intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp chỉ đạo dạy học môn Toán ở Tiểu học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

44
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để dạy học môn Toán ở Tiểu học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh đạt hiệu quả cao chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào để góp phần vào công tác giáo dục hiện nay với quan điểm giáo dục mới và hiện đại. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm một số giải pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp chỉ đạo dạy học môn Toán ở Tiểu học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn sáng kiến. Trên thế giới, từ cuối thế kỉ XX đến nay, nhiều nước tiên tiến đã và đang   thực hiện xây dựng chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực  người học. Tùy thuộc vào đặc điểm của mình mà mỗi nước coi trọng những   năng lực nhất định, cách diễn đạt năng lực cũng không giống nhau trong chương   trình giáo dục của các nước. Nhưng hầu hết các nước đều chú ý hình thành, phát  triển những năng lực cần cho việc học suốt đời, gắn với cuộc sống hang ngày, ̀   trong đó chú trọng các năng lực chung như: năng lực tự học, học cách học; năng  lực cá nhân (tự  chủ, tự  quản lí bản thân); năng lực xã hội, năng lực hợp tác;  năng lực giao tiêp; năng l ́ ực tư  duy, năng lực giải quyết vấn đề; năng lực công  nghệ thông tin và truyền thông…Còn ở Việt Nam, giáo dục phải hướng tới phát  triển các năng lực chung và năng lực đặc thù liên quan đến từng lĩnh vực giáo   dục/môn học/hoạt động trải nghiệm sáng tạo mà mọi học sinh đều cần có trong  cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện phát triển tốt tiềm năng của mỗi học sinh.   Cấp Tiểu học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực chung như: Tự  phục vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề. Ngoài những  năng lực chung, các năng lực đặc thù môn học được nêu ở các chương trình môn  học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo như: năng lực Toán, năng lực Âm nhạc,   năng lực Mĩ thuật,… Trong   các   môn   học,Toán   học   là   một   trong   những   bộ   phận   cấu   thành  chương trình Tiểu học đóng vai trò rất quan trọng. Nó cung cấp những kiến   thức cơ bản về số học, các yếu tố hình học, các yếu tố đại lượng, đo đại lượng   và giải toán đồng thời giúp học sinh phát triển năng lực tư  duy, giải quyết vấn  đề, giao tiếp toán học và năng lực sử  dụng các công cụ, phương tiện học toán  khi tiếp xúc với những  “tình huống toán học”,  học sinh có khả  năng làm chủ  các hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ phù hợp với lứa tuổi và vận dụng chúng  một cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ  học tập, giải quyết hiệu   quả  những vấn đề  đặt ra cho chính các em trong cuộc sống  hàng ngày, trong  hoạt động lao động. Tuy nhiên, trong thực tế, việc đổi mới phương pháp dạy học theo định  hướng phát triển năng lực cho học sinh đòi hỏi phải lấy học sinh làm trung tâm  cho mọi hoạt động dạy học, phải dạy học sinh tự phát hiện và làm chủ tiết học   quả  là rất khó. Một phần là do đa số  giáo viên đã quen với cách dạy truyền   thống, giáo viên chỉ cố gắng để  học sinh ghi nhớ bài học, thậm chí áp đặt một  cách máy móc, cứng nhắc, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh chỉ theo một  chiều từ trên xuống. Mặt khác, nếu dạy học theo phương pháp này có người cho  rằng giáo viên sẽ  rất “nhàn” nhưng đối với tôi, giáo viên rất vất vả  vì phải  ­1­
  2. chuẩn bị  rất kĩ nội dung dạy học và tới lớp cũng phải linh hoạt theo từng đối  tượng học sinh. Hơn nữa, cách dạy này cần nhiều thời gian và học sinh tiểu học  còn chưa quen nên nhiều khi khó thực hiện hoặc thực hiện không có hiệu quả.  Do đó việc tìm tòi đổi mới cách dạy, cách học, qua đó phát triển năng lực cho  học sinh trong dạy học nói chung và dạy học môn Toán nói riêng luôn được các   cấp quản lý đặc biệt quan tâm.  Vậy để  dạy học môn Toán  ở  Tiểu học theo định hướng phát triển năng  lực của học sinh đạt hiệu quả cao chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào  để  góp phần vào công tác giáo dục hiện nay với quan điểm giáo dục mới và  hiện đại? Đây là một trong những vấn đề  mà tất cả  những người làm công tác  giáo dục nói chung và những người làm công tác quản lí trường học nói riêng  luôn trăn trở, quan tâm và đây cũng là lí do chính để tôi chọn sáng kiến “Một số   giải pháp chỉ đạo dạy học môn Toán ở Tiểu học theo định hướng phát triển   năng lực của học sinh”. 1.2. Phạm vi áp dụng của sáng kiến:  Trong đề  tài này bản thân chỉ  đi sâu vào nghiên cứu “Một số  giải pháp   chỉ đạo dạy học môn Toán ở Tiểu học theo định hướng phát triển năng lực   của học sinh” ở trường tôi phụ trách, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy  ­ học môn Toán nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung.  1.3. Điểm mới của sáng kiến: Sáng kiến “Một số  giải pháp chỉ  đạo dạy học môn Toán  ở  Tiểu học   theo định hướng phát triển năng lực của học sinh ”.  được bản thân nghiên  cứu trong hai năm chỉ  đạo dạy học tại trường. Từ  đổi mới cách học của học  sinh thông qua đổi mới dạy học của giáo viên, đổi mới tổ  chức các hoạt động  dạy học Toán theo 5 bước: Tình huống xuất phát/câu hỏi nêu vấn đề ­> Bộc lộ  ý tưởng ban đầu ­> Đề  xuất phương án thực hành/giải quyết vấn đề  ­> Tiến   hành giải quyết vấn đề  ­> Kết luận, hợp thức hóa kiến thức.  Vận dụng đến  việc  chỉ  đạo đổi mới cách đánh giá năng lực Toán học theo định hướng phát  triển năng lực của học sinh, đổi mới sinh hoạt chuyên môn trong dạy học môn  Toán theo hướng tiếp cận bài học. 2. PHẦN NỘI DUNG      2.1. Thực trạng của vấn đề Dạy học lấy học sinh làm trung tâm trong  môn Toán học lớp ở trường tôi đang công tác:      2.1.1. Những thuận lợi và khó khăn:     * Thuận lợi: ­2­
  3. ­ Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Toán theo định hướng phát triển  năng lực của học sinh đã được đặt ra với tất cả các cấp học trong hệ thống giáo  dục. Đặc biệt khi chúng ta đang tiến hành đổi mới chương trình sách giao khoa   thì vấn đề  đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực  của học sinh đã trở thành một yêu cầu cấp thiết. ­ Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương và sự  chỉ  đạo trực tiếp của Sở  Giáo dục ­ Đào tạo Quảng Bình, Phòng GD&ĐT Lệ  Thủy về vấn đề  chuyên môn cũng như  kỹ  thuật dạy học theo định hướng phát  triển năng lực của học sinh. ­ Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo dân chủ, thân thiện, chú trọng   đổi mới các hoạt động giáo dục, có đầy đủ  các điều kiện cho việc triển khai   thực hiện đổi mới phương pháp dạy học  theo định hướng phát triển năng lực  của học sinh. ­ Nhà trường đã tạo được sự  gắn kết chặt chẽ  giữa phụ  huynh và cộng  đồng nhằm phát huy vai trò tích cực của phụ huynh và cộng đồng tham gia cùng   nhà trường trong hoạt động giáo dục học sinh với các hình thức hoạt động phù  hợp như: thực hiện xây dựng sơ  đồ  cộng đồng, tổ  chức Hội đồng tự  quản của   học sinh, xây dựng góc học tập, thư viện lớp học và cùng tham gia đánh giá kết  quả giáo dục của học sinh. ­ Trong hai năm qua, cán bộ quản lý, giáo viên trong nhà trường đã được  tập huấn về công tác đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển  năng lực của học sinh nên nghiệp vụ sư  phạm ngày được nâng cao, có kĩ năng  điều hành các hoạt động dạy học và biết cộng tác theo hướng tích cực trong  giáo dục. ­ Mô hình trường học mới là mô hình dạy học hướng tới việc đáp ứng các   yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giúp học sinh  phát huy tính tự  học, sáng tạo, tính tự  giác, tự  quản, sự  tự  tin, hứng thú trong  học tập.  ­ Phụ huynh làm tốt vai trò của mình trong việc phối kết hợp giáo dục và  tham gia đánh giá học sinh. ­ Học sinh được học tập theo mô hình trường học mới nên các em đã thích  nghi với phương pháp tự  học, biết cộng tác, hợp tác với mọi người trong việc  phát hiện kiến thức mới. Vai trò điều hành của Hội đồng tự quản được phát huy   tốt trong mọi hoạt động giáo dục. * Khó khăn: ­3­
  4. ­ Một số  học sinh có bố  mẹ  đi làm ăn xa, các em phải  ở  với ông, bà. Vì  thế các em chưa được quan tâm đúng mức tới việc học tập. ­ Không gian lớp học chưa đảm bảo trong khi đó, sĩ số  học sinh đông (có   lớp đến 32 em) nên việc tổ  chức các hình thức tổ  chức học tập như: trò chơi,  học theo nhóm….. gặp nhiều khó khăn. ­ Một số giáo viên còn mang nặng lối dạy truyền thống (mặc dù đã được  tập huấn), nặng về thuyết trình, ít chịu khó đổi mới phương pháp dạy học; kỹ  năng sư phạm của một số giáo viên trong việc tổ chức, điều hành cho học sinh  tích cực hoạt động, tự  học, tự  chiếm lĩnh kiến thức vẫn còn hạn chế. Một số  giáo viên ngại tìm tòi, suy nghĩ các tình huống sư  phạm tối  ưu để  tạo cho tiết  dạy hấp dẫn và có sức lôi cuốn học sinh.        ­ Một số nhóm trưởng chưa nắm được cách điều hành nhóm; một số  học  sinh còn thụ  động trong việc giải quyết vấn đề  và năng lực  sử  dụng các công  cụ, phương tiện học toán còn hạn chế.  Tình trạng một số  nhóm, một số  học  sinh hoạt động chưa tích cực trong các tiết học vẫn còn. ­ Chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự  học không khỏi gây phụ  huynh tâm lí hoang mang sợ  con em mình không tiếp  thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh có kiến thức kĩ năng,   năng lực, phẩm chất còn hạn chế.  2.1.2. Kết quả qua điều tra, khảo sát: Số HS  Kết quả khảo sát Thời  được  Chưa  Năng lực Tốt Đạt gian khảo  đạt sát SL % SL % SL % Năng lực tư duy toán học. 13 18, 46 65, 11 15,7 6 7 Đầu  Năng   lực   giải   quyết   vấn  17, 68, 12 48 10 14,3 đề. 4 6 năm học  70 2018 ­  Năng   lực   giao   tiếp   toán  18, 67, 13 47 10 14,3 2019 học 6 1 Năng lực sử dụng các công  17, 67, 12 47 11 15,7 cụ, phương tiện học toán. 4 1 *Ưu điểm: Giáo viên đã quan tâm đến quá trình học, biết khai thác động lực học tập,  gắn việc học với nhu cầu, lợi ích cá nhân học sinh. Chú trọng kĩ năng thực hành   ­4­
  5. vận dụng kiến thức, năng lực phát hiện và tự  giải quyết vấn đề  của thực tiễn  qua phương pháp dạy học  theo định hướng phát triển năng lực của học sinh .  Quan tâm vận dụng các phương tiện dạy học hiện đại để  học sinh hoàn thành  nhiệm vụ  học tập theo tiến độ  phù hợp với năng lực từng em, chú ý đến việc   đánh giá và hướng dẫn cho học sinh năng lực tự đánh giá để tự điều chỉnh cách  học, khuyến khích cách học thông minh, sáng tạo. Học sinh biết tham gia hoạt động, làm việc trong nhóm nhằm chiếm lĩnh  tri thức, tìm hiểu và giải quyết nhiệm vụ  học tập. Các em có khả  năng điều  hành nhóm hoạt động và báo cáo kết quả khi kết thúc mỗi hoạt động. Biết chia  sẽ kinh nghiệm với bạn bè và học hỏi từ bạn bè cũng như  việc trao đổi những  điều đã học và cách học với người khác. Bước đầu các em có năng lực tự học,   tự tìm tòi kiến thức, biết tham gia đánh giá và biết đánh giá kết quả lẫn nhau. * Tồn tại: Trong quá trình dạy học, có thể  nói người giáo viên còn chưa có sự  chú ý  đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh phát triển năng lực. Một số học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, chưa chịu   khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để  biến tri thức của tài liệu thành của mình nâng cao năng lực giải quyết. Một số  học sinh năng lực giao tiếp và sử  dụng các công cụ, phương tiện học toán còn  hạn chế. * Nguyên nhân:  Khi dạy học, tình trạng coi trọng vai trò trung tâm của người thầy vẫn   còn, chưa thật sự chú trọng vai trò trung tâm của người học trong việc lĩnh hội   và tiếp thu tri thức. Do giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học  theo  định hướng phát triển năng lực của học sinh   chưa triệt để. Vẫn còn một bộ  phận học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn. Việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn của giáo viên  có lúc không gắn với các tình huống thực tiễn. Nội dung được quy định chi tiết   trong chương trình.Tiêu chí đánh giá được xây dựng chủ  yếu dựa trên sự  ghi  nhớ và tái hiện nội dung đã học.  2.2. Một số  giải pháp chỉ  đạo dạy học Toán  ở  Tiểu học theo định   hướng phát triển năng lực học sinh. 2.2.1.Triển khai thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định   hướng phát triển năng lực học sinh. ­5­
  6. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng   lực học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đáp  ứng tốt yêu  cầu của xã hội. Quá trình thực hiện sự  đổi mới này có thành công hay không   phụ  thuộc phần lớn vào công tác quản lí của người quản lí. Vì vậy, “Phải đổi  mới quản lí để quản lí sự  đổi mới”. Trong đổi mới phương pháp dạy học theo  định hướng phát triển năng lực học sinh, giáo viên và học sinh là những chủ thể  có vai trò quyết định trực tiếp đến chất lượng dạy học cũng như sự thành công  của đổi mới phương pháp dạy học. Vì vậy, trọng tâm của quản lí đổi mới  phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là quản lí  hoạt động giảng dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh. Quản lí thực  hiện đổi mới phương pháp dạy học trong trường tiểu học bao gồm nhiều nội   dung, trong đó có: ­ Quản lí xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình dạy học bám sát các  yêu cầu dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng và đổi mới kiểm tra đánh giá kết   quả học tập của học sinh. ­ Quản lí việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp. ­ Quản lí giờ lên lớp. ­ Quản lí việc giáo viên kiểm tra, đánh giá kết quả  học tập của học sinh   theo hướng đổi mới. ­ Quản lí bồi dưỡng giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học. ­ Quản lí cơ sở vật chất và thiết bị dạy học. ­ Quản lí việc học tập của học sinh. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng   lực học sinh được tiếp cận quản lí sự thay đổi với các bước sau: Bước 1. Chuẩn bị cho việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo   định hướng phát triển năng lực học sinh. Để thực hiện tốt bước này nhà trường cần khuyến khích các ý tưởng đổi  mới bằng việc tuyên truyền các thông tin về  bối cảnh và học tập kinh nghiệm  của những trường điển hình, tổ chức hội thảo các vấn đề liên quan đến đổi mới   phương pháp dạy học. Bước 2. Xây dựng kế hoạch triển khai đổi đổi mới phương pháp dạy học   theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Khi lập kế  hoạch điều quan trọng là xác định rõ mục tiêu, yếu tố  chính  của vấn đề. Phân công người phụ  trách, người tham gia vào các công việc, dự  ­6­
  7. kiến các biện pháp cách thức duy trì đổi mới phương pháp dạy học để đạt được   mục tiêu. Bước 3. Tổ  chức thực hiện  đổi mới phương pháp dạy học theo  định   hướng phát triển năng lực học sinh.. Trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học phải chú trọng  tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên cả  về  thời gian lẫn vật chất để  giáo viên  yên tâm thực hiện. Bước 4. Đánh giá và duy trì thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo   định hướng phát triển năng lực học sinh. * Yêu cầu: Đối với cán bộ quản lý, đoi hoi trinh đô,  ̀ ̉ ̀ ̣ năng lực được nâng  ̉ ́ ̉ quản lí, chi đao, giam sat, kiêm tra, đanh gia tât ca các y lên đê co thê  ̉ ̣ ́ ́ ̉ ́ ́ ́ ̉ ếu tố  từ  mục tiêu, nội dung,  phương pháp,  hình thức tổ  chức dạy học, đêń  sách giáo  ̀ ̣ hướng dẫn, đánh giá kết quả học tập nhằm xác định được mức độ  khoa, tai liêu  tiến bộ của học sinh sau một tiết học; cán bộ quản lý cân phai biêt huy đông moi ̀ ̉ ́ ̣ ̣  ̀ ực đê đam bao cac điêu kiên nâng cao chât l nguôn l ̉ ̉ ̉ ́ ̀ ̣ ́ ượng hoạt động dạy học cuả   ̀ ường.  nha tr 2.2.2.  Bồi   dưỡng   nhận   thức   về   giáo   dục  "Dạy   học   Toán   theo   định   hướng phát triển năng lực học sinh" từ phía giáo viên. Mỗi một giáo viên phải tuyệt đối tin tưởng vào đường lối đổi mới của  Đảng,   tin   tưởng   vào   định   hướng   giáo   dục   và   sự   đổi   mới   từ   nội   dung   đến  phương pháp dạy học. Là giáo viên phải thường xuyên học tập, nhận ra những   thực trạng của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh . Từ  đó chính giáo viên sẽ  góp phần tạo nên những giải pháp thiết thực nhất và sẽ  tiên phong thực hiện các giải pháp, thẳn thắn đánh giá nó nhằm nâng cao hiệu   quả giáo dục. ̣ ̣ ̣ ̉ ̉ ̣ Hoat đông day cua giao viên chuyên thanh hoat đông t ́ ̀ ̣ ự  hoc cua hoc sinh. ̣ ̉ ̣   Để làm được điều này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có hiểu biết cơ bản về   năng  lực toán học cần hình thành và phát triển cho học sinh tiểu học. Cụ thể học sinh   cần đạt những năng lực toán học như sau:  ­ Năng lực tư duy: Là tổng hợp những khả  năng ghi nhớ, tái hiện, trừu tượng hóa, khái quát  hóa, tưởng tượng, suy luận­giải quyết vấn đề, xử lý và linh cảm trong quá trình  phản ánh, phát triển tri thức và vận dụng chúng vào thực tiễn. Năng lực tư  duy   của học sinh tiểu học trong quá trình dạy học toán thể hiện qua các thao tác chủ  yếu: phân tích và tổng hợp; so sánh và tương tự; đặc biệt hóa và khái quát hóa.  ­7­
  8. ­ Năng lực giải quyết vấn đề: Là khả năng cá nhân sử dụng hiệu quả các quá trình nhận thức, hành động   và thái độ, động cơ, xúc cảm để  giải quyết những tình huống có vấn đề  mà ở  đó không có sẵn quy trình, thủ tục, giải pháp thông thường. Đây là một trong những năng lực mà môn Toán có nhiều thuận lợi để phát   triển cho học sinh thông qua tiếp nhận khái niệm, quy tắc toán học, đặc biệt là  qua giải toán. ­ Năng lực giao tiếp toán học:  Là khả năng sử  dụng các dạng ngôn ngữ  nói, viết và biểu diễn toán học  để  thuyết trình và giải thích làm sáng tổ  vấn đề  toán học. Năng lực giao tiếp  liên quan tới việc sử  dụng ngôn ngữ  toán học (chữ, ký hiệu, biểu đồ, các liên  kết loogic,..) kết hợp với ngôn ngữ  thông thường. Năng lực này được thể  hiện  qua việc hiểu các văn bản toán học, đặt câu hỏi, trả  lời câu hỏi, lập luận khi   giải toán,… ­ Năng lực sử  dụng các công cụ, phương tiện học toán (bao gồm các   phương tiện thông thường và bước đầu làm quen với sử dụng công nghệ thông   tin)   Giúp học sinh làm quen với các phương tiện toán học thông thường và  bắt đầu làm quen với công nghệ thông tin. 2.2.3. Chỉ  đạo đổi mới về  cách học theo hướng phát triển năng lực   của học sinh.   Mỗi hướng dẫn học trong sách bao gồm một chuỗi các hoạt động được  thiết kế  nhằm giúp học sinh tự  học bằng cách thực hiện các yêu cầu, các chỉ  dẫn, trong bài học. Vì vậy, trước hết người giáo viên cần quan tâm luyện tập  cho học sinh các kĩ năng sau: kĩ năng làm việc cá nhân, kĩ năng làm việc hợp tác  theo cặp, theo nhóm, kĩ năng sử  dụng đồ dùng học tập, góc học tập, kĩ năng tự  học ở môi trường xung quanh, gia đình và cộng đồng. Đồng thời giáo viên phải   rèn cho học sinh có được nhận thức đúng đắn về  mục đích học tập và tự  lực,  tích cực thực hiện mục đích đó bằng hành động của chính mình. Học sinh được  học tập theo khả  năng và nhịp độ  của riêng mình phù hợp với trình độ  nhận   thức của cá nhân học sinh. Vì vậy, kế hoạch dạy học cần được bố trí một cách   linh hoạt. Mỗi học sinh được giao nhiệm vụ và mục tiêu học tập cụ thể, nhưng   luôn có thể  tự  điều chỉnh hoạt động của chính mình để  việc học phù hợp với  nhịp độ tiếp thu của bản thân.  Hoạt động tự học của học sinh vừa rèn luyện tính  độc lập tích cực của học sinh, đồng thời thúc đẩy sự tham gia hợp tác, tăng cường   ý thức tập thể của học sinh . ­8­
  9. 2.2.3.1. Học sinh tham gia hoạt động học tập Toán học theo hướng phát   triển năng lực phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau: Học sinh phải được học thông qua việc quan sát các sự  vật, hiện tượng   của thế giới thực tại xẩy ra hằng ngày, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận đối   với các em; các em sẽ thực hành để qua đó thu nhận được kiến thức mới Học sinh phải trải qua quá trình tìm hiểu, suy nghĩ và lập luận; đưa ra   tranh luận trước tập thể  những ý nghĩ và lập luận của mình, từ  đó các em tự  điều chỉnh nhận thức và lĩnh hội tri thức mới. Những hoạt động do giáo viên đề  xuất cho học sinh được tổ  chức theo   một tiến trình dạy học nhằm nâng cao dần mức độ  tiếp thu tự  lực và sáng tạo   của các em. Các hoạt động này phải làm cho các nội dung học tập được nâng  cao lên và dành phần lớn hoạt động ở trường cho sự tự chủ của học sinh. Qua các hoạt động, học sinh chiếm lĩnh dần dần các khái niệm toán học  và kĩ năng thực hành, đồng thời củng cố và phát triển ngôn ngữ viết và nói. 2.2.3.2. Tổ chức dạy học nhóm theo mô hình trường học mới.  Trong mô hình trường học mới tại Việt Nam, Nhóm học tập (gọi đơn  giản là nhóm) là hình thức tổ  chức dạy học trong đó tất cả  các học sinh của  nhóm cùng thực hiện một nhiệm vụ  nhất định, trong một htời gian nhất định.  Trong nhóm, dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng, học sinh kết hợp làm việc giữa   cá nhân, làm việc theo cặp, thảo luận trong nhóm, chia sẻ kinh nghiệm hợp tác   cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ được giao. Vấn đề  quan trọng nhất là phải bồi dưỡng giáo viên đào tạo được các   nhóm trưởng điều hành hoạt động học tập của nhóm làm việc tích cực với   nhau, trao đổi, thảo luận sôi nổi, tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết   lắng nghe, tạo cơ hội cho mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, biết  tóm tắt ý kiến, thống nhất và chưa thống nhất của nhóm, biết làm theo sự phân  công trong nhóm trong mọi công việc liên quan đến học tập. Nhóm trưởng có vai trò rất quan trọng trong tất cả  các hoạt động của  nhóm, được coi như  là “cô giáo/thầy giáo nhỏ”. Nhóm trưởng giúp giáo viên  quản lí hoạt động của nhóm, phân việc và phân vai cho các thành viên trong  nhóm, tổ chức thảo luận, giúp đỡ các thành viên cùng nhau làm việc, đọc nhiệm   vụ, đưa ra các hướng dẫn, giải thích làm cầu nối giữa nhóm với giáo viên và   toàn lớp. Nhóm trưởng cũng là một học sinh đang cùng học tập với các bạn, cũng  phải lo hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách xuất sắc. Do đó giáo viên trường   tôi đã hướng dẫn, tập dượt và và hỗ trợ cho nhóm trưởng các hoạt động hết sức  ­9­
  10. cụ thể. Trong năm học qua nhà trường đã tổ chức 2 đợt tập huấn Nhóm trưởng,  một lần tổ  chức hội thi Nhóm trưởng giỏi. Chính vì vậy những nhóm trưởng  trong các lớp học luôn có ý thức hoàn thành nhiệm vụ  học tập và gương mẫu  trong các hoạt động của lớp, của nhà trường. Các em đều có khả  năng điều   hành nhóm, điều phối các thành viên nhóm hoạt động và kết nối giữa nhóm với  lớp với giáo viên; nhanh nhẹn, hoạt bát. Các nhóm trưởng đều có uy tính trong  lớp, bảo ban, cuốn hút được các bạn cùng thực hiện các hoạt động trong nhóm.   Biết tiếp thu, tổng hợp các nội dung thảo luận trong nhóm một cách thực tế và   trung thực. * Lưu ý: Tùy theo khả  năng phát triển, sự  trưởng thành của học sinh mà  giáo viên giao nhiệm vụ trưởng nhóm thích hợp. Cũng cần hiểu rằng, một học  sinh làm tốt vai trò nhóm trưởng cũng chính là lúc em đó đã thực sự trưởng thành  (đây là mong muốn của bản thân học sinh và phụ huynh), do đó cần hướng dẫn,   tập   huấn   và   bồi   đưỡng   cho   nhiều   học   sinh   được   làm   nhóm   trưởng.   Nhóm  trưởng không những thay đổi trong nhóm mà còn được luân chuyển là nhóm   trưởng ở nhiều nhóm khác.         Một điều nữa cần phải lưu ý đó là vị trí đứng của giáo viên khi các nhóm  thảo luận cũng hết sức quan trọng. Qua kinh nghiệm chỉ   đạo dạy học theo  nhóm, tôi nhận thấy giáo viên nên bao quát lớp, vừa đánh giá đúng nhóm nào làm   nhanh nhất, chậm nhất, nhóm nào giơ  thẻ  hoàn thành lên trước hoặc nhóm nào  chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ cần cứu trợ, để từ đó giáo viên kịp thời đến kiểm  tra hay giúp đỡ. 2.2.4. Chuyển quá trình dạy học của giáo viên thành quá trình tự  học   của học sinh.  ̣ ̣ ̣ ̉ ̉ ̣ ̣ Hoat đông day cua giao viên chuyên thanh hoat đông t ́ ̀ ự  hoc cua hoc sinh. ̣ ̉ ̣   Để  làm được điều này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có hiểu biết cơ  bản về  nội   dung chương trình Toán học của lớp học, nắm được tâm sinh lý của học sinh.  Mạnh dạn đổi mới cách thiết kế  và tổ  chức lớp học trong đó các hoạt động   thực hành cần được thực hiện thường xuyên. Chuyển quá trình thuyết giảng  một cách hình thức, áp đặt của giáo viên thành quá trình tự học, tự tìm tòi, khám  phá của học sinh. 2.2.4.1. Quá trình tự học của học sinh cần tuân thủ một số yêu cầu sau: Tự học là một hình thức học. Vì vậy hoạt động tự học cũng phải có mục  đích, nội dung và phương pháp phù hợp. Hình thức tự học đối với học sinh tiểu   học cần có sự  tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, vừa phải đảm bảo thực hiện  đúng quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức của   học sinh tiểu học. ­10­
  11. Bảo đảm hình thành  ở  học sinh kĩ năng tự  học từ  thấp lên cao, tự  học  từng phần dưới sự hướng dẫn của giáo viên cho đến tự học hoàn toàn. Bảo đảm cho giáo viên thu nhận thông tin phản hồi về kết quả học tập của  học sinh sau quá trình tự học và giúp đỡ điều chỉnh nhịp độ học tập của học sinh   khi cần thiết. Với học sinh tiểu học, tự học được biểu hiện trên một số vấn đề sau đây: ­ Tự giác thực hiện các hoạt động cá nhân, tự  mình chiếm lĩnh kiến thức   bài học, luyện tâp, thực hành để  hình thành và phát triển các kĩ năng, năng lực.   Biết tìm kiếm sự  hỗ  trợ  từ  bạn bè, thầy cô để  hoàn thành nhiệm vụ  học của   bản thân. ­ Chủ động tham gia vào các hoạt động động cặp đôi, nhóm lớn, ­ Tự kiểm tra, đánh giá kết quả của bản thân và các bạn trong nhóm, trong   lớp. ­ Trong quá trình dạy học trên lớp, giáo viên có thể thực hiện theo trình tự: + Giúp học sinh nắm được mục tiêu nhiệm vụ học tập; + Tự mình giải quyết nhiệm vụ học tập; + Khi gặp khó khăn mới trao đổi với bạn (khi đó nhóm học tập hình thành một cách tự nhiên theo nhu cầu của chính các em).          + Các bạn trong nhóm trao đổi bài kiểm tra cho nhau, nói cho nhau kết quả,  cách làm của mình;           + Báo cáo kết quả học tập trước lớp cho các bạn và cô giáo;           + Thực hiện nhiệm vụ học tập mới; Trong khi học sinh tham gia các hoạt động học tập, giáo viên chọn vị  trí   thích hợp quan sát thái độ, cử chỉ nét mặt để phát hiện em nào gặp khó khăn, kịp  thời có biện pháp giúp đỡ. Nếu nhiệm vụ học tập là vấn đề khó với đa số học   sinh, giáo viên mới hướng dẫn chung với cả lớp. Với cách tổ chức dạy học như  vậy, cách đánh giá học sinh cũng được chuyển trọng tâm từ đánh giá "kết thúc",  đánh giá "tổng kết" sang đánh giá quá trình, đánh giá "tiến trình". 2.2.4.2.  Xây dựng vai trò tự học, tự quản ở mỗi cá nhân học sinh. Học sinh được chủ động, tự thiết kế, tổ chức, tự lựa chọn nội dung, cách  thức hoạt động phù hợp với bản thân, nhóm, lớp và được hoạt động một cách  thoải mái theo nhu cầu, nguyện vọng của mình dưới sự điều hành của Hội đồng  tự quản, của giáo viên qua các hoạt động học tập. Vai trò tự học, tự quản ở mỗi cá nhân học sinh  được phát huy trong hoạt  động học tập, giáo viên sẽ  dễ  dàng trong việc huy động vốn hiểu biết, kinh   ­11­
  12. nghiệm có sẵn của học sinh để chuẩn bị bài học mới. Học sinh trải qua các tình  huống có vấn đề, trong đó chứa đựng những nội dung có kiến thức, những thao  tác, kĩ năng làm nảy sinh kiến thức mới. Ví dụ: Khi dạy học bài 62: Phân số ( lớp 4) Tổ  chức học sinh tự  khám phá để  nhận biết khái niệm ban đầu về  phân  số. ­ Học sinh thực hiện các hoạt động trải nghiệm, thực hiện các thao tác   bằng tay, nhận biết trực giác ban đầu về khái niệm phân số. + Lấy tờ giấy bìa hình tròn. + Gấp 4 phần bằng nhau. + Tô màu 3 phần. + Em nói: Đã tô màu vào ba phần tư hình tròn. 3 + Em viết:    Em đọc: ba phần tư 4 Lưu ý:  ở  hoạt động này cần có đủ  đồ  dùng cho từng cá nhân học sinh   hoạt động. ­ Phân tích rút ra kiến thức mới: Cá nhân học sinh đọc kĩ nội dung trong   sách, thảo luận và nghe thầy/cô giáo hướng dẫn để nắm được nội dung trong tài  liệu hướng dẫn học. 3 *      là phân số. 4 3 *     Phân số   có tử số là 3, mẫu số là 4 4                                 3          Tử số                                                                  4           Mẫu số       Mẫu số là số tự nhiên viết dưới gạch ngang. Mẫu số cho biết hình tròn   được chia thành 4 phần bằng nhau.       Tử  số  là số  tự  nhiên viết trên gạch ngang. Tử  số  cho biết 3 phần bằng  nhau đã được tô màu. Có thể tổ chức hoạt động này như sau: ­12­
  13. + Nhóm trưởng điều hành các bạn trong nhóm đặt câu hỏi cho nhau, thảo  luận về thông tin mình tìm hiểu. + Giáo viên quan sát các hoạt động hỗ trợ để học sinh tự học, tự phát hiện   đúng yêu cầu của bài. + Đại diện một nhóm trình bày, các nhóm khác bổ  sung, phản biện, đặt   câu hỏi cho nhóm trình bày. + Giáo viên nêu ý kiến cơ bản của bài. 2.2.5. Chỉ đạo vận dụng tốt các bước tổ chức hoạt động dạy học môn   Toán theo theo hướng phát triển năng lực học sinh. Tổ  chức hoạt động dạy học môn Toán theo   theo hướng phát triển năng  lực học sinh cần phải được chú ý: ­ Học sinh phải được học thông qua việc quan sát các sự  vật, hiện tượng  của thế giới thực tại xảy ra hàng ngày, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận đối   với các em; các em sẽ thực hành để qua đó thu nhận kiến thức mới.  ­ Học sinh phải được trải qua quá trình tìm hiểu, suy nghĩ và lập luận;   đưa ra tranh luận trước tập thể những suy nghĩ và lập luận của mình. Từ đó các   em tự điều chỉnh nhận thức và lĩnh hội tri thức mới.  ­ Những hoạt động do giáo viên đề  xuất cho học sinh được tổ  chức theo   một tiến trình dạy học nhằm nâng cao dần mức độ  tiếp thu tự  lực và sáng tạo   của các em. Các hoạt động này phải làm cho các nội dung học tập được nâng  cao lên và dành phần lớn hoạt động ở trường cho sự tự chủ của học sinh.  ­ Qua các hoạt động, học sinh chiếm lĩnh dần dần các khái niệm toán học  và kỹ năng thực hành, kèm theo đó là sự củng cố và phát triển ngôn ngữ viết và   nói. Khuyến khích các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của riêng mình. Học sinh tham gia hoạt động học tập Toán học  theo hướng phát triển  năng lực giúp các em vừa có cơ hội quan sát vừa được thực hành trải nghiệm, từ  đó hình thành sự tự tin vào kết quả học tập của chính mình.  Tiến trình dạy học Toán ở tiểu học theo hướng phát triển năng lực có thể  đi qua các bước như sau: Bước 1: Tình huống xuất phát/câu hỏi nêu vấn đề:  Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề  là một tình huống do   giáo viên chủ  động đưa ra như  là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống   xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ  hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất   phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì  ­13­
  14. việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp   không nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề  xuất được câu hỏi nêu  vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể) Ví dụ: Khi tổ chức dạy học bài 80: Diện tích hình chữ nhật (Lớp 3) ­ GV yêu cầu học sinh quan sát hình chữ nhật ABCD trong sách Hướng dẫn  học và chỉ cho nhau cùng thấy diện tích hình chữ nhật ABCD, sau đó chọn 1 HS  lên bảng hoặc đứng tại chỗ chỉ ra phần diện tích hình chữ nhật ABCD cho cả  lớp cùng xem.                             A                4 cm                B                                                                        3 cm                        1 cm2                                                   D                                      C              ­ GV nêu vấn đề “Các em đã biết chu vi hình chữ nhật và cách tính chu vi   hình chữ nhật. Vậy làm thế nào để tính được diện tích hình chữ nhật?” Câu hỏi nêu vấn đề  là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề  cần   đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích   tính tò mò, thích tìm tòi của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế  cho các em trước   khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, không được  dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi  nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra  ở  trên thì ý đồ  dạy học của giáo  viên càng dễ thực hiện thành công.  Bước 2. Giúp học sinh bộc lộ ý tưởng ban đầu. Hình thành ý tưởng ban đầu của học sinh là bước quan trọng của quá trình  dạy học theo hướng phát triển năng lực. Bước này khuyến khích học sinh nêu   những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức. Để  hình thành ý tưởng ban đầu, giáo viên có thể  yêu cầu học sinh nhắc lại kiến  thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu học  sinh trình bày ý tưởng ban đầu, giáo viên có thể  yêu cầu nhiều hình thức biểu  hiện của học sinh, có thể  là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng  cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. Ví dụ. Khi tổ chức dạy học bài 80: Diện tích hình chữ nhật (Lớp 3)  Cho HS nêu cách tính chu vi hình chữ nhật ABCD cạch 3cm và 4 cm.  ­14­
  15. Giáo viên gợi ý: Vậy diện tích hình chữ nhật có liên quan đến các số liệu:  chiều dài, chiều rộng của hình chữ nhật hay không? ­ HS đưa ra các ý tưởng ban đầu (hoạt động này diễn ra một cách tự nhiên  trong suy nghĩ của HS, không nhất thiết phải diễn đạt bằng ngôn ngữ), chẳng   hạn: + “Diện tích hình chữ nhật có bằng tổng diện tích các hình vuông có diện  tích 1cm2 nằm trong hình chữ nhật?” + “Diện tích hình chữ nhật bằng số đo chiều dài nhân với chiều rộng?” … Bước 3. Đề xuất phương án thực hành/giải quyết vấn đề. Từ những khác biệt và phong phú về ý tưởng ban đầu của học sinh, giáo   viên giúp các em đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu  vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học. Ở  bước này, giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số  ý tưởng ban đầu   khác biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên   quan đến nội dung bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải  chọn lựa các ý tưởng ban đầu tiêu biểu của học sinh một cách nhanh chóng theo   mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học sinh nhằm   giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Ví dụ. Khi tổ chức dạy học bài 80: Diện tích hình chữ nhật (Lớp 3) ­ Học sinh thảo luận đưa ra phương án + Đếm số hình vuông có diện tích 1 cm2 ở trong hình chữ nhật ABCD. + Cách tính số ô vuông có diện tích 1cm2 ở trong hình chữ nhật ABCD.  + Tìm cạch của hình chữ  nhật ABCD có liên quan đến cạch hình vuông có   trong chính nó. Bước 4. Tiến hành giải quyết vấn đề. Từ các phương án thực hành/ giải quyết vấn đề  mà học sinh nêu ra, giáo  viên khéo léo nhận xét và gợi ý để học sinh lựa chọn phương án tiến hành. Ưu  tiên thực hiện các phương án thực hành trực tiếp trên vật thật. Một số  trường   hợp không thể  tiến hành trên vật thật có thể  sử  dụng mô hình, hoặc cho học   sinh quan sát tranh vẽ. Khi học sinh thực hành, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng em/ nhóm.  Nếu thấy học sinh hoặc nhóm nào làm sai yêu cầu thì giáo viên chỉ  nhắc nhở  riêng, không nên thông báo chung cho cả  lớp vì làm như  vậy sẽ  phân tán tư  tưởng và ảnh hưởng đến công việc của các học sinh/ nhóm khác. ­15­
  16. Từ  các phương án giải quyết vấn đề  mà HS nêu ra, giáo viên khéo léo  nhận xét và gợi ý để học sinh lựa chọn phương án tiến hành. Trong lúc học sinh thảo luận theo nhóm nhỏ  này, giáo viên nên đi quanh  lớp để  quan sát, quản lý đảm bảo tất cả các học sinh đều làm việc, đồng thời   đôn đốc, khuyến khích các ý hay hoặc gợi ý và trả  lời một số câu hỏi của học   sinh (nếu học sinh thắc mắc). Để khắc phục vấn đề tốn thời gian vì lí do học sinh không quen, giáo viên   có thể cho học sinh thực hiện hoạt động nhóm thường xuyên trong các buổi học.  Điều này sẽ tạo ra một thói quen giúp các em nhanh hơn trong các thao tác như  trao đổi, thảo luận, lập nhóm và giúp đỡ lẫn nhau trong khi cùng làm việc trong   nhóm. Các nhóm cũng sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu giáo viên có thể sắp xếp  chỗ  ngồi hợp lý cho các em (đảm bảo trong mỗi nhóm đều phải có một thành  viên khá giúp điều khiển nhóm). Giáo viên cũng nên hướng dẫn cho các nhóm  chọn ra một thành viên làm “thư kí” ghi lại toàn bộ các ý kiến của nhóm đã thảo   luận và nghĩ ra. Những ý này có thể ghi vào một tờ giấy hoặc tốt hơn là ghi vào  một bảng phụ để tiện cho việc trình bày và sửa chữa trước lớp ở bước tiếp theo   (nếu là kiến thức khó, trọng tâm của tiết dạy). Sau khi các nhóm đã thảo luận xong, giáo viên đã biết được kết quả đúng   hay sai của các nhóm song giáo viên nên dành thời gian để học sinh được đứng   trước lớp trình bày cách giải quyết của mình hoặc của nhóm mình vì hoạt động   này giúp rèn luyện tính tự  tin, năng lực trình bày và diễn đạt sự  việc cho học  sinh. Nếu thời gian hạn chế không cho phép đại diện của tất cả các nhóm trình   bày thì giáo viên nên để  các nhóm trao đổi, chia sẻ  kết quả  học tập với nhau,  nếu các nhóm có kết quả giống nhóm bạn thì cho một tràng pháo tay hoặc đồng   thanh nói “đúng” sau đó nêu câu hỏi chia sẻ  về  kết quả  đó (Có thể  yêu cầu   nhóm bạn giải thích vì sao lại có kết quả như vậy? Hay yêu cầu nhóm bạn nêu  quy tắc, công thức, cách làm.... mà nhóm bạn đã vận dụng) Trong khi các đại  diện trình bày, giáo viên yêu cầu cả lớp lắng nghe, sau đó so sánh, trao đổi, thảo  luận để nhận xét, bổ sung ý kiến cho bạn và cho mình. Ở hoạt động này, giáo viên nên yểm trợ về mặt sư phạm. Đây là việc làm   hết sức cần thiết vì học sinh thường trình bày các vấn đề  một cách lúng túng,  lộn xộn, không rõ ràng, mạch lạc. Nếu thiếu sự  yểm trợ  về mặt sư phạm này  thì rất dễ xảy ra trường hợp “không ai hỏi, không ai nói gì”.Giáo viên tuyệt đối  không nên vội khẳng định là ý nào đúng, ý nào sai để  khuyến khích học sinh   sáng tạo trong trao đổi, thảo luận để tự nhận ra ý sai, ý đúng, ý hay. Nói tóm lại   là giáo viên chỉ yểm trợ về mặt sư phạm mà không yểm trợ về mặt khoa học ở  hoạt động thảo luận. ­16­
  17. Ví dụ. Khi tổ chức dạy học bài 80: Diện tích hình chữ nhật (Lớp 3)  Học sinh phân tích, khám phá cách tính diện tích hình chữ nhật:  Quan sát hình chữ nhật ABCD và thực hiện lần lượt các hoạt động:                             A                4 cm                B                                                                        3 cm                        1 cm2                                                   D                                      C              + Trả lời câu hỏi: Hình chữ nhật ABCD có mấy hình vuông? + Viết tiếp vào chỗ chấm: Phép nhân tìm số ô vuông của hình chữ nhật ABCD là: 3 × 4 = …..(ô vuông) Hình chữ nhật ABCD có chiều dài là ….cm, chiều rộng là ….cm. + Đọc kĩ nội dung sau: Diện tích mỗi ô vuông là 1 cm2. Diện tích hình chữ nhật ABCD là: 3 × 4 = 12 (cm2) + Nói với bạn cách tính diện tích hình chữ nhật ABCD. Bước 5. Kết luận, hợp thức hóa kiến thức. Sau khi thực hiện hoạt động thực hành giải quyết vấn đề, các câu hỏi  dần dần được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ  thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt,  kết luận và hệ  thống lại để  học sinh ghi vào vở  coi như  là kiến thức của bài  học. Trước khi kết luận chung, giáo viên nên yêu cầu một vài ý kiến của học   sinh cho kết luận sau khi thực hiện giải quyết vấn đề  (rút ra kiến thức của bài   học) Tùy theo từng mục tiêu phát triển năng lực và dạng bài học mà giáo viên   thiết kế hoạt động dạy toán ở tiểu học theo các cách khác nhau.  Ví dụ. Khi tổ chức dạy học bài 80: Diện tích hình chữ nhật (Lớp 3) Sau khi học sinh đã tiến hành giải quyết vấn đề phân tích, khám phá cách tính  diện tích hình chữ nhật ABCD ­17­
  18. ­ Đại diện nhóm trình bày cách tiến hành và kết quả tính diện tích hình chữ  nhật ABCD có cạnh 3cm, 4cm. ­ Nhận xét, chỉnh sửa ngôn từ, kiến thức nếu cần. ­ Cho HS dự đoán quy tắc tính diện tích hình tròn. ­ GV chốt quy tắt tính diện tích hình tròn, HS ghi vào vở  2.2.6. Chỉ  đạo đổi mới cách đánh giá năng lực Toán học theo định hướng   phát triển năng lực của học sinh. Để  đánh giá năng lực của học sinh qua một chủ  đề  nào đó ta cần thực  hiện: ­ Xác định chuẩn kiến thức và kĩ năng học sinh cần đạt sau khi học chủ  đề đó. ­ Xác định những lĩnh vực trong cuộc sống mà học sinh có cơ  hội vận  dụng và phát huy rồi cụ thể hoá thành các tình huống. Vì vậy trong công tác đánh giá năng lực Toán học của học sinh cần đánh  giá kiến thức và kĩ năng của học sinh qua chủ  đề  của môn học. Song song với   việc đánh giá, giáo viên phải thiết kế các tình huống trong cuộc sống yêu và cầu   học sinh vận dụng kiến thức và kĩ năng môn học để xử lí. Một vài bài toán lên quan đến tình huống trong cuộc sống yêu cầu học   sinh vận dụng kiến thức và kĩ năng môn học để xử lí: * Bài toán lên quan đến tình huống trong cuộc sống yêu cầu học sinh lớp   Một vận dụng kiến thức và kĩ năng môn học để xử lí.  Ví dụ 1: Khi học về đếm và so sánh các số trong phạm vi 20, ta tạo ra tình   huống để HS vận dụng vào cuộc sống:  Em tìm hiểu rồi điền chữ hoặc số thích hợp vào chỗ chấm: a/ Nhà em có ….. cửa đi và ….. cửa số. Mỗi cửa đi có ….. cánh cửa và mỗi   cửa sổ có …. cánh cửa. b/ Trên bàn uống nước có ….. cái ấm và ….. chén uống nươc. Em hãy kể   tên   những   người   trong   nhà   em   thường   ngồi   uống   nước   sau   bữa   ăn   tối…………………. …………………………………………………………………………………………………. . ­ Thông qua bài tập  này giúp học sinh:  +  Khả năng vận dụng phép đếm đến 20 trong cuộc sống hàng ngày. ­18­
  19. + Thấy được ý nghĩa của phép đếm trong cuộc sống gia đình và cộng đồng. + Tăng thêm sự gắn bó với gia đình và cộng đồng. + Phát triển năng lực tính toán, năng lực tư duy toán học, thói quen qua sát và   ghi chép các số liệu thu được từ quan sát… Ví dụ 2. Khi ôn tập về hình tam giác, hình vuông ta tạo ra tình huống để học  sinh vận dụng vào cuộc sống: Chú thợ  mộc dùng 8 miếng gỗ  bằng nhau hình tam giác để  ghép một mặt   bàn hình vuông như hình vẽ. Em hãy chỉ giúp chú phải dùng ít nhất mấy màu để hai miếng ghép liền nhau   có hai màu khác nhau nhé! ­ Thông qua bài tập này giúp học sinh:  + Củng cố kiến thức về hình chữ nhật và hình vuông. +  Củng cố kĩ năng cắt, ghép hình. +  Phát triển tư duy hình học, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực thẩm mĩ. + Có thói quen vận dụng toán học vào cuộc sống. * Bài toán lên quan đến tình huống trong cuộc sống yêu cầu học sinh lớp   Hai vận dụng kiến thức và kĩ năng môn học để xử lí.  Một hãng hàng không qui định hành khách đi máy bay chỉ được gửi hành lý   không quá 20kg. Chị Nhung đã ghi ra giấy cân nặng các đồ vật trong hành lý của   mình. Em hãy tính giúp chị  Nhung xem hành lý của chị  có vượt quá qui định   không. Ví dụ 1. Khi học "So sánh và tính toán các số  đo thời gian", ta tạo ra tình  huống để học sinh vận dụng vào cuộc sống: Em tìm hiểu rồi điền chữ hoặc số thích hợp vào chỗ trống: a) Em ghi lần lượt các thành viên trong gia đình mình: ……………………… ……………………........................................................................................................ b/ Em hỏi tuổi của mỗi người rồi ghi lại lần lượt tuổi của mỗi người   theo thứ tự trên……………………………………………………………....................... ­19­
  20. c/ Trong gia đình em: ………… là người nhiều tuổi nhất và ………… là   người ít tuổi nhất. Hai người đó hơn kém nhau………..tuổi. ­ Thông qua bài tập này giúp học sinh:  +  Khả  năng vận dụng kĩ năng so sánh, tính toán với các số  đo thời gian  trong cuộc sống. +  Có thói quen quan tâm đến cộng đồng và vận dụng kiến thức vào cuộc   sống, trong gia đình. +  Phát triển năng lực tính toán, năng lực giao tiếp, khả  năng quan sát và  ghi chép các số liệu thu được từ một quan sát. Ví dụ 2. Khi học "Đường gấp khúc", ta tạo ra tình huống để học sinh vận   dụng kĩ năng vẽ và tính toán độ dài đường gấp khúc vào cuộc sống: Khối 3, 4, 5 của Trường tiểu học Hoà Bình tổ  chức cắm trại. Sơ đồ  trại   của các lớp như hình dưới: Chị Tổng phụ trách muốn đi một vòng qua tất cả các trại sao cho không  phải đi tới trại nào hai lần! Em hãy chỉ giúp chị cách đi nhé! ­ Thông qua bài tập này giúp học sinh:  +  Khả năng vận dụng kiến thức về đường gấp khúc và kĩ năng thực hành  vẽ đường gấp khúc vào thực tế cuộc sống. +   Thấy được ý nghĩa của những kiến thức về  đường gấp khúc trong  cuộc sống. +  Có thói quen vận dụng kiến thức và kĩ năng về đường gấp khúc để xử  lí các tình huống gặp trong cuộc sống hàng ngày. + Phát triển năng lực tư  duy hình học, năng lực giải quyết vấn đề, năng  lực sáng tạo, … * Bài toán lên quan đến tình huống trong cuộc sống yêu cầu học sinh lớp   Ba vận dụng kiến thức và kĩ năng môn học để xử lí.  Ví dụ 1:  Để tích hợp kiến thức và kĩ năng về đo độ dài và tiền Việt Nam,  ta tạo ra tình huống để HS vận dụng vào cuộc sống: Em tìm hiểu rồi điền số thích hợp vào chỗ trống: ­20­
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2