intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp dạy các bài về từ trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

51
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là nhằm nâng cao hiệu quả của việc cung cấp từ ngữ cho học sinh lớp 5 từ đó rút ra những kết luận sư phạm ứng dụng vào việc dạy Luyện từ và câu ở tiểu học nói riêng và giảng dạy các môn học khác nói chung. Cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập phân môn Luyện từ và câu của học sinh. Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng hiểu nghĩa của từ, kĩ năng vận dụng vốn từ vào trong giao tiếp và có vốn từ phong phú hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp dạy các bài về từ trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5

  1. A. ĐẶT VẤN ĐỀ   I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết mục tiêu của môn Tiếng Việt ở  bậc Tiểu học là  hình thành và phát triển  ở  học sinh kỹ  năng sử  dụng Tiếng Việt (nghe, nói,  đọc, viết) để  học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa   tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác   của tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ  giản về  Tiếng Việt và   những hiểu biết sơ  giản về  xã hội, tự  nhiên và con người, về  văn hoá, văn  học của Việt Nam và nước ngoài. Phân môn Luyện từ và câu là một phân môn quan trọng trong việc trang  bị cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt. Với tên gọi này phân  môn Luyện từ và câu không chỉ đơn thuần là kết quả của việc ghép hai phân   môn Từ ngữ ­ Ngữ pháp mà có sự bổ sung của rất nhiều kiến thức nhằm mở  rộng, làm giàu vốn từ  cho học sinh. Giúp học sinh sử dụng từ, câu một cách  chính xác trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể…  Một trong những nguyên tắc cơ  bản của dạy Tiếng Việt là dạy học  thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt  giao tiếp bằng ngôn  ngữ  là công cụ  để  học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả  năng sử  dụng   từ  Tiếng Việt. Từ  là đơn vị  trung tâm của ngôn ngữ, vai trò của từ  trong hệ  thống ngôn ngữ  quy định tầm quan trọng của việc dạy từ  ngữ   ở  Tiểu học. Nếu như không có vốn từ đầy đủ thì không thể sử dụng ngôn ngữ  như  một công cụ  giao tiếp được. Vì vậy việc cung cấp kiến thức lý thuyết  về từ cũng như kỹ năng nắm nghĩa, sử  dụng từ  cho học sinh Tiểu học là rất   quan trọng. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ  Tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Tuy nhiên, ngôn ngữ  1
  2. Tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội  dung khó đó là phần nghĩa của từ. Nội dung về  nghĩa của từ  được tập trung biên soạn có hệ  thống trong  phần Luyện từ và câu. Một tiết cung cấp về nội dung lý thuyết, một tiết rèn   kỹ  năng luyện tập (mỗi tiết dạy 35 – 40 phút). Vì vậy khi dạy những kiến   thức này, tôi nhận thấy rằng: Kỹ năng hiểu nghĩa của từ  của học sinh lớp 5   còn rất nhiều hạn chế  bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Một bộ  phận giáo  viên lên lớp còn rập khuân máy móc, cứng nhắc trong việc dạy học do chưa   tìm được hình thức, phương pháp phù hợp với nội dung dạy học. Vậy làm thế  nào để các em nắm được những kiến thức của phân môn Luyện từ và câu lớp   5 nói chung và đặc biệt về   các bài dạy nghĩa của từ  một cách dễ  dàng, tích  cực, đó chính là vấn đề  trăn trở lớn đối với mỗi giáo viên. Trong những năm   giảng dạy lớp 5, bản thân tôi đã cùng đồng nghiệp thảo luận, tìm tòi và thử  nghiệm một số  biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt các bài liên quan đến  nghĩa của từ  ( từ  đồng nghĩa, từ  trái nghĩa, từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa). Đó  cũng chính là nội dung mà tôi trình bày trong sáng kiến: “ Một số  giải pháp   dạy các bài về từ trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5” . II. CƠ SỞ LÍ LUẬN ­ Nghĩa của từ là nội dung (sự vật, tính chất, quan hệ…) mà từ biểu thị. ­ Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau   + Những từ đồng nghĩa hoàn toàn có thể thay thế cho nhau trong lời nói. + Những từ đồng nghĩa không hoàn toàn khi dùng phải cân nhắc để lựa  chọn cho đúng.  ­ Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau. ­ Từ  đồng âm là những từ  giống nhau về  âm nhưng khác hẳn nhau về  nghĩa. 2
  3. ­ Từ  nhiều nghĩa là từ  có một nghĩa gốc và một hay một số  nghĩa  chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. + Nghĩa gốc: Là nghĩa cơ  bản, là nền tảng cho sự  phát triển nghĩa của  từ. Trong từ điển, nghĩa gốc được nói đến đầu tiên. + Nghĩa chuyển: Là loại nghĩa được hình thành từ  nghĩa gốc, có mối  quan hệ  mật thiết với nghĩa gốc. Trong từ  điển, nghĩa chuyển được nói đến   sau nghĩa gốc.           Quy luật chuyển nghĩa của từ ­  Quy luật nhận thức của con người: Quá trình nhận thức của con người bao gồm hai mặt: cảm tính và lý  tính. Trong đó nhận thức cảm tính là nhận thức đầu tiên. Điều này có nghĩa là  tư duy của con người bao giờ cũng đi từ cụ thể, trực quan, cảm tính đến trừu  tượng lý tính. Dựa vào quy luật trên, ta có thể rút ra thủ pháp nhận diện, phân  biệt nghĩa của từ. Ví dụ: Nghĩa của từ  “chín” khi nói về  quả  là nghĩa chính, còn khi nói  về sự suy nghĩ của con người thì đó là nghĩa chuyển. ­ Quy luật chuyển nghĩa của từ: Tất cả các sự chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ đều xuất   phát từ những thuộc tính của con người và từ hiện thực gần gũi nhất đối với  con người đến toàn bộ thế giới còn lại. Dựa vào quy luật này, ta có thể thấy:   Trong 2 ý nghĩa của một từ, nghĩa nào nói đến bản thân con người, động vật  hoặc nói về  các hành động, tính chất của con người thì thường là nghĩa có   trước( nghĩa gốc) còn nghĩa nói về các hiện tượng khác là nghĩa có sau ( nghĩa  chuyển). Ví dụ: “răng” trong răng người, răng chuột là nghĩa chính.                       “răng” trong răng bừa, răng cào là nghĩa chuyển. III. CƠ SỞ THỰC TIỄN 3
  4. Nội dung về  từ  đồng nghĩa, từ  trái nghĩa, từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa  trong phân môn Luyện từ  và câu lớp 5 gồm 11 tiết, trong  đó có 4 tiết lý   thuyết, 7 tiết luyện tập.   Với cách phân phối 2 tiết/tuần giúp học sinh nắm được những kiến   thức về từ và câu để  vận dụng trong nói, giao tiếp hàng ngày. Đó cũng chính  là mục tiêu mong muốn khi dạy luyện từ và câu của tất cả các giáo viên. Tuy  nhiên, thời lượng để học sinh tiếp cận và rèn luyện kỹ năng về từ là quá ít (so   với nội dung tương đối khó) nên học sinh không hiểu qui luật chuyển nghĩa  của từ do học sinh không nhận ra mối liên hệ ý nghĩa giữa nghĩa gốc và nghĩa   chuyển của từ. Học sinh không phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.   IV. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU  1. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu giải pháp dạy các bài về  từ  trong phân môn Luyện từ  và  câu lớp 5. 2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Nam Thắng. V. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ­ Nhằm nâng cao hiệu quả của việc cung cấp từ ngữ cho học sinh lớp 5   từ đó rút ra những kết luận sư phạm ứng dụng vào việc dạy Luyện từ và câu  ở tiểu học nói riêng và giảng dạy các môn học khác nói chung. ­ Cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập  phân môn Luyện từ và câu của học sinh. ­ Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng hiểu nghĩa của từ, kĩ năng vận dụng  vốn từ vào trong giao tiếp và có vốn từ phong phú hơn. VI. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
  5. 1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: ­ Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn giảng dạy môn Tiếng Việt, sách  giáo khoa và tài liệu tham khảo. 2.  Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: ­Tìm hiểu, khảo sát, thu thập các dữ liệu thực tiễn có liên quan. ­ Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.                               B. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi  nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp . Mục tiêu của môn tiếng Việt  nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng là: Bồi dưỡng cho học sinh   thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu; có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn   hoá trong giao tiếp. Tuy nhiên, các kĩ năng giao tiếp không thể  được hình  thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ  động. Muốn phát triển  những kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp   dưới sự  hướng dẫn của thầy cô. Các kiến thức về  ngôn ngữ, văn học, văn   hoá, tự nhiên và xã hội có thể được tiếp thu qua lời giảng, sự truyền đạt của   thầy cô. Nhưng học sinh chỉ  làm chủ  được những kiến thức này khi các em   chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như  vậy,  những tư  tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ  có thể  được hình thành  chắc chắn thông qua sự rèn luyện trong thực tế.  5
  6. 1. Thuận lợi ­ Đội ngũ giáo viên cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong quá   trình giảng dạy. ­ Đa số học sinh có đủ Sách giáo khoa và các đồ dùng học tập và được  nhà trường quan tâm tạo mọi điều kiện học tập. 2. Khó khăn ­ Học sinh không nắm chắc khái niệm từ  đồng nghĩa, từ  trái nghĩa, từ  đồng âm, từ nhiều nghĩa. ­  Đối với bài tập yêu cầu đặt câu với mỗi loại nghĩa của từ (nghĩa gốc   ­ nghĩa chuyển), học sinh lại mắc lỗi diễn đạt ý không rõ ràng cụ thể. Vì thế,   người đọc khó xác định “từ  trong văn cảnh” được dùng theo nghĩa gốc hay  nghĩa chuyển. ­   Ngoài những hạn chế  trên, học sinh còn hay lẫn lộn giữa từ  nhiều   nghĩa (nghĩa gốc – nghĩa chuyển) với từ đồng âm. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 1. Giải pháp 1: Nắm vững nội dung chương trình và phát huy những   kiến thức , kĩ năng về từ và câu của học sinh. Với cấu trúc theo vòng tròn đồng tâm, chương trình phân môn Luyện từ  và câu lớp 5 là sự tiếp nối nội dung phân môn Luyện từ và câu các lớp trước   và từ đó có những yêu cầu phù hợp với trình độ của học sinh.  Ở lớp 4 các em cũng đã được học về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ  chỉ đặc điểm. Lên lớp 5 các em tiếp tục học những kiến thức này nhưng cụ  thể hơn. Đó là các em được học về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm,   từ   nhiều   nghĩa. Ví dụ : ­  Em bé chạy rất nhanh.   ­  Chiếc đồng hồ chạy đúng giờ.   ­  Tàu chạy băng băng trên đường ray. 6
  7. Ở lớp 4 các em đã học từ chạy là động từ. Nhưng lên lớp 5 từ chạy vẫn  là động từ nhưng thuộc từ nhiều nghĩa, từ  chạy  ở câu 1 là nghĩa gốc, từ  chạy  ở câu 2, 3 là nghĩa chuyển. Như vậy để dạy học tốt những nội dung chương trình luyện từ và câu  lớp 5, các thầy cô phải nắm được những kiến thức mà các em đã được học ở  những lớp trước. Từ đó, trên nền tảng kiến thức đã có sẵn giáo viên biết cách  ôn tập lại và truyền thụ kiến thức mới sao cho phù hợp, nhẹ nhàng giúp học  sinh chủ  động nắm được kiến thức mới. Nếu như  người giáo viên không  nắm được những kiến thức các em đã học, không phát huy những kiến thức   kĩ năng đó thì giáo viên sẽ truyền đạt kiến thức đó như một kiến thức mới lạ  với các em, nhiều khi giáo viên sẽ bị mất thời gian dạy lại, đôi khi áp đặt cho   học sinh. Bên cạnh đó, người giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình  của phân môn. Điều đó giúp cho giáo viên có cái nhìn khái quát nội dung mình  phải truyền đạt. Từ đó xây dựng kế hoạch dạy học,  xác định đối tượng học  sinh, mức độ  tiếp thu của học sinh   để  có phương pháp dạy học phù hợp.   Đồng thời nắm  được chương trình, nội dung, kiến thức, kĩ năng cần đạt  được đối với học sinh giúp giáo viên dễ tổng hợp kiến thức để truyền đạt và   ôn tập một cách khoa học, tập trung, hợp lí mà không bị dàn trải. 2. Giải pháp 2: Lập kế hoạch cho tiết dạy Đây là một khâu rất quan trọng . Giáo viên có đầu tư  suy nghĩ, nắm  vững mục tiêu, yêu cầu bài dạy, nội dung cần truyền đạt trong một bài thì xác  định được phương pháp phù hợp, dự  đoán được những băn khoăn của học   sinh để chủ động có biện pháp tháo gỡ. Muốn lập được kế hoạch tốt đòi hỏi  người giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng. Nếu không lập được kế hoạch và lập kế hoạch không tốt thì giáo viên  không bao quát được lớp, không làm chủ được kiến thức, khó định hướng cho  học sinh. Cho nên đòi hỏi người giáo viên phải lập được kế hoạch trước khi  7
  8. lên lớp, tức là phải chuẩn bị  nội dung, phương pháp, dự  kiến các hoạt động  sẽ tổ chức, các điều kiện cần chuẩn bị. Thậm chí dự kiến cả các tình huống   có thể  xảy ra, phương án giải quyết các tình huống đó. Chẳng hạn như :  Trong tiết dạy về  từ  nhiều nghĩa, học sinh có thể  hỏi cô giáo về  nghĩa của   các từ  không có trong nội dung bài dạy. Tất cả  đều đòi hỏi người giáo viên  phải có một vốn kiến thức sâu rộng, phải hiểu bản chất vấn đề  để  lập kế  hoạch tốt và phù hợp với tiết dạy mà mình sẽ  thực hiện sau đó. Tuyệt đối  không được lập kế hoạch theo kiểu hình thức, chống đối, không được lập kế  hoạch sau khi thực hiện tiết dạy.  3. Giải pháp 3: Phải xây dựng được hệ thống câu hỏi hợp lí Phương pháp dạy truyền thống là phương pháp dạy áp đặt, học sinh  thụ động nắm kiến thức mới. Đổi mới phương pháp dạy học tức là áp dụng  những phương pháp giúp cho các em chủ động tích cực nắm được kiến thức.  Hệ  thống câu hỏi cũng là một yếu tố  quan trọng góp phần đổi mới phương   pháp. Nếu như không có hệ thống câu hỏi dẫn dắt để học sinh tự chiếm lĩnh  những tri thức thì người giáo viên lại phải quay về với cách truyền thống áp   đặt thầy đọc trò ghi. Như vậy, đối với nội dung từng bài giáo viên phải xây  dựng được hệ thống câu hỏi hợp lí phù hợp với nội dung yêu cầu của bài. Có các dạng câu hỏi như : Khi tiến hành dạy tôi đưa ra câu hỏi nhận diện cho học sinh trả  lời .  Trong phần nhận xét giáo viên có thể đưa ra câu hỏi cho học sinh  : Trái nghĩa  với từ sống là từ nào? Học sinh tìm được từ trái nghĩa với từ  sống là từ chết.  Từ đó học sinh hình thành được khái niệm từ  trái nghĩa. Đối với học sinh có   học lực yếu thì cần có câu hỏi gợi mở  giúp các em dễ  dàng hơn trong việc   hình thành khái niệm. Giáo viên có thể  đưa ra câu hỏi: Đen – trắng là từ  gì?  Dựa vào kiến thức đã học ở lớp dưới học sinh nhận diện đó là từ trái nghĩa và  từ đó đi đến khái niệm. 8
  9. Câu hỏi mang tính phản hồi( thu thập những thông tin ngược từ  học   sinh ) Để  nắm bắt kiến thức các em vừa chiếm lĩnh được như  thế  nào giáo   viên có thể đưa ra câu hỏi: Từ Hòa bình – chiến tranh, thương yêu – ghét bỏ,   đoàn kết – chia rẽ, giữ gìn – phá hoại  có phải là từ trái nghĩa không? Vì sao?  Học sinh phải nắm tốt nghĩa từ  thì mới trả  lời được câu hỏi. Từ  câu trả  lời   giáo viên thu được thông tin phản hồi của học sinh về khái niệm từ trái nghĩa. Với câu hỏi mang tính suy luận tổng hợp giáo viên có thể  định hướng  đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ trả  lời: Từ cao – thấp, trái – phải, ngày –   đêm là những từ có nghĩa trái ngược nhau. Vậy từ trái nghĩa là những từ như  thế nào ? Dựa vào câu hỏi của giáo viên học sinh sẽ suy luận và đưa ra được  khái niệm của từ trái nghĩa. Và đặc biệt, khi dạy những bài cung cấp kiến thức mới thì giáo viên  phải có những câu hỏi làm cầu nối giữa những gì học sinh vừa thu được qua   phân tích ngữ  liệu với nội dung kiến thức mới trong phần ghi nhớ, câu hỏi  này chính là tiền đề  giúp học sinh rút ra phần ghi nhớ  một cách lôgíc, khoa   học hơn. Nắm được nghĩa từ giúp học sinh làm tốt các bài tập về từ. Để học sinh tự chiếm lĩnh tri thức ( tự rút ra phần ghi nhớ trong bài học   ) tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi và tổ chức các hoạt động học tập cho  học  sinh như sau: Với yêu cầu 1 phần nhận xét tôi tổ chức cho các em làm việc cá nhân,  gọi một số em đọc bài trước lớp, cho học sinh thảo luận để tìm hiểu bài. Sau  đó, giáo viên chốt và đi đến ghi nhớ. Với việc thêm các câu hỏi cùng với hệ  thống bài tập trong sách giáo khoa rất nhiều học sinh đều được hoạt động,   bộc lộ mình qua thảo luận nhóm, qua trả lời câu hỏi của cô giáo, qua nhận xét  câu trả lời của các bạn để  tự  rút ra được kiến thức mới của bài. Đó cũng là  cái đích mong muốn của việc đổi mới phương pháp dạy học. 4.  Giải pháp 4:  Sử  dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong   cùng một tiết dạy 9
  10. Đó là các hình thức tổ  chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm  thoại, làm bài trắc nghiệm, tổ chức trò chơi, đố vui gây hứng thú cho học sinh   tránh những đơn điệu nhàm chán.  Ví dụ : Khi dạy bài: Từ đồng nghĩa( trang 7 SGK Tiếng Việt 5 tập 1),   phần Luyện tập có bài tập 2 : Tìm những từ đồng nghĩa với mỗi từ sau đây :  đẹp, to lớn, học tập.             Tôi tổ  chức cho các em chơi  trò chơi để  khắc sâu kiến thức về  từ  đồng nghĩa . Có thể vận dụng trò chơi : Xì điện             Học sinh đưa ra từ và xì điện 1 bạn tìm từ đồng nghĩa, nếu tìm đúng   thì học sinh đó có quyền được chỉ định một bạn khác. Tìm các từ đồng nghĩa  tiếp theo có thể có thể thay đổi hình thức tiếp sức. Cứ như thế dựa vào vốn  hiểu biết của mình học sinh tìm được rất nhiều từ đồng nghĩa với từ gốc ban  đầu. Ngoài mục đích là như  trên thì trò chơi này giúp cho các em cùng hợp  tác làm việc( trong cùng một đội), hứng thú thi đua nhau học, không khí tiết   học cũng sôi nổi lên , đồng thời giúp cho các em vui mà học. 5. Giải pháp 5:  Phát huy tính tích cực của học sinh Đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực của học sinh.Vì  vậy, giáo viên phải nắm được mức độ nhận thức của học sinh, để  có những   câu hỏi, bài tập, những phương pháp dạy học thích hợp với từng đối tượng,   để trong lớp học sinh nào cũng được chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Ví dụ : 1. Xác định lời giải nghĩa thích hợp cho mỗi từ chạy sau : ­ Bé chạy lon ton trên sân. ­ Tàu chạy băng băng trên đường ray. ­ Đồng hồ chạy đúng giờ. ­ Dân làng khẩn trương chạy lũ. 2. Các nghĩa của từ chạy có nét nghĩa gì chung ? 10
  11. Với 2 yêu cầu này giáo viên phải biết được đối với yêu cầu 1 là phù  hợp với mọi đối tượng nên để  các em tự  làm bài cá nhân. Với yêu cầu 2  nhiều học sinh trung bình , yếu là khó. Giáo viên phải xây dựng kế hoạch để  truyền đạt kiến thức này để  tất cả  các đối tượng đều nắm bắt được. Theo  tôi, đối với yêu cầu 1 của bài tôi cho học sinh thảo luận trong nhóm đôi để  các em hỗ  trợ  lẫn nhau tìm ra được đáp án cho yêu cầu 2, đồng thời các em   đều được bộc lộ  hiểu biết trong nhóm với bạn điều đó khiến các em tự  tin  hơn nếu như để các em nói ra ý kiến về một vấn đề khó trước lớp.  Để phát huy tính tích cực của học sinh thì giáo viên tránh những câu hỏi  có, không ; đúng, sai. Nên tập trung vào các câu hỏi mang tính gợi mở, câu hỏi   nhận diện, câu hỏi mang tính phản hồi, câu hỏi suy luận tổng hợp. Tránh  phương pháp thầy đọc trò ghi, thầy nói trò làm thì mới phát huy được tính tích   cực trong dạy học. Cho nên , dù đổi mới phương pháp đến đâu chăng nữa mà học sinh  không được hoạt động tích cực tức là giáo viên chưa đổi mới thành công. 6.  Giải pháp 6:  Sử  dụng một cách có hiệu quả  đồ  dùng trực quan   trong các tiết dạy Luyện từ và câu.  Đối với học sinh ti ểu học, thi ết b ị  d ạy h ọc  đặ c biệt quan trọng vì  nó giúp các em quan sát sự  vật, hiện t ượng m ột cách trực quan, giúp học  sinh nắm đượ c nghĩa từ, nhận thức sâu hơn nội dung bài họ c, hình thành  tốt kỹ  năng kỹ  xảo cho các em. Chẳng h ạn khi h ọc sinh phân biệt nghĩa  của những từ  đồng âm:  cánh đồng – tượ ng đồng – một nghìn đồng   giáo  viên có thể  đưa ra hình  ảnh trực quan v ề   cánh đồng ­  tượ ng đồng  trên  tranh và tờ  tiền   một  nghìn đồng  cho học sinh quan sát. Từ  quan sát trực  quan học sinh hi ểu  đượ c sự  khác nhau của các cụm từ  đó và phân biệt  đượ c nghĩa của các từ.  11
  12. Thiết bị  dạy học là phươ ng tiện, là điều kiện vật chất để  đổ i mớ i  phươ ng pháp dạy học  ở  tiểu học nói chung và phân môn Luyện từ  và câu  nói riêng. 7. Giải pháp 7: Thiết kế bài tập trắc nghiệm để củng cố kiến thức   cho học sinh Bài tập trắc nghiệm là công cụ  để  khảo sát mức độ  hiểu bài của học   sinh một cách nhanh nhất. Giáo viên có thể  thiết kế  một số  dạng bài trắc  nghiệm như sau: ­ Dạng bài tập: Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng: Từ trái  nghĩa với từ “to lớn” là: A. Rộng rãi            B. Mênh mông              C. Chật hẹp              D. Bao la  ­ Dạng bài tập: Nối các từ ở cột A với phần giải nghĩa thích hợp ở cột   B cho đúng nghĩa của từ. ­ Dạng bài tập: Điền đúng, sai Ví dụ: Dòng nào dưới đây là các từ  đồng nghĩa?. Đúng ghi Đ, sai ghi S  vào ô trống: Xanh ngắt, xanh lơ, xanh non, xanh xanh Xanh thẳm, xanh lục, vàng vọt,  xanh dương     Xanh biếc, xanh mướt, đỏ lừ, xanh xao  Xanh rờn, xanh rì, xanh mát, trắng toát 8. Giải pháp 8: Dựa vào mức độ cụ thể, trừu tượng của từ để phân   biệt. a) Khi gặp hai hoặc nhiều nghĩa của từ trong văn cảnh, muốn biết từ đó  dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, chúng tôi đã hướng dẫn học sinh thông  qua cách nhận biết trực quan như sau: ­ Từ  nào có ý nghĩa cụ  thể  hơn: Nghĩa của từ  chỉ  những sự  vật, hiện  tượng hoặc tính chất, hành động cụ  thể, mà các em có thể  cảm nhận được  bằng giác quan thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc. 12
  13. ­ Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn: nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện   tượng hoặc hành động, tính chất mà các em không thể  cảm nhận bằng giác  quan thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển. b)  Nếu cả hai nghĩa đều cụ  thể, khó phân biệt được nghĩa nào cụ  thể  hơn, nghĩa nào trừu tượng hơn, thì có thể  hướng dẫn học sinh dựa vào các  dấu hiệu sau: ­ Nếu nghĩa của từ  nào nói đến bản thân con người (hoặc động vật),   hoặc tính chất, hành động của con người thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc. ­ Nếu nghĩa của từ  nói đến các đồ  vật có hình dáng, tính chất, hành   động gần giống con người thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển. Ví dụ :  a) Bữa tối, nhà em thường ăn cơm muộn.                 b)Xe này ăn xăng quá!                 c) Mẹ tôi là người làm công ăn lương. ­ Ăn: chỉ  hoạt động từ  đưa thức ăn vào miệng. Hành động “ăn” trong  câu a, là hành động cụ  thể  (dùng miệng để  ăn)  Từ   “ăn” trong câu a, được  dùng theo nghĩa gốc. ­ Ăn: chỉ  hoạt động tiêu thụ  năng lượng để  máy móc hoạt động. Hành  động  “ăn”  trong câu b, là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Từ  “ăn” trong câu b, được dùng theo nghĩa chuyển. ­   Hành   động   ăn   trong   câu   c,   là   hành   động   trừu   tượng   (không   dùng  miệng). Từ “ăn” trong câu c, được dùng theo nghĩa chuyển. Từ  “ăn” nào chỉ  hành động cụ  thể (dùng miệng để  ăn) thì từ  đó được  dùng theo nghĩa gốc. Từ “ăn” chỉ hành động (không dùng miệng) là những từ  dùng theo nghĩa chuyển. Để nhận diện được một từ  nào đó có phải là nghĩa chuyển được hiểu  rộng từ nghĩa gốc của từ đó hay không. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra   những nét giống nhau trong ý nghĩa của các từ. Nếu từ đó có nét giống so với   13
  14. nghĩa ban đầu thì từ  đó được dùng theo nghĩa chuyển. Nếu từ  đó có nghĩa  hoàn toàn khác xa với nghĩa ban đầu thì từ đó là từ đồng âm. III . BÀI HỌC KINH NGHIỆM Để mang lại hiệu quả cao trong việc giúp học sinh làm tốt các bài về từ  của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 người giáo viên cần phải: ­ Xác định đúng mục đích, yêu cầu của bài dạy. Tham khảo thêm những   tài liệu có liên quan đến việc dạy Luyện từ và câu. ­ Nắm vững những nội dung cần dạy học cho học sinh, nghiên cứu xây   dựng nội dung dạy học một cách hợp lý, khoa học với mục đích giúp học sinh   giải nghĩa từ, mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ và sử dụng có hiệu quả vốn  từ. ­ Giáo viên cần tìm tòi, học hỏi để vốn từ của bản thân thật phong phú  và phải có khả năng sử dụng từ ngữ... ­ Lựa chọn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học,   các hình thức củng cố luyện tập tạo sự hứng thú say mê học Luyện từ và câu   của học sinh.     Qua nghiên cứu việc hướng dẫn học sinh học tốt môn Luyện từ  và  câu, tôi  thấy đây là một vấn đề rất cần thiết đối với việc giúp học sinh học  tốt môn Tiếng Việt nói chung. Học sinh có học tốt môn Tiếng Việt mới có   đỉều kiện thuận lợi để  tiếp thu tất cả  các môn học khác như: Toán, ngoại  ngữ, tự  nhiên xã hội… Nghĩa của từ  là một nội dung quan trọng, sử  dụng   đúng nghĩa từ thì mới biết cách hành văn, giao tiếp tốt.   IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, học sinh đã xác định được nghĩa  từ, kết quả tiếp thu và chất lượng học tập của học sinh có những tiến bộ như  sau: 14
  15. ­ Học sinh phân biệt được từ  một cách dễ  dàng nhờ  dựa vào dấu hiệu  cụ thể và trừu tượng của các từ mà học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ  trái   nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong nhiều văn cảnh khác nhau. ­ Nhờ hiểu nghĩa của từ nên học sinh đặt câu hỏi đúng, phù hợp với ý   nghĩa của mỗi từ . ­ Hiểu được ý nghĩa và tác dụng của nghĩa bóng tu từ, giúp các em phát  hiện nhanh, đúng các tín hiệu nghệ  thuật nhân hoá,  ẩn dụ, hoán dụ  thể  hiện   trong văn cảnh, góp phần nâng cao khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp của bài  văn, bài thơ. Đồng thời giúp các em biết sử  dụng đúng các nghĩa bóng tu từ  trong khi thể  hiện bài văn viết của mình một cách cụ  thể  sinh động và giàu  hình ảnh. ­ Khi áp dụng sáng kiến trong những bài kiểm tra về  từ, về  câu thì  100% học sinh lớp tôi làm đúng. Kết quả được thể hiện cụ thể trong bảng số liệu sau:  Năm học 2014 – 2015 tôi bắt đầu nhận lớp 5. Khi chưa áp dụng sáng   kiến tôi chỉ dạy bám sát mục tiêu của bài học, kết quả đạt được khi khảo sát   35 học sinh lớp 5A như sau:   Mức 1 Mức 2 Mức 3 7 HS 15 HS 13 HS 20% 43% 37% Năm học 2016 – 2017 khi áp dụng sáng kiến tôi thấy chất lượng học   môn Tiếng Việt đã có những tiến bộ rõ rệt, khảo sát trên 35 học sinh lớp 5A  cụ thể như sau: Mức 1 Mức 2 Mức 3 12 HS 17 HS 6 HS 34% 49% 17% 15
  16. C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I.  LỜI KẾT  Trên đây là các biện pháp giúp cho học sinh phân biệt nghĩa của từ  mà  tôi đã rút ra từ  những kinh nghiệm thực tế qua 3 năm giảng dạy và áp dụng   mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng môn học Tiếng  Việt của học sinh ở lớp tôi. Trong quá trình giảng dạy, tổ  chức cho học sinh nắm được kiến thức,  bản thân tôi cũng đã cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và lựa chọn sao cho  học sinh nắm kiến thức mới và vận dụng trong học tập cũng như trong cuộc   sống một cách hiệu quả. Đây là một vài kinh nghiệm của bản thân khi dạy Luyện từ  và câu  ở  lớp 5A . Chính vì thế nên đòi hỏi giáo viên cần giành nhiều thời gian vào dạy  học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong từng tiết học. Rất mong   được sự  đóng góp của đồng nghiệp để  tôi rút kinh nghiệm vào dạy học đạt   kết quả cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh và nâng   cao chất lượng nghiệp vụ của giáo viên. II.  KIẾN NGHỊ Để  giúp học sinh hứng thú hơn, học tốt hơn trong bộ  môn Tiếng Việt   nói chung và phần Từ ngữ nói riêng, tôi đưa ra ý kiến đề xuất sau: ­  Nhà trường có kế hoạch thành lập Câu lạc bộ Em yêu Tiếng Việt để  tạo cơ  hội cho các em giao tiếp, củng cố và mở  rộng vốn từ, phát triển vốn   từ  để  sử  dụng có hiệu quả  trong học tập, tạo sự hứng thú say mê học, hiểu   tiếng mẹ đẻ.  ­ Tổ chuyên môn nên mạnh dạn đề xuất ý kiến điều chỉnh một số nội  dung chưa hợp lý và bổ  sung những kiến thức làm nội dung phong phú hơn,   chất lượng hơn. 16
  17. ­ Giáo viên luôn có ý thức tôn trọng nhân cách và ý kiến của học sinh   trong giờ  học. Vận dụng hợp lý các hình thức khen thưởng kịp thời, nhằm  khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ  động, sáng tạo trong học tập, kích  thích lòng ham học và ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập của học sinh.                                                                                      Kí duyệt của BGH nhà trường                                    Người thực hiện                                                                                                                        Phạm Thị Thu Trang            D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 tập 1 2/ Sách giáo viên Tiếng Việt 5 tập 1 3/ Tiếng Việt nâng cao 5 4/ Mấy vấn đề về lý luận và phương pháp dạy học từ ngữ Tiếng Việt  trong nhà trường (Nguyễn Đức Tôn) 5/ Giải đáp 88 câu hỏi về  giảng dạy Tiếng Việt  ở  Tiểu học (Lê Hữu  Thỉnh – Trần Mạnh Hưởng) 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2