỗi tuần cửa hàng bán được  bao nhiêu mét vải ta lấy số  vải bán được trong hai tuần chia cho số  tuần cửa  hàng mở cửa.      Giáo viên theo dõi, sửa sai cho từng đối tượng học sinh cần quan tâm để đảm  bảo rằng tất cả các học sinh đã đi đúng hướng giải của bài toán.       Với bài toán ví dụ  2 đã nêu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt lại đề  toán:   Một thửa ruộng có nửa chu vi 265m, chiều rộng kém chiều dài 47m. Tính diện   tích của thửa ruộng. (SKG Toán 4, trang 175).      Đây là bài toán điển hình học sinh đã biết cách giải. Điểm khác nhau giữa bài   toán vừa đặt này với bài toán ví dụ  2 là việc tìm tổng số  đo của chiều dài và  
  16. chiều rộng. Giáo viên giúp học sinh thấy được điều này thì các em sẽ  dễ  dàng  làm được bài toán ví dụ 2 đã nêu.      Trở lại bài toán ví dụ 2, giáo viên cần cho học sinh nêu cách tính chu vi hình  chữ  nhật, mối liên hệ giữa chu vi và nửa chu vi và mối liên hệ  giữa nửa chu vi   với chiều dài và chiều rộng của thửa ruộng để  giúp học sinh hiểu được: muốn  tìm nửa chu vi thì lấy chu vi chia cho 2 và nửa chu vi chính là tổng số  đo của  chiều dài và chiều rộng của thửa ruộng. Tiếp theo, giáo viên cho học sinh xác  định tổng và hiệu số  đo của chiều dài và chiều rộng để  vạch ra các bước giải   trên giấy nháp, kết hợp uốn nắn chỉnh sửa cho học sinh còn lúng lúng. Việc làm  trên được thực hiện theo hệ thống câu hỏi sau: + Bài toán yêu cầu gì? (tính diện tích thửa ruộng) + Muốn tính được diện tích thửa ruộng ta làm thế  nào? (lấy chiều dài thửa  ruộng nhân với chiều rộng thửa ruộng) + Chiều dài, chiều rộng thửa ruộng đã biết chưa? (chưa) + Làm thế  nào để tìm chiều dài và chiều rộng của thửa ruộng? (tìm nửa chu vi   thửa ruộng: lấy chu vi thửa ruộng chia cho 2) + Vì sao ta phải tìm nửa chu vi thửa ruộng? (vì nửa chu vi thửa ruộng chính là   tổng số đo của chiều dài và chiều rộng) + Vậy hiệu số đo của chiều dài và chiều rộng đã biết chưa? (biết rồi: 47m) + Sau khi tìm được nửa chu vi thửa ruộng, ta đã đưa bài toán về  dạng gì? (dạng  toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó) + Đã tìm được chiều dài và chiều rộng thửa ruộng chưa? (được rồi) + Vậy chúng ta có tính được diện tích thửa ruộng không? (được)       Mục đích chính của biện pháp này là nhằm giúp học sinh chuyển đổi được  dạng toán: từ  dạng không điển hình sang dạng điển hình (đã có cách giải) để  giải quyết vấn đề của bài toán, làm bước chuẩn bị cho việc trình bày bài giải. 2.2.3. Biện pháp 3:  Tổ  chức thực hành rèn luyện kĩ năng giải toán (thực  hiện và trình bày bài giải).      Hoạt động này bao gồm việc thực hiện các phép tính đã nêu trong kế hoạch   giải bài toán và trình bày bài giải (tiếp nối hai biện pháp nêu trên)
  17.      Với biện pháp này, giáo viên nên chú trọng những học sinh yếu kém (khoảng  từ  3 đến 5 học sinh trong mỗi tiết học) .  Trước khi tổ  chức cho học sinh thực   hành rèn kĩ năng giải toán không điển hình, giáo viên phải đảm bảo rằng tất cả  các học sinh đã nắm được cách giải các bài toán điển hình đã học có liên quan.  Việc rèn kĩ năng giải toán thông qua các bài toán cụ thể sẽ giúp học sinh nhớ lâu  hơn cách giải của từng dạng toán. Và thông qua hoạt động giải toán để  phát   triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và các thao tác tư duy quan trọng như so  sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa, lập luận có   căn cứ, …. cho học sinh.      Với bài toán 1 nêu trên, yêu cầu học sinh phải nắm chắc các bước giải của  bài toán về  tìm số  trung bình cộng được cụ  thể  qua từng bài toán. Sau khi học   sinh phân tích và hiểu yêu cầu đề bài, vạch ra được các bước giải nêu trên, giáo  viên cho học sinh trình bày bài giải. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh  cách trình bày hợp lí khoa học, mang tính thẩm mĩ cao để  làm mẫu cho cả  lớp  học tập theo.       Để rèn luyện và tiếp tục củng cố cách giải toán vừa học, giáo viên cần đưa ra  1 đến 2 bài toán tương tự để học sinh thực hiện. Chẳng hạn, giáo viên có thể ra  đề toán tương tự bài toán ví dụ 1: Một cửa hàng tuần đầu bán được 346 m vải,  tuần sau bán được ít hơn tuần đầu 34m vải. Hỏi trong hai tuần đó, trung bình  mỗi ngày cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải, biết rằng cửa hàng mở cửa tất  cả các ngày trong tuần? Với bài toán ví dụ 2, giáo viên có thể ra đề toán tương tự sau: Một thửa ruộng có  chu vi 370m, chiều dài hơn chiều rộng 59m. Tính diện tích của thửa ruộng.      Việc rèn kĩ năng giải toán cho học sinh cần nâng dần mức độ khó của đề toán  và đưa ra nhiều dạng “biến tướng” của dạng toán đã cho để học sinh thực hiện. 2.2.4. Biện pháp 4: Tổ  chức linh hoạt các hoạt động nhóm thích hợp (theo   đối tượng hay trình độ) nhằm phát huy tối đa tinh thần hợp tác và khả  năng tự  đánh giá lẫn nhau giữa học sinh với học sinh dưới sự hướng dẫn   của giáo viên.
  18. Biện pháp này được tiến hành đồng thời (nếu có) với các biện pháp nêu   trên. Tùy vào độ  khó của từng bài toán, giáo viên cần linh hoạt tổ  chức hoạt  động nhóm nhỏ  từ  2 đến 4 hoặc 6 người. Quá trình học tập hợp tác nhóm làm  tăng hiệu quả  học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề  gay cấn, lúc   xuất hiện thực sự  nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để  hoàn thành nhiệm vụ  chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ  sẽ  không thể  có hiện tượng  ỷ  lại; tính   cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý  thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống  học đường sẽ  làm cho các thành viên quen dần với sự  phân công hợp tác trong   lao động xã hội. Mặt khác, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá  (đặc biệt là vai trò của nhóm trưởng) để tự  điều chỉnh cách học. Liên quan với  điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh   giá lẫn nhau (trong nhóm, trước lớp). Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động  kịp thời là năng lực rất cần cho sự  thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường  phải trang bị cho học sinh. Việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu  tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông  minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.      Trở lại với các ví dụ nêu trên: dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các nhóm   trưởng, việc phân tích đề  bài, nhận dạng toán, thực hiện và trình bày bài giải  theo các biện pháp nêu trên được học sinh thực hiện trong nhóm 4 trước khi trình  bày trước lớp để thống nhất cách giải.  2.2.5. Biện pháp 5: Thường xuyên đổi mới nội dung thực tế của bài toán có  lời văn (trong sách giáo khoa), nhất là những bài toán không điển hình cho  phù hợp với những vấn đề đang diễn ra ở cộng đồng.     Sau khi học sinh nắm chắc cách giải dạng toán nêu trên và đã giải được các   bài toán trong SGK, giáo viên cần lựa chọn một số bài toán có nội dung cập nhật   thực tế  gắn với những vấn đề  cấp bách đang cần giải quyết  ở  địa phương để  cho học sinh thực hành.
  19.      Việc làm này giúp học sinh dễ hiểu, dễ thâm nhập nội dung cần giải quyết  của bài toán và thấy được tầm quan trọng của việc học toán trong việc giải  quyết các vấn đề của đời sống.       Ví dụ  bài toán 3: Để  lát nền một phòng học hình chữ  nhật, người ta dùng  loại gạch men hình vuông có cạnh 20cm. Hỏi cần bao nhiêu viên gạch để lát kín  nền phòng học đó, biết rằng nền phòng học có chiều rộng 5m, chiều dài 8m và   phần mạch vữa không đáng kể? (SGK Toán 4, trang 173)          Với bài toán trên, sau khi học sinh đã học các quy tắc tính diện tích hình   vuông, diện tích hình chữ nhật, giáo viên có thể cho học sinh áp dụng để tính số  gạch men cần để  lát nền phòng học. Điểm mấu chốt  ở  đây không phải là quy   tắc tính diện tích hình vuông hay hình chữ  nhật mà là mối liên hệ  giữa hai đại   lượng này. Giáo viên phải giúp học sinh trả lời được các câu hỏi: Người ta cho  viên gạch men có cạnh 20cm để  làm gì? cho chiều dài, chiều rộng của nền   phòng học để  làm gì? Muốn tính số  gạch cần để  lát nền phòng học ta làm thế  nào? Vì sao ta phải tính diện tích viên gạch, tính diện tích nền phòng học? …   Các câu hỏi nêu trên giáo viên cần hệ thống một cách hợp lí khoa học theo trình   tự hướng dẫn các bước giải với phương pháp tính ngược từ cuối. Chẳng hạn hệ  thống câu hỏi hướng dẫn có thể là: + Bài toán hỏi gì? (Hỏi cần bao nhiêu viên gạch để lát kín nền phòng học đó) + Để  tính số  viên gạch cần để  lát kín nền phòng học đó, ta làm thế  nào? (lấy  diện tích nền phòng học chia cho diện tích mỗi viên gạch) + Tiếp theo ta làm thế nào? (tính diện tích nền phòng học và diện tích mỗi viên  gạch men hình vuông) + Diện tích nền phòng học và diện tích mỗi viên gạch men hình vuông tính được  chưa? (được rồi) + Vậy đã tính được số viên gạch cần để lát nền phòng học chưa? (rồi)      Đến đây đã giải quyết được yêu cầu của bài toán. Tuy nhiên, giáo viên cần  lưu ý học sinh đổi đơn vị  đo thích hợp trước khi lấy diện tích nền phòng học  chia cho diện tích mỗi viên gạch để tính số viên gạch cần dùng.      Từ bài toán nêu trên ở Sgk, giáo viên cần đưa ra các bài toán tương tự để học   sinh luyện tập nhưng cần cập nhật số  liệu phù hợp với tình hình thực tế  hiện  
  20. nay: thay viên gạch men có cạnh 20cm bằng viên gạch men có cạnh 30cm, 40cm   hay 50cm, 60cm để phù hợp thực tế hơn. 2.2.6. Biện pháp  6: Thường xuyên kiểm tra, chấm chữa, đánh giá sự  tiến  bộ  của học sinh (nhất là học sinh trung bình và yếu) để  kịp thời có biện  pháp điều chỉnh thích hợp, từ  đó tiếp tục phân loại đối tượng học sinh và  lập kế hoạch phụ đạo trong thời gian tiếp theo.    Việc nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh  qua bài kiểm tra (chủ yếu thực  hiện  ở  buổi 2) là rất cần thiết đối với mỗi giáo viên. Trên cơ  sở  đó, giáo viên  biết mình cần quan tâm đến học sinh nào ? Học sinh này yếu những kĩ năng gì ?   Học sinh kia yếu những kĩ năng gì ? để  có biện pháp rèn luyện thích hợp. Giáo  viên cần lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu và có bảng theo dõi kết quả  học  tập của từng học sinh ở từng thời điểm.       Với biện pháp này, giáo viên cùng phối hợp để  phát huy năng lực của học   sinh khá giỏi trong việc kèm cặp học sinh trung bình và yếu. Tạo cơ hội để học  sinh tự  đánh giá lẫn nhau, cùng giúp nhau tiến bộ. Giáo viên chỉ  tập trung vào  những học sinh nằm trong kế hoạch chủ nhiệm của mình đến khi các học sinh  này đạt được những tiến bộ nhất định.        Một tháng hoặc cần thiết là hai tuần, giáo viên nên có một bài kiểm tra để  đánh giá năng lực học sinh. Tuy nhiên, cần tập trung nhiều hơn đối tượng học   sinh yếu, sau đó là học sinh trung bình. 2.2.7. Biện pháp 7: Giao bài tập về nhà để giúp học sinh luyện tập củng cố  kĩ năng đã học ở trên lớp.      Đây là việc làm không thể thiếu của giáo viên sau mỗi tiết học. Sau khi học  xong một dạng toán, giáo viên cần giao bài tập về nhà. Bởi đây là một hoạt động   góp phần tăng thời gian thực hành, bổ trợ cho hoạt động củng cố kiến thức của   học sinh đã học  ở  lớp. Tuy nhiên, yêu cầu của bài tập về  nhà không quá khó  hoặc quá dễ và tùy theo đối tượng học sinh. Giáo viên cần đầu tư thời gian, công   sức để đưa ra các đề toán gần gũi với đời sống thực tế của các em và phân loại   theo hai đối tượng khá giỏi và trung bình, yếu. Việc làm này sẽ giúp các em thâm  nhập bài toán tốt hơn, từ  đó định hướng được cách giải bài toán. Giáo viên chỉ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2