intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 trường tiểu học Thị trấn Gio Linh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

39
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý. Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc. Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc. Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em. Giúp giáo viên: Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh để vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt; Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng; Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 trường tiểu học Thị trấn Gio Linh

  1. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 A. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt được chia thành các phân   môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn cho học sinh một số kĩ năng nhất định. Phân  môn tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất, rèn cho học sinh cả  bốn kĩ năng trong đó chú trọng vào các kĩ năng nghe, nói, viết. Đối với phân môn  này, học sinh phải được hình thành và rèn luyện năng lực trình bày văn bản (nói và   viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Để sản sinh được các bài văn này, học sinh phải  có thêm nhiều kĩ năng khác. Đó là các kĩ năng phân tích đề, quan sát, tìm ý và lựa   chọn ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn... các kĩ năng này không được   phân môn nào trong môn Tiếng Việt rèn luyện và phát triển ngoài phân môn Tập  làm văn, cho nên có thể nói nhiệm vụ cơ bản và chủ  yếu của phân môn Tập làm   văn là giúp học sinh sau một quá trình luyện tập lâu dài và có ý thức, dần dần nắm   được cách viết các bài văn theo nhiều loại phong cách khác nhau do chương trình  quy định. Ở phân môn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả là một trong những kiểu bài   thuộc phong cách nghệ  thuật chiếm nhiều thời gian học tập nhất. Chương trình  Tập làm văn lớp 5 tiếp tục dạy về văn miêu tả. Để giúp học sinh học tốt văn miêu tả thì các em phải hình thành được các kĩ  năng như: quan sát đối tượng miêu tả, có óc tưởng tượng, sự quan sát tinh tế, biết  rung động trước cái đẹp, lựa chọn và sắp xếp ý để  miêu tả… Riêng  ở  lớp 5,  chương trình còn chú trọng rèn luyện một số  kĩ năng bộ  phận gắn với đặc điểm   của kiểu bài cụ  thể. Ví dụ: luyện tập về cách tả  từng phần của cảnh theo không  gian, tả  sự  thay đổi của cảnh theo thời gian, tả  ngoại hình của người, tả  hoạt   động của người.  Với học sinh lớp 5, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả  cho các em là rất cần  thiết. Học tốt văn miêu tả là điều kiện tốt để các em học tốt các môn học khác và  học lên lớp trên. Viết được bài văn miêu tả  đúng và hay sẽ  góp phần nâng cao  năng lực cảm thụ  văn học cho các em, giúp các em khám phá được cái đẹp qua  việc xây dựng văn bản, các em thêm yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.  Qua thực tế giảng dạy  ở lớp mình, tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là  một phân môn khó nhất trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Để  thực hiện  được mục tiêu là xây dựng các văn bản ( nói và viết), học sinh phải huy động tất  cả các kiến thức tiếp thu được qua việc học Tập đọc, Chính tả, Luyện từ câu, Kể  chuyện...Trong khi đó, học sinh Tiểu học vốn sống còn hạn chế, vốn từ  lại chưa   phong phú. Học sinh chưa biết tự mình viết lên những gì mình quan sát được. Các  em thiếu ý tưởng để  triển khai bài viết, ít quan sát thực tế, chưa có cảm xúc khi  làm bài,… nên để đạt được các yêu cầu trên là điều không dễ chút nào. Chính vì thế, việc dạy và học Tập làm văn là vấn đề  luôn cần có sự  đổi  mới. Xuất phát từ  mục đích, mục tiêu giáo dục cấp học, lớp học; từ vị trí, nhiệm  Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 1
  2. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 vụ và yêu cầu của phân môn Tập làm văn; từ một số tồn tại và vướng mắc trong   quá trình dạy và học Tập làm văn của cả giáo viên và học sinh; từ các chuyên đề,   thực tế  dự  giờ, thăm lớp của đồng nghiệp từ  kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy,   góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học trong nhà   trường nói chung, dạy học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi đã chọn đề  tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5. 2. Mục đích nghiên cứu:    Giúp học sinh lớp 5:  ­ Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.  ­ Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát,  mạch lạc.  ­ Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.  ­ Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh  các em.  Giúp giáo viên: Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả  cho học  sinh để vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách   linh hoạt; Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV   nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả  nói riêng; Nâng cao khả  năng  nghiên cứu khoa học. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu:    ­ Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy học văn miêu tả lớp 5. ­ Thực trạng dạy văn miêu tả lớp 5. ­ Một số biện pháp dạy học văn miêu tả lớp 5.    4. Đối tượng nghiên cứu:   ­ Học sinh lớp 5B. ­ Thể loại văn miêu tả: Tả người và tả cảnh lớp 5.       5. Phương pháp thực hiện: ­ Phương pháp nghiên cứu lý luận (Đọc tài liệu). ­ Phương pháp phân tích tổng hợp. ­ Phương pháp điều tra, phỏng vấn. ­ Phương pháp thực nghiệm. ­ Phương pháp đàm thoại. ­ Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm. 6. Phạm vi nghiên cứu:  ­ Các dạng văn miêu tả ở lớp 5: Luyện tập tả cảnh; Luyện tập tả người.  Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 2
  3. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 ­ Thực trạng dạy­ học viết văn miêu tả  của học sinh lớp 5 trường tôi tiểu  học Thị trấn Gio Linh năm học 2015­ 2016.   B. NỘI DUNG CHÍNH Chương I. Cơ sở lí luận: 1. Phương pháp dạy học: Phương pháp dạy học là bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học. ­ Phương pháp dạy: Phương pháp tổ  chức nhận thức, phương pháp điều  khiển hoạt động trí tuệ và thực hành, phương pháp giáo dục thái độ và hình thành   ý thức đúng đắn cho học sinh. ­ Phương pháp học: Phương pháp nhận thức và rèn luyện để hình thành hệ  thống tri thức và kĩ năng thực hành, hình thành nhân cách cho người học. Khi sử dụng đúng phương pháp sẽ đem lại kết quả theo dự định. Nếu mục   đích không đạt được thì có nghĩa là phương pháp không phù hợp với mục đích  hoặc nó không được sử dụng đúng. Bất kì phương pháp nào, cho dù là phương pháp nhận thức hay phương pháp  thực hành ­ luyện tập, để thực hiện có kết quả vào đối tượng nào đó thì cũng biết  tính chất của đối tượng, tiến trình biến đổi của nó dưới tác động của phương   pháp đó. Nghĩa là phải nhận thức được những quy luật khách quan của đối tượng  thì mới đề  ra những biện pháp cùng với những phương tiện tương  ứng để  nhận  thức và để hành động thực tiễn. 2. Khái niệm về văn miêu tả: Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và cảm xúc làm cho người  nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét cụ thể về người, vật, cảnh vật sự việc   như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không phải thể hiện chính   xác, rõ nét, sinh động đối tượng miêu tả  mà còn thể  hiện được trí tưởng tượng,  cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Các bài văn miêu  tả ở Tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà mình yêu mến, thích thú. Vì vậy   qua bài làm của mình các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình  miêu tả. 3. Đặc điểm của văn miêu tả:                              a. Văn miêu tả là thể văn sáng tác           Văn miêu tả không phải là sự sao chép, chụp  lại những sự vật, sự việc, con  người một cách máy móc mà là kết quả  của sự  nhận xét, tưởng tượng, đánh giá  hết sức phong phú.           Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới mẻ, riêng biệt của người viết. Nếu  như miêu tả một cây hoa, một con mèo, hay một cái cặp… mà ai cũng tả như nhau   thì không ai thích đọc cả. Khi ta bắt gặp một đoạn văn miêu tả  ta đọc cảm thấy  Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 3
  4. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 rất hay và khâm phục người viết. Nhưng lần sau ta lại bắt gặp cũng đoạn văn  miêu tả đó thì ta sẽ thấy không hay nữa. b.  Tính chân thật trong văn miêu tả           Văn miêu tả  không hạn chế  sự  tưởng tượng, không ngăn cản cái mới mẻ  của người viết. Nhưng như vậy không có nghĩa văn miêu tả  cho phép người viết  bịa một cách tuỳ tiện, muốn nói sao thì nói, viết sao thì viết.  Khi miêu tả cái mới,  cái riêng phải gắn chặt với cái chân thật. Thấy đúng như thế nào thì tả như vậy. c. Văn miêu tả mang tính sinh động và tạo hình            Đây là một đặc điểm nổi bật của văn miêu tả. Trong miêu tả  người ta   thường  hay   so   sánh.   So  sánh   thì   vô   cùng.   Có   khi  người  ta   so   sánh   người   với  người: “Cô   giáo   có   dáng   người   mềm   mại,   thanh   thoát   như   một   diễn   viên   múa” hay “Bạn ấy hát chẳng khác nào một ca sĩ chuyên nghiệp”… hoặc người ta  có thể so sánh người với vật: “Trông anh ta như một con gấu, dáng vẻ ngơ ngác   như một con nai”…          Có trường hợp người viết lấy nhỏ để  so sánh với to hoặc ngược lại hay so   sánh tương đồng: “Sông rộng lắm, lồng lộng mênh mông như  vầng trán mẹ”;   “Dòng sông mềm mại uốn lượn như dải lụa vắt qua cánh đồng”; “Sóng vỗ  mạn   thuyền rì rầm như là người mẹ âu yếm vỗ về trước lúc con đi”; “Bến cảng dang   rộng cánh tay chào đón thuyền như vòng tay ân tình của những người mẹ ôm ấp   những đứa con thân yêu”…           Trong miêu tả người ta thường hay nhân hoá. Điều đó ai cũng biết. Nhưng  chỉ  cần chú ý là người ta có thể  nhân hoá theo nhiều cách. Nhân hoá để  tả  bên   ngoài, có khi nhân hoá để tả tâm trạng. Ví dụ:  “Giản dị nhất là cây na với chiếc   áo xanh bàng bạc. Hoa na trắng xanh khéo léo núp sau đám lá như  e thẹn như   ngượng ngùng, khi người ta ngửi thấy hương thơm ngọt ngào của mình”; “Chị   gió đánh nhịp cho cây hát rì rào, vào bản nhạc đầu tiên của một ngày mới” ;   “Dòng sông chảy lặng lờ  như  một con đò nhớ  về  năm xưa” ; “Hay chiếc lá úa   dính đầy bụi, thân lá như đang thoi thóp, gân lá nổi cao như lưu luyến khung trời   mà ngày nào lá cũng reo vui với chim chóc”….             Có khi vừa so sánh vừa nhân hoá: “Như  để  khoe hết vẻ  đẹp của mình   những bông hoa từ từ hé nở để lộ nhụy hoa vàng toả hương thơm ngát khiến ong   bướm về đây tụ hội…” .v.v.            Do đó, khi viết một bài văn miêu tả, người viết phải huy động, chọn lọc   kiến thức về ngôn ngữ của mình để “tô điểm” cho người và sự vật làm cho chúng   hiện lên qua từng trang miêu tả sống động như trong đời sống thực.           d. Văn miêu tả  mang tính thông báo thẩm mỹ  và chứa đựng tình cảm của   người viết            Bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong thực tế khách quan cũng có thể trở  thành đối tượng của văn miêu tả. Nhưng không phải bất kỳ một hiện tượng miêu   tả  nào cũng trở  thành văn miêu tả. Văn miêu tả  phải là loại văn giàu những cảm   Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 4
  5. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 xúc, những rung động, những nhận xét tinh tế, dồi dào sáng tạo nhằm mục đích  thông báo thẩm mỹ. Người đọc qua văn bản miêu tả nhận thức thực tế khách quan  không phải bằng con đường lý trí mà chủ  yếu bằng những cảm xúc, những rung   động mạnh mẽ của tâm hồn. e. Ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh Ngôn ngữ  trong văn miêu tả  là sự  phong phú, đa dạng của các tính từ. Có  thể   thấy   đủ   loại   tính   từ:   màu   sắc,   tính   chất,   đánh   giá   …   đan   xen   nhau   tạo   thành những chùm sáng ngôn ngữ  lung linh trong lòng người đọc, gợi lên trong  lòng họ  những cảm xúc, tình cảm,  ấn tượng, hình  ảnh về  sự  vật  được miêu   tả. Ngôn ngữ  miêu tả  là giai điệu chủ  đạo trong văn bản miêu tả. Và người viết  còn đan xen giai điệu phụ trợ như: tường thuật, kể chuyện … làm cho việc trình  bày nội dung sinh động hơn giúp người đọc hứng thú trong việc tiếp nhận văn   bản. Khi viết về “Sầu riêng” tác giả Mai Văn Tạo đã sử  dụng ngôn ngữ  khá đặc  sắc: “Sầu riêng là loại trái quý, trái hiếm của Miền Nam. Hương vị nó hết sức   đặc biệt, mùi thơm đậm bay rất xa, lâu tan trong không khí. Còn hàng chục mét   mới tới nơi để sầu riêng, hương đã ngào ngạt xông vào cánh mũi. Sầu riêng thơm   mùi thơm của mít chín quyện với hương bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái   vị  của mật ong già hạn. Hương vị  quyến rũ kỳ  lạ... chiều quằn, chiều lượn,   hương toả ngạt ngào, vị ngọt đến đam mê”.            Ở  bài này được tác giả  sử  dụng ngôn ngữ  rất phong phú và đa dạng,  ở  nhiều mức độ  khác nhau và nhiều hình thức khác nhau. Để  chỉ  mức độ  cao của   phẩm chất, tác giả  dùng nhiều hình thức diễn đạt: hết sức đặc biệt, bay rất xa,   thơm ngát, thơm đậm, cao vút, thẳng duột, hương đã ngào ngạt … Để so sánh, tác   giả  dùng nhiều từ  khác nhau: thơm ngát như  hương cau, cánh hoa … hao hao  giống cánh sen, nhìn trái sầu riêng … trông giống những tổ  kiến, lá nhỏ  xanh   vàng… tưởng như lá héo, thơm mùi thơm của mít, béo cái béo của trứng gà, ngọt  cái vị  của mật ong già. 4. Mục tiêu và nội dung chương trình Tập làm văn miêu tả lớp 5 a. Mục tiêu * Kiến thức: ­ Học sinh nắm được cấu tạo các dạng văn miêu tả. ­ Trang bị kiến thức và rèn các kĩ năng làm văn miêu tả. ­ Góp phần cùng với các môn học khác cung cấp cho học sinh các kiến thức   tổng hợp về văn hóa, Tự nhiên và xã hội. * Kĩ năng: ­ Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh. Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 5
  6. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 ­ Rèn kĩ năng quan sát, óc tưởng tượng, tư duy, sáng tạo cho học sinh. ­ Kĩ năng tổng hợp, phân tích các sự vật, sự việc. * Thái độ: ­ Góp phần bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho   học sinh. ­ Bồi dưỡng cho học sinh thêm yêu thích môn học. b. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 5 Chương trình Tập làm văn lớp 5 được thiết kế 62 tiết/ 1 năm. Trong đó văn   miêu tả gồm ( tả cảnh, tả người) có 35 tiết ( ôn tập tả cây cối, con vật đồ  vật ở  lớp 4). Chương II. Cơ sở thực tiễn: I. Thực trạng dạy học môn Tập làm văn lớp 5: Đơn vị Trường Tiểu học Thị trấn Gio Linh nơi tôi công tác đa số học sinh ở  đây ngoan ngoãn và chăm chỉ học tập. Mặc dù vậy, ở các em vốn sống và vốn từ  còn hạn chế  nên trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn  Tập làm văn nói riêng cả  giáo viên và học sinh đều gặp một số  khó khăn nhất  định. 1. Phía giáo viên: Đội ngũ giáo viên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua nhiều năm thực   hiện đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa. Bên cạnh đó, do ý thức được độ  khó và tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn nên trước khi lên lớp giáo viên   đều chuẩn bị bài rất chu đáo. Mặc dù vậy, nhiều giáo viên vẫn chưa thực sự tự tin trong việc tự lựa chọn   nội dung, phương pháp và thời lượng lên lớp nên dẫn đến tình trạng ôm đồm kiến  thức, dễ gây cảm giác chán nản và mệt mỏi cho học sinh trong tiết tập làm văn. Một thực tế nữa cho thấy là hiện nay đa số giáo viên chúng ta còn ngại khó  trong việc dạy tập làm văn; ít nhận xét bài vì đọc mất nhiều thời gian; trong khi   dạy ít quan tâm đến việc phối hợp kiến thức  ở  các phân môn khác trong môn  Tiếng Việt. Nhiều giáo viên còn mắc bệnh công thức khuôn sáo, máy móc, thiếu chân  thực trong cách dạy và học văn miêu tả. Giáo viên còn lệ thuộc nhiều vào các bài  văn mẫu để dạy học sinh, chưa chú trọng rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và tìm   ý, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh… 2. Về phía học sinh: Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 5, tôi nhận thấy phần lớn các em biết viết  một bài văn miêu tả với đầy đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài). Nhiều em còn   biết sử  dụng các biện pháp nghệ thuật và lồng cảm xúc của mình vào làm cho bài  viết trở nên sinh động và nổi bật hơn hẳn. Nhưng bên cạnh đó lại có một số học   Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 6
  7. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 sinh hầu như không biết làm văn. Nhiều bài văn mặc dù có đầy đủ ba phần nhưng  lại quá nghèo nàn về  ý và vốn từ. Khi đọc những bài như  thế  người đọc có cảm   giác là các em đang liệt kê các cảnh cần miêu tả  chứ  không phải các em đang tả.  Một số bài khác lại như được viết theo một công thức cho sẵn, không có sự  sáng  tạo làm cho bài văn trở nên khô khan và nhàm chán.  Tóm lại, nguyên nhân mà học sinh làm văn miêu tả chưa tốt là: ­ Học sinh  ở  nông thôn nhiều em chưa hề  được ra thành phố, có em chưa   từng được đến công viên, vườn bách thú hay những danh lam thắng cảnh khác…   Qua đó có thể thấy, khi làm bài, nhiều học sinh không hề nắm được đăc đi ̣ ểm đối  tượng mình đang tả và đã viết không chân thực. Do vậy bài văn khó có thể truyền  cảm cho người đọc.  ­ Học sinh ngày nay đang bị lãng quên một thế giới thơ mộng ở xung quanh,   cái thế giới mà không phải chỉ nhà văn Tô Hoài mới có. Đó là thế  giới của ruộng   đồng, cây cỏ, côn trùng, của mưa, của gió... Đây là thế giới có khả năng làm phong   phú tâm hồn tuổi thơ và rèn luyện óc quan sát, nhận xét.  ­ Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị  xem nhẹ. Phần lớn các   em ít quan tâm đến việc đọc và có đọc thường là truyện tranh, thậm chí có những  truyện tranh không mang tính giáo dục. Việc trò chuyện, tiếp xúc với bố  mẹ, với  những người thân trong gia đình và cộng đồng cũng rất hạn chế  bởi những lí do:  người lớn thì bận công việc còn các em thì  ở  trường cả  ngày, tối về  lại ôn bài.   Cho nên vốn liếng về  cuộc sống, về  văn học của học sinh rất hạn chế. Chính  điều này đã tác động không nhỏ đến việc học văn và tâp làm văn c ̣ ủa các em. ­ Các em ít quan sát, chưa biết cách quan sát, chưa cảm nhận được cái đẹp   các hay trong cuộc sống. ­ Kĩ năng giao tiếp ở các em còn hạn chế. ­ Khả năng nghe và lĩnh hội kiến thức của cô giáo truyền đạt chưa nhanh. ­ Đặc biệt là khả  năng vận dụng từ  ngữ  vào việc viết văn còn nhiều hạn  chế nhất là khả năng sử dụng từ láy tượng thanh, tượng hình trong khi vốn từ này   là chất liệu vô cùng quan trọng làm cho bài văn miêu tả trở nên sinh động hơn, lôi  cuốn hơn. Các em ít sử dụng các câu văn có hình ảnh so sánh, nhân hóa hoặc có sử  dụng nhưng chưa phù hợp.  ­ Học sinh còn vay mượn tình ý của người khác, thường là của một bài văn   mẫu nào đó, học sinh học thuộc một bài văn mẫu, một đoạn văn mẫu rồi chép vào  vở và biến thành bài làm của mình. Qua tìm hiểu thực tế  học sinh tôi nhận thấy có nhiều câu văn các em viết  rất ngô nghê làm cho người đọc bật cười. Ví dụ: Nhà em có nuôi một con chó. Bốn cái chân của nó như bốn cái chân   của tủ li. Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 7
  8. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 Khi tả về cây chuối có em viết là: Cách đây 1 nghìn năm ông nội em trồng   một cây chuối. Thân cây to như cây na. Lá to như lá bàng. Đầu năm học 2015 ­ 2016, tôi đã cho các em làm bài kiểm tra để nắm được  khả năng viết văn ở mỗi học sinh. Đề  bài: Em hãy tả  cảnh cánh đồng quê hương em vào một buổi sáng.  Sau  khi nhận xét bài tôi đã thu được kết quả như sau: 9 – 10 7 ­ 8 5 ­ 6 3 – 4 Lớp Sĩ số SL TL SL TL SL TL SL TL 5B 32 4 12,4% 7 21,9% 14 43,8% 7 21,9% 3. Phụ huynh: Qua trò chuyện giữa phụ huynh và giáo viên, nhiều phụ huynh rất băn khoăn   biết con mình học tập làm văn chưa tốt nhưng không biết bằng cách nào để  giúp  con học tốt tập làm văn. Có phụ huynh nói rằng: Dạy con học toán 1 + 1 = 2 rất dễ  hiểu và cụ thể còn dạy con học tập làm văn rất khó và trừu tượng. Nhiều phụ  huynh chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, còn   phó mặc cho nhà trường chưa nhắc nhở động viên các em vươn lên trong học tập. Tóm lại, có nhiều nguyên nhân làm cho học sinh viết bài văn miêu tả  chưa   hay. Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 5, tôi đã tìm ra được một số giải pháp rèn kĩ   năng miêu tả  để  phần nào khắc phục những lỗi mà các em thường mắc khi làm  văn. II. Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả: 1. Điều tra, phân loại  học sinh: Điều tra phân loại học sinh là việc làm rất quan trọng nhằm giúp giáo viên  nắm được tình hình học tập và khả  năng viết văn của mỗi học sinh. Là cơ  sở  để  giáo viên điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học, xác định những yêu cầu cần  đạt cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Từ đó, đề ra những bài tập vừa sức  với học sinh, xua tan cảm giác “sợ” học tiết tập làm văn  ở  các em. Vì lẽ  đó mà   ngay từ  đầu năm học tôi đã làm bài kiểm tra để  phân loại học sinh( như  đã nêu   trên). Ví dụ: Đề bài “ Em hãy tả ngôi trường của em” Với đối tượng học sinh bình thường, giáo viên nêu yêu cầu cần đạt là: Viết   được bài văn miêu tả hoàn chỉnh có đủ ba phần( mở bài, thân bài, kết bài) thể hiện   rõ sự quan sát và chọn lọc chi tiết, dùng từ ngữ phù hợp, diễn đạt thành câu. Còn đối với học sinh có năng khiếu về  làm văn, bên cạnh những yêu cầu  cần đạt nêu trên còn phải biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, từ ngữ hình ảnh   gợi tả; bài viết thể hiện được ý riêng, sáng tạo, có cảm xúc. Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 8
  9. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 Khi viết phần mở  bài, học sinh bình thường chỉ  cần giới thiệu được đối  tượng mình miêu tả theo cách trực tiếp là được nhưng học sinh có năng khiếu làm  văn có thể yêu cầu các em cao hơn, lối viết thể hiện được sức hút với người đọc. Sau đây là hai cách mở bài: Ngôi trường mà em định tả  là Trường Tiểu học Thị  trấn Gio Linh. Đây là   ngôi trường mà em rất yêu quý. ( Bài viết của học sinh Hiếu, học bình thường) Ngày nay, ai đi qua con đường này đều không khỏi ngạc nhiên khi thấy   trước mặt là dãy nhà hai tầng khang trang với những bóng cây xanh mát rượi suốt   ngày vang tiếng nói cười của các bạn học sinh. Đó chính là Trường Tiểu học Thị   trấn Gio Linh. Nhiều năm qua đi ngôi trường đã trở nên thân thuộc và gần gũi như   chính ngôi nhà thứ hai của chúng em vậy. (bài viết của học sinh Hải Dương, học  sinh có năng khiếu làm văn) Việc điều tra phân loại học sinh giúp giáo viên phát hiện học sinh năng  khiếu để  đào tạo các em trở  thành những học sinh giỏi văn thực thụ. Những học  sinh làm bài chưa tốt giáo viên có sự kèm cặp, điều chỉnh phương pháp giảng dạy  cho phù hợp để giúp các em làm bài có tiến bộ hơn. 2. Rèn kĩ năng quan sát và bồi dưỡng vốn sống cho học sinh: Có một thực tế  hiện nay là các giáo viên khi dạy bài tập làm văn cho học  sinh thường thiên về dạy các kĩ thuật mà quên cung cấp cho học sinh những chất   liệu của cuộc sống để  tạo nên cái hồn của bài viết. Khi một học sinh khó khăn  trước một bài văn giáo viên thường cho rằng các em không nắm vững lí thuyết  viết văn nhưng thực tế  là các em thiếu nội dung, thiếu chi tiết, không nắm được  hướng quan sát nên không có gì để viết hoặc viết mà không lôgic. Đó chính là lí do   các em thiếu hụt vốn sống, vốn hiểu biết. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh bằng cách nào? Trước hết, tôi đã cho các em  quan sát, trải nghiệm những gì chuẩn bị viết. Tuy nhiên, quan sát không có nghĩa là  bê nguyên những gì quan sát được vào bài văn miêu tả mà phải biết chọn lọc chi  tiết, hình ảnh đặc sắc nhất, nổi bật nhất về màu sắc, âm thanh, hương vị về đồ  vật, cây cối, nhà cửa, con người  có trong cảnh (Đối với bài văn tả cảnh). Nghĩa là  giáo viên phải hướng dẫn các em quan sát như thế nào cho đúng cách. Tôi thường  lưu ý các em phải quan sát theo một trật tự nhất định từ trong ra ngoài, từ dưới lên  trên, từ trước ra sau, từ tổng quát đến cụ thể, từ trực tiếp đến gián tiếp, quan sát  theo sự diễn biến của thời gian… Sau khi quan sát xong yêu cầu học sinh ghi vào  một quyển sổ nhỏ.  Bên cạnh việc quan sát thực tế giáo viên còn phải hướng dẫn các em dùng  trí tưởng tượng để  miêu tả. Làm văn miêu tả  không phải lúc nào cũng có đối  tượng trước mắt để quan sát, để viết. Với học sinh tiểu học cũng vậy. Tả cái cặp  của em hay tả  cảnh trường em trong giờ  ra chơi thì các em có thể  quan sát trực  tiếp để viết nhưng tả cây bàng mùa thu đang thay lá, tả cánh đồng lúa chín ở quê   em… Lúc đấy các em phải sử  dụng hồi tưởng và tưởng tượng. Phải huy động  những hiểu biết, các nhận xét, các cảm xúc…đã có trong quá khứ  về  đối tượng  Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 9
  10. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 miêu tả  để  làm bài. Trong văn miêu tả  nếu học sinh không biết dùng óc tưởng   tượng thì bài viết sẽ không thể có sự bay bổng và giàu xúc cảm được. Ví dụ: Yêu cầu học sinh quan sát và ghi lại kết quả quan sát một cơn mưa ( chuẩn bị cho tiết Tập làm văn Luyện tập tả cảnh, tuần 3, TV5 tập 1) Trước khi chuyển sang nội dung chính của bài tập là lập dàn ý miêu tả một  cơn mưa, tôi kiểm tra kết quả quan sát của từng học sinh. Nhìn chung các em biết  cách quan sát và ghi lại được kết quả  quan sát. Một số  em chưa thể  hiện được   trình tự quan sát. Một số em khác lại thể hiện được sự quan sát tinh tế của mình. Sau đây là một ví dụ về sự quan sát (ghi chép của em Trần Hải Dương): Em quan sát cơn mưa vào trưa thứ 6 ngày 20 tháng 9 năm 2014. Đó là một   cơn mưa dông. Trước khi mưa em thấy đột nhiên có những cơn gió thổi mạnh, những đám   mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến, sấm nổi lên thỉnh thoảng lại có tia sét sáng lóa. Độ  mười phút sau thì trời mưa. Những hạt mưa bị gió to thổi quất ầm  ầm   lên mái ngói, tạt vào cả  những khe cửa sổ  của nhà em, rồi đột nhiên mưa giảm   hẳn  nhưng sau đó lại mưa to hơn.  Ngoài vườn cây cối như  được tắm gội, một số  cây con bị  gió quật xơ  xác   trông thật đáng thương, tàu lá chuối có nước mưa xối xuông kêu lùng bùng như   đang đánh trống, mấy chú ếch nhảy qua nhảy lại, gà mẹ cùng lũ con đang trú mưa   dưới hiên nhà.  Vì buổi trưa nên mọi người trong nhà em đều đang ở nhà. Tất cả đều nhìn   ra sân và bàn tán về  cơn mưa dông này. Mưa bắt đầu ngớt dần và tạnh hẳn. Ai   nấy lại bắt đầu công việc của mình. Em sửa soạn sách vở để đi học, bố mẹ cũng   chuẩn bị đi làm. Sau cơn mưa em thấy trời quang đãng hẳn lên. Mọi vật như  được gột rửa   hết bụi bẩn. Mấy con chim nấp trong hốc cây bay ra hót râm ran. Không khí trở   nên trong lành và mát mẻ hẳn. Đối với bài tập làm văn tả  người tôi thường hướng dẫn HS quan sát như  sau: * Về tả hình dáng tôi thường hướng dẫn các em quan sát và chọn những nét  riêng biệt về  tầm vóc, khuôn mặt, làn da, cặp mắt, hàm răng, đôi môi…cách ăn  mặc, dáng đi, giọng nói…Hình dáng con người ít nhiều chịu  ảnh hưởng của tuổi   tác, nghề  nghiệp hoàn cảnh sống. Khi tả  một em bé khác tả  một cụ  già hay một  bác nông dân. ­ Khi miêu tả hình dáng, người viết có thể lướt qua nhiều chi tiết không có  gì đáng chú ý, đồng thời tập trung tả những đặc điểm tiêu biểu nhất, nét độc đáo   Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 10
  11. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 gây  ấn tượng cho người đọc, có thể  liên quan mật thiết đến hoạt động tính cách  của người được tả. Chẳng hạn như  khi viết về  một chàng thanh niên nhà văn Ma Văn Kháng  viết: “ A Cháng đẹp người thật. Mười tám tuổi ngực nở  vòng cung, da đỏ  như   lim, bắp tay bắp chân rắn như  trắc gụ. Vóc cao vai rộng, người đứng thẳng như   cột đá trời trồng.” Như  vậy khi viết về  chàng A Cháng nhà văn chỉ  chọn những nét tiêu biểu   như: ngục, nước da, bắp tay, bắp chân, vai…Qua đó ta thấy được A Cháng là một  chàng trai trẻ đẹp, to cao, khỏe mạnh. * Về  miêu tả  hoạt động nhân vật tôi hướng dẫn các em tập trung vào các  hoạt động chính và tả lại từng dáng điệu, cử chỉ, cách làm…trong khi hoạt động. Ví dụ : Sau đây là đoạn văn tả lại hoạt động cô giáo đang giảng bài của em  Linh Trang Bắt đầu giờ học, cô nhẹ nhàng viết lên bảng dòng chữ mềm mại. Bàn tay cô   lướt nhanh như  một hoạ  sĩ. Chỉ  một loáng, hàng chữ  đẹp hiện ra. Cô giảng bài   rất dễ  hiểu. Giọng đọc của cô thật  ấm áp và truyền cảm. Khi giảng bài, khuôn   mặt của cô luôn tươi cười biểu lộ sự thân thiện. Bàn tay cô nhẹ nhàng đánh nhịp   theo từng câu văn, câu thơ. Đôi mắt cô luôn nhìn thẳng về phía học sinh thể hiện   sự  cổ  vũ, động viên chúng em. Cô giảng bài say sưa đến nỗi trán cô lấm tấm   những giọt mồ hôi mà cô vẫn không để ý. Thỉnh thoảng cô đi xuống lớp xem chúng   em ghi bài, thảo luận nhóm. Trong bài giảng, cô thường đặt câu hỏi từ dễ đến khó   để  kích thích sự  suy nghĩ của tất cả  học sinh trong lớp. Cô lúc nào cũng gần gũi   chúng em.  Kết thúc tiết học, bao giờ cô cùng lưu ý những điều cần nhớ cho chúng   em. Cả lớp em ai cũng yêu quý và kính trọng cô. Tóm lại, để giúp học sinh làm một bài văn miêu tả  người tốt giáo viên cần  hướng dẫn học sinh miêu tả hình dáng, hoạt động như thế nào để làm nổi bật tính   tình, nội tâm của người được tả  và bộc lộ  suy nghĩ, đánh giá của mình với đối  tượng được tả. Khi làm bài văn tả người tôi thường lưu ý học sinh. Tìm ra những  đặc điểm riêng về tuổi tác, nghề  nghiệp, công việc,…gắn với đối tượng miêu tả  do đề bài nêu ra như: * Tả người gắn với độ tuổi: Về ngoại hình chú ý tầm vóc, đặc điểm, khuôn   mặt…dáng đi đứng. Về tính tình chú ý tả quan hệ với mọi người xung quanh. Ví dụ:  Tả về người già tính tình bộc lộ qua cách cư xử với con cháu, hàng xóm. Tả về học sinh tính tình thể hiện qua hoạt động học tập, quan hệ với thầy  cô, bạn bè, cha mẹ, anh chị em. * Tả người gắn với nghề nghiệp: Chú ý đặc điểm bên ngoài gắn với nghề  nghiệp( bàn tay, nước da, đặc điểm quần áo), chú ý tính nết gắn với nghề nghiệp   Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 11
  12. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 ( với người bán hàng là thái độ khi bán hàng, với công nhân xây dựng chú ý khi làm   việc.) * Tả  người gắn với hoạt động: Chú ý tả  các thao tác nghề  nghiệp ( cách  khám bệnh của bác sĩ, động tác làm việc của người nông dân gặt lúa) Khi các em xác định được đặc điểm của từng kiểu bài như trên thì việc làm  bài của các em dễ dàng và đạt kết quả cao. Ngoài những hướng dẫn kĩ năng quan sát trên, tôi còn tạo cho các em thói   quen đọc sách, đặc biệt là những văn bản nghệ  thuật hoặc những câu chuyện có   tính nhân văn cao giúp các em hiểu và xúc cảm những gì đọc được. Thời gian để  tôi thực hiện công việc này là những buổi sinh hoạt mười phút đầu giờ. Ngoài ra, trong các buổi 2, tôi còn hướng dẫn các em tìm hiểu các hay, cái  đẹp của đoạn văn hay câu chuyện qua nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau   như: tổ chức trò chơi học tập hoặc thảo luận nhóm…nhằm gây hứng thú học tập,   hình thành, phát triển các năng lực và phẩm chất cho học sinh. Ví dụ: Học sinh đọc trước lớp đoạn văn tả  người mẹ  của nhà văn Duy   Khánh                                                                      ( TVNC 5 ­ Trang 193) Sau khi học sinh đọc cho cả lớp nghe xong, giáo viên cho học sinh thảo luận   nhóm để trả lời các câu hỏi sau: ­ Tác giả đặc tả bộ phận nào của người mẹ ?   ­ Đôi vai của mẹ được tác giả tả như thế nào? ­ Qua việc tả đôi vai em thấy người mẹ đó là người như thế nào? ­ Tình cảm của tác giả dành cho mẹ là những tình cảm gì? Sau đó tôi đã giảng thêm để các em hiểu: Người mẹ hiện lên trong trí nhớ   của đứa con không phải là người có nước da bánh mật, mái tóc đen dày phủ  kín   cả tấm lưng...Đó là một người mẹ tần tảo và vất vả. Miêu tả về mẹ hầu như tác   giả không nhớ một chi tiết nào khác ngoài đôi vai xương xẩu, bé nhỏ, mỏng manh.   Bởi đôi vai ấy đã khắc sâu trong trí nhớ đứa con như một kỉ niệm không thể phai   mờ... Qua đó nhắc nhở  học sinh cần lưu ý khi tả: cần chọn chi tiết làm nổi bật  đối tượng miêu tả, như  bài văn trên tác giả  chỉ  đặc tả  đôi vai nhưng đã thể  hiện   rất rõ hình ảnh người mẹ. Như  vậy, qua ví dụ  trên giáo viên đã hình thành cho học sinh những kiến   thức, kĩ năng về  làm văn miêu tả. Đồng thời rèn luyện và phát triển các năng lực  và phẩm chất cho học sinh như: năng lực giao tiếp, hợp tác, tự  giác tham gia và   chấp hành sự phân công của nhóm lớp…Phẩm chất yêu quý bố mẹ, bạn bè những  người thân trong gia đình… Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 12
  13. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 Trong thực tế, có những bài viết có nhiều ý hay nhưng không gây cảm xúc   cho người đọc. Vì các em viết những gì mình nhìn thấy mà chưa viết những gì   mình cảm nhận được. Giống như bài viết liệt kê các sự vật. Trong bài văn miêu tả  không chỉ  viết những gì nhìn thấy mà cần đưa thêm những gì mình cảm nhận   được bằng các giác quan khác nhau, bằng cả  trái tim và tấm lòng của mình. Để  giúp các em thực hiện được điều này trong các tiết luyện tôi thường cho các em  cảm nhận những đoạn văn hay chẳng hạn như: Bạn hãy tưởng tượng một buổi sáng mờ sương. Bạn vừa nhắm mắt vừa mở   cửa sổ  và bạn chợt hiểu khu vườn nói gì ? Bạn hiểu bây giờ  là mùa gì? Và bông   hoa nào đang nở. Từng tiếng bước chân trong vườn. Bạn biết chính xác người đó   cách bạn bào nhiêu mét. Bạn còn biết bước chân đó của bố  hay mẹ. Hãy thử  đi   rồi sẽ thấy mỗi bông hoa thơm hơn và khi nhắm mắt bạn cũng nhìn thấy nó.                                                      ( Nguyễn Ngọc Thuần ) Sau khi học sinh đọc đoạn văn tôi đặt câu hỏi: ­ Để viết đoạn văn trên tác giả sử dụng những giác quan gì để  miêu tả khu  vườn vào buổi sáng? ­ Cách miêu tả trên có gì hay? Như  vậy chỉ  nghe âm thanh tác giả  biết bước chân đó là của bố  hay mẹ.   Nhắm mắt biết loài hoa nào đang nở… Khi miêu tả  chúng ta không chỉ  dùng một   giác quan để quan sát mà phải mở rộng mọi giác quan để cảm nhận cuộc sống. Để trả lời các câu hỏi trên tôi tổ chức các em trả lời dưới dạng trò chơi Ai   nhanh ai đúng. Thi xem bạn nào trả lời câu hỏi nhanh và đúng nhằm gây hứng thú   học tập. Bên cạnh những văn bản nghệ  thuật tôi còn cho các  em tìm hiểu  thêm  những câu chuyện hay để  thu hút các em như: Bàn tay của mẹ; Hãy biết thương   mẹ nhiều hơn...Những quyển sách này có ở thư viện rất nhiều. Tóm lại, giáo viên cần xây dựng cho học sinh hứng thú và thói quen đọc  sách.  Bởi khi đọc sách cảm hứng các em được khơi thông tạo nên sự  rung động trong  tình cảm, tâm hồn làm rung động những ước mơ đẹp, cũng là góp phần bồi dưỡng   vốn sống để các em vận dụng vào học tập một cách hiệu quả. 3. Xác định yêu cầu đề bài Giáo viên cần giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề  bài để  xây dựng hướng làm bài.  Ví dụ: Đề  bài: Miêu tả  cảnh như  sau: “ Em hãy miêu tả  quê hương em vào   một buổi chiều nắng đẹp”. Giáo viên cho học sinh thấy: Trên đây là một đề  bài  dạng miêu tả cảnh tổng hợp. Vậy thế nào là cảnh tổng hợp?  Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 13
  14. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 ­ Giáo viên chỉ  rõ cho thể  học sinh thấy ta xác định cảnh tổng hợp nhờ  những từ ngữ nào.  Ví dụ  1: Đề  yêu cầu tả  cảnh tổng hợp thường chứa những từ  ngữ  như:  “một miền quê, quê hương em, cảnh vùng quê, hoặc cảnh nơi em ở..”  ­ Cảnh tổng hợp là như thế nào? ­ Là cảnh gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ, của quê hương  hay miền quê thường là cảnh đồng, dòng sông, con đường làng, cây đa giếng nước   sân đình, khu vườn xác định đúng yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các em  rất nhiều trong việc định hình được bài làm...sau đó giúp học sinh hình dung được  cụ thể về cảnh miêu tả ở thời gian nào (mùa nào) ở không gian nào ( cảnh đó như  thế nào?) ...  Ví dụ 2: Đề bài : Em hãy miêu tả lại một bác nông dân đang cày ruộng. ­ Đề bài trên thuộc kiểu bài gì ?( Tả người gắn với hoạt động ) ­ Đề bài yêu cầu gì? ( Miêu tả lại một bác nông dân đang cày ruộng) ­ Khi làm kiểu bài văn này em chú ý điều gì? ( Miêu tả hình dáng bên ngoài  gắn với hoạt động thực tại đang diễn ra: quần áo, đặc điểm của khuôn mặt, dáng   vẻ,… các thao tác hoạt động và nêu được cảm xúc về đối tượng miêu tả) 4. Hướng dẫn học sinh tìm ý và lập dàn ý a. Hướng dẫn học sinh tìm ý Sau khi học sinh quan sát và có những ghi chép cơ  bản ban đầu về  đối   tượng. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài tập làm văn của mình bằng  cách: ­ Căn cứ vào hình ảnh được lựa chọn khi quan sát. ­ Căn cứ vào nội dung đã ghi chép. ­ Chọn lọc những hình  ảnh chi tiết, hoạt động đặc trưng riêng, nét đẹp và   khác biệt của đối tượng miêu tả tả chi tiết. ­ Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả  khái quát, bổ trợ  tạo hình ảnh tổng thể về đối tượng. Có thể  lồng ghép các hình ảnh, sự  việc gắn  bó với đối tượng. b. Lập dàn ý: Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng  miêu tả, quan sát và tìm ý nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho   bài viết. Để giúp học sinh định hình được hướng đi của bài viết văn miêu tả cảnh   tôi đã hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho bài văn. Trước khi lập dàn ý cho bài văn miêu tả, học sinh cần nắm chắc bố cục của  một bài văn miêu tả. Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 14
  15. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 Một bài tập làm văn miêu tả trong chương trình tiểu học gồm ba phần: mở  bài, thân bài, kết bài. Riêng với phần mở  bài và kết bài thì học sinh có thể  lựa  chọn: mở bài trực tiếp hoặc mở bài gián tiếp; kết bài mở rộng hoặc kết bài không  mở rộng. * Bố cục của bài văn tả cảnh: Mở bài: Giới thiệu khái quát về cảnh sẻ tả. Thân bài:  Tả  từng phần của cảnh hoặc sựu thay đổi của cảnh theo thời  gian. Kết bài: Nhận xét, cảm nghĩ của người viết. * Bố cục của bài văn tả người. Mở bài: Giới thiệu về người định tả. Thân bài: Tả ngoại hình ( tầm vóc, cách ăn mặc, khuôn mặt…)                    Tả tính tình hoạt động (lời nói, cử chỉ, thói quen…) Kết bài: Nêu cảm nghĩ về người được tả. Lập dàn ý là một việc làm không thể  thiếu khi thực hiện một tiết làm văn  nói chung và văn miêu tả nói riêng. Lập dàn ý giống như một cái “sườn” để các em   dựa vào đó mà hoàn chỉnh bài viết của mình. Nếu học sinh lập được dàn ý đúng   coi như  bài viết đã thành công một nửa. Lập dàn ý nhằm mục đích giúp học sinh  viết được đầy đủ ý, bài văn mạch lạc và theo trình tự nhất định. Thế nhưng, hầu  hết học sinh không có thói quen lập dàn ý trước khi viết dẫn đến bài viết thiếu ý,  lộn xộn về  nội dung và không đi theo một trình tự  nào. Vì vậy nhiệm vụ  của   người giáo viên là phải tạo cho các em thói quen cần thiết và quan trọng này. Trước hết tạo cho các em thói quen rút dàn ý từ  bài văn hoàn chỉnh cho  trước. Ví dụ: Bài “Nắng trưa” ( Sách TV5 tập 1, trang 12), tôi thực hiện như sau:   Cho học sinh thảo luận nhóm ( Sử dụng kĩ thuật mảnh ghép.)  Giai đoạn 1: Các nhóm chuyên sâu xác định từng phần của bài văn. ­ Mở  bài ( câu văn đầu): yêu cầu học sinh nêu ý chính: Nhận xét chung về   nắng trưa ­ Thân bài gồm mấy đoạn nêu ý chính của từng đoạn?     Thân bài gồm 4 đoạn     Đoạn 1: Hơi đất trong nắng trưa dữ dội     Đoạn 2: Tiếng võng đưa và câu hát ru em trong nắng trưa    Đoạn 3: Cây cối và con vật trong nắng trưa    Đoạn 4: Hình ảnh người mẹ trong nắng trưa Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 15
  16. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 ­ Qua đó em thấy bài văn tả theo cách nào?    Tả từng bộ phận của cảnh. Kết bài(câu cuối): Cảm nghĩ về người mẹ làm việc trong nắng trưa. Giai đoạn 2: Nhóm mảnh ghép trả lời 2 câu hỏi sau: ­ Trong bài em thấy câu văn nào thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả? ­ Nêu các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài văn? Ngoài ra, trong các tiết Luyện Tiếng việt, tôi cho học sinh luyện thêm một  số bài tập theo dạng này để học sinh quen dần. Sau khi các em đã quen dần với dạng bài tập trên, tôi cho các em làm sang   dạng bài tập khác: lập dàn ý những gì mình quan sát được theo yêu cầu của giáo  viên. Với những ghi chép qua sự  quan sát về  cơn mưa dông nhiều học sinh lập  được dàn ý rất chi tiết và cụ thể. Để kiểm tra bài làm tôi tổ chức cho học sinh tự  nhiên chia sẻ  bài làm của mình trước lớp, có thể  lớp trưởng thay cô điều hành  kiểm tra, nhận xét bài của bạn. Sau đó giáo viên tổng kết rút ra những ưu điểm để  phát huy và những tồn tại để học sinh khắc phục, sửa chữa. Qua việc chia sẻ bài  làm của các bạn trong lớp, những học sinh làm bài chưa tốt học tập được nhiều  điều hay ở bạn để bổ sung vào bài làm của mình được hoàn thiện hơn. Em Yến Nhi đã lập được dàn ý như sau:  Mở bài: Giới thiệu về sự xuất hiện của cơn mưa dông.  Thân bài:   ­ Cảnh vật trước khi trời mưa.  + Gió thổi mạnh, mây đen ùn ùn kéo đến.  + Sấm, chớp ­ Cảnh vật trong khi trời mưa:  + Mưa quất ầm ầm lên mái ngói.  + Cảnh vườn cây trong cơn mưa: Cây con xơ  xác vì gió đập mạnh, tàu lá  chuối kêu lùng bùng, mấy chú  ếch nhảy qua nhảy lại, đàn gà con trú mưa dưới  hiên.  + Mọi người trong gia đình nói chuyện vui vẻ. ­ Cảnh vật sau cơn mưa:            + Trời quang đãng hẳn lên.            + Mấy chú chim hót râm ran.            + Không khí mát mẻ hơn. Kết bài: Cảm nghĩ của em về cơn mưa.  Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 16
  17. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 Qua việc lập dàn ý như  thế  này học sinh đã phần nào hình dung được bài   viết của mình và chắc chắn một điều rằng bài viết sẽ thành công. Như  vậy việc lập dàn ý không những làm cho công việc viết văn trở  nên  đơn giản hơn mà còn tạo cho các em thói quen làm việc khoa học, có suy nghĩ. 5. Hướng dẫn học sinh sắp xếp, diễn đạt ý Khi học sinh đã biết cách lập dàn ý, để  có thể  viết bài văn một cách hoàn  chỉnh và mạch lạc, học sinh cần phải biết cách sắp xếp ý và diễn đạt ý đó thành   một câu văn, đoạn văn. Hiện nay, nhiều học sinh rơi vào tình trạng nghĩ gì viết   nấy mà không cần biết ý văn đó có lôgic hay không, có đi theo trình tự miêu tả hay   không, dẫn đến bài viết lủng củng, lộn xộn trong cách miêu tả. Chẳng hạn như tả  một chiếc cặp, đang tả  bộ  phận bên trong, quay ra tả bộ phận ngoài rồi lại quay   vào trong tả tiếp. Cách tả  như  vậy cho thấy học sinh không biết cách sắp xếp ý.  Cho nên trong khi dạy giáo viên nên nhắc nhở học sinh ghi nhớ như một điều bắt   buộc là phải tả theo trình tự nhất định.Trong khi trả bài, bài văn nào sai cần nêu ra   ngay trước lớp để cả lớp cùng rút kinh nghiệm. Sửa sai kịp thời là biện pháp hữu   hiệu nhất làm giảm thiểu lỗi mắc phải của học sinh. Sắp xếp ý rồi nhưng làm sao để diễn đạt ý đó thành câu văn, đoạn văn cũng  là vấn đề  rất quan trọng. Nếu học sinh không làm được điều này thì coi như tiết   dạy đó không thành công bởi lẽ sản phẩm cuối cùng của phân môn này là bài viết  của học sinh. Với tôi, khi học sinh chưa quen với việc sắp xếp, diễn đạt ý, tôi thường làm   như  sau: Đưa ra một hoặc một số  câu văn cơ  bản, sau đó cho học sinh nêu cách   diễn đạt của mình từ ý câu văn đó.  Ví dụ 1: Từ câu văn cho trước, hãy diễn đạt thành câu khác có ý tương tự:  Con đường dài ngoằn ngoèo.( Đề  bài: Tả  con đường làng). Một số  học  sinh diễn đạt như sau: ­ Con đường quê em dài ngoằn ngoèo nằm dưới những gốc cây.( câu của  học sinh Thư) ­ Con   đường quê em  uốn lượn quanh co, dài tít tắp. (  câu  của học  sinh  Thắng) ­ Con đường quê em dài ngoằn ngoèo như  một con trăn trườn qua những   khóm cây.( câu của Phong) ­ Nhìn từ  trên cao, con đường giống như  một dải lụa mềm mại uốn lượn   dưới những rặng cây xanh mát.( câu của Hiền An) ­ ... Qua những câu học sinh đưa ra, tôi nhận xét từng câu: Câu 1,2 viết đúng ngữ pháp nhưng chưa hay, chưa thể hiện được ý riêng.  Câu 3 thể hiện được ý so sánh tương đối ấn tượng. Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 17
  18. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 Câu 4 là câu văn hay nhất thể hiện được ý riêng, sáng tạo. Hoặc cho học sinh làm quen với dạng bài tập như sau: Ví dụ 2: Điền thêm từ thích hợp vào chỗ chấm để tạo thành những câu văn   gợi tả, gợi cảm. ­ Trong sân trường, cây bàng….chúng em vào lớp. + Trong sân trường, cây bàng như đang vẫy ta đón chào chúng em vào lớp. ( biện pháp nhân hóa ) ­ Chú méo mướp có đôi mắt tròn đen… + Chú méo mướp có đôi mắt tròn đen như  hai hạt nhãn, bộ  râu rung rung  trắng như cước. ( biện pháp nhân hóa) ­ Những chùm hoa phượng đỏ rực… + Những chùm hoa phượng đỏ  rực đu đua trong gió như  đón chào mùa hè  đến. Ví dụ  3: Từ  một số  câu văn cho trước, yêu cầu học sinh viết thành một  đoạn văn sau khi đã chỉnh sửa: ­ Gốc của cây bàng rất to. ­ Thân cây sần sùi. ­ Cành lá đâm ra tua tủa. ­ Mùa thu những chiếc lá bàng đỏ ối. ­ Đông sang, lá cây rụng hết. ­ Khi xuân về, chồi non bắt đầu nhú lên. Bây giờ cây bàng như được khoác  áo mới.( Đề bài tả cây bàng) Kết quả bài viết của các em có những dấu hiệu đáng mừng: Đa số học sinh   biết diễn đạt thành đoạn văn, có sự  chọn lọc chi tiết. Một số  em còn thể  hiện   được sự so sánh mới lạ như:  Khi xuân về cây bàng như mang một niềm vui mới, những chồi non nhú lên   như những ngọn lửa xanh; hay những cành lá đâm ra tua tủa như như những cánh   tay lớn dang ra nâng đỡ vật gì đó trên trời... Sau đây là bài viết của em Bảo Long, một học sinh năng khiếu: Gốc bàng to nổi lên như những cái gân lớn. Thân cây màu nâu sẫm như màu   đất núi. Nếu bị  che mắt chạm vào thân cây ta có cảm giác như  chạm vào lưng   những con cá sấu. Thân cây dài và thẳng. Cành cây xòe ra như  những cánh tay   khổng lồ. Vào giữa mùa hè, hoa bàng nở  rất nhiều. Khi hoa rụng, quả  nhú ra.   Những quả  bàng khi chín thì rụng xuống. Cứ  như  vậy thì đến mùa thu. Mùa thu   những chiếc lá bàng ngả màu đỏ ối. Sang đông, lá bàng rụng hết chỉ còn mình cây   đứng trơ trụi giữa bầu trời, chịu bao mưa rét. Xuân về, cây côi đâm chồi nảy lộc.   Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 18
  19. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5 Bây giờ, cây bàng như được khoác lên mình bộ  áo mới. Như  thế một năm đã trôi   qua... Bằng cách này, tôi đã giúp các em biết cách sắp xếp và diễn đạt ý thành một  câu văn, đoạn văn. Tình trạng câu văn bị viết sai cấu trúc giảm dần. Bên cạnh đó, giáo viên cần linh hoạt trong việc dạy phối kết hợp Tập làm   văn với các phân môn khác như luyện từ và câu, Tập đọc, Chính tả để khắc phục  những lỗi mà học sinh thường mắc phải như lỗi chính tả, lỗi dùng từ  chưa đúng   nghĩa, lỗi viết câu sai cú pháp... 6. Nhận xét bài thường xuyên, sửa sai kịp thời cho học sinh Việc đánh giá xếp loại theo thông tư 30 là điều kiện thuận lợi để tôi làm tốt  công việc này. Thông qua việc nhận xét bằng lời của giáo viên và học sinh cũng  như  đánh giá bằng nhận xét trong vở  của các em, giúp các em thấy rõ những  ưu  điểm để  phát huy và nhận ra những tồn tại và thiếu sót để  khắc phục. Đặc biệt   qua lời tư vấn của cô các em dễ dàng khắc phục những tồn tại của mình để  làm  bài tốt hơn. Như vậy để  giúp các em tiến bộ  trong làm văn thì việc nhận xét của   giáo viên không kém phần quan trọng. Do đó tôi thường đầu tư rất nhiều thời gian   cho việc nhận xét bài làm cho học sinh (đưa vở về nhà nhận xét ). Kiểm tra bài và nhận xét bài thường xuyên là cách ngắn nhất giúp giáo viên   có thể đến gần với từng đối tượng học sinh, nắm được tình hình và khả năng viết  văn của các em. Thực tế nhiều giáo viên rất ngại khi nhận xét bài cho học sinh vì   công việc này mất nhiều thời gian. Cho nên để  có kết quả  như  mong đợi, người  giáo viên  phải chịu khó, kiên trì. Mặt khác, do nhận thức chưa đúng, một số giáo  viên rất ít khi dạy tiết Trả bài văn cho học sinh vì thấy nó không quan trọng nhiều.  Nhưng thực chất đây là một tiết cực kì quan trọng. Trong tiết này giáo viên có  nhiều thời gian để nhận xét về cách làm bài của từng học sinh, chỗ nào chưa đúng  nhắc nhở và yêu cầu học sinh sửa sai ngay. Ví dụ: Về một câu văn của học sinh Trương Đình Lâm viết: Hôm nay, khi nghe ti vi thông báo là có ca sĩ Hồ  Ngọc Hà biểu diễn, em   quấn quýt, hồi hộp chờ đến giờ xem Hồ Ngọc Hà biểu diễn.(đề bài: Tả một ca sĩ   mà em yêu thích) Tôi đọc to câu văn này lên cho cả lớp cùng nghe sau đó yêu cầ các em nhận   xét về  cách dùng từ  của bạn. Hầu hết các em đều nhận ra từ  “quấn quýt” dùng  chưa đúng, và tên Hồ Ngọc Hà, từ “biểu diễn” bị dùng lặp lại. Tôi phân tích để các em hiểu: từ quấn quýt chỉ dùng trong trường hợp chỉ sự  thân mật với người thân, người gần gũi với mình. Chẳng hạn: Khi em đi học về,  chú chó chạy xồ ra, quấn quýt bên chân em mãi không thôi. Sau đó tôi cho các em tự sửa lại. Hầu hết các em đều sửa được. Chẳng hạn   như: Hôm nay, khi nghe ti vi thông báo là có ca sĩ Hồ Ngọc Hà biểu diễn, em háo   hức, hồi hộp chờ  đến giờ  xem cô ca sĩ này bước ra sân khấu.(câu của học sinh  Linh) Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 19
  20. Mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho häc sinh líp 5   Không những chỉ  trong tiết trả  bài mà trong các giờ  khác, công việc này  cũng nên làm một cách thường xuyên để  các em không tái phạm và có điều kiện   để  phát triển hơn. Với những bài làm tốt, giáo viên nên động viên, khen ngợi kịp   thời tạo hứng thú cho các em say mê học tập. 7. Làm giàu vốn từ cho học sinh Nếu học kiểu bài kể chuyện học sinh chỉ tái hiện đã nghe, đã đọc là có thể  đạt được yêu cầu cơ  bản của đề  bài thì văn miêu tả  đòi hỏi phải có một vốn từ  phong phú mới có thể làm phong phú đa dạng và không ngừng biến đổi.  Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát tranh ảnh, xem phim,  đọc sách truyện, của Tiếng Việt hoặc các môn học khác. Thông qua môn Luyện từ  và câu, Tập đọc tôi cũng cấp cho các em vốn từ  ngữ  theo chủ  điểm, từ  láy, từ  tượng thanh, từ tượng hình, từ cùng nghĩa, từ trái nghĩa… Đặc biệt ở chính phân môn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh làm  giàu vốn từ theo các đề tài nhỏ vào các tiết luyện buổi chiều. Bằng cách tổ  chức   cho học sinh tìm từ  dưới dạng trò chơi học tập hoặc thảo luận theo nhóm có sử  dụng các kĩ thuật dạy học tích cực. Qua hoạt động này vừa cung cấp vốn từ  cho   học sinh vừa hình thành một số  năng lực phẩm chất tốt của người học sinh. Giờ  học diễn ra rất nhẹ nhàng và bổ ích. * Sử dụng từ ngữ trong miêu tả: Sau khi học sinh đã có một vốn từ  nhất định, giáo viên giúp học sinh các   cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ  tuyệt đối   (đỏ  mọng, đặc  sệt, trong  suốt...), sử  dụng các biện pháp nghệ  thuật (so sánh,  nhân hoá,...). Ví dụ  1: Cho các từ  “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ  từ...” Hãy   chọn   từ   thích   hợp   điền   vào   chỗ   trống   trong   đoạn   văn   sau:   “Tiếng  chim... báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời...  nhô lên sau luỹ  tre xanh.  Khói bếp nhà ai... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường  làng đã... người qua lại.” Ví dụ  2: Hãy chọn từ  ngữ  thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ  trống để  được các câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ  tinh, dải lụa, giọng bà tiên). ­ Hoa xoan nở từng chùm trông giống như...    ( những chùm sao ) ­ Nắng cứ như...xối xuống mặt đất.                   ( thuỷ tinh ) ­ Giọng bà trầm ấm ngân nga như...                  ( tiếng chuông ) Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS   phải suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ. 8. Rèn kĩ năng sử dụng dấu câu thích hợp Gi¸o viãn: TrÇn ThÞ YÕn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2