intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học lớp 5

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:11

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là môn Toán ở trường Tiểu học bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt chúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học lớp 5

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN   1. Lời giới thiệu: Toán học là các đối tượng trừu tượng, nên đối với toán học nó là sự  trừu tượng hóa   trên các trừu tượng hóa liên tiếp trên nhiều tầng bậc. Sự trừu tượng hóa lên tiếp luôn   gắn liền với sự khái quát hóa liên tiếp và với lí tưởng hóa. Toán học sử dụng phương  pháp suy diễn, nó là phương pháp suy luận làm cho toán học phân biệt với các khoa  học khác. Do đó, Toán học là một môn học ngày càng có nhiều  ứng dụng trong cuộc   sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ  bản đã giúp con người giải quyết các   vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy  xã hội phát triển. Môn Toán ở trường Tiểu học bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận   hợp lí và diễn đạt chúng ( nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết những vấn đề  đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập  toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự  học và làm việc có kế  hoạch  khoa học, chủ  động, linh hoạt, sáng tạo. Đồng thời, nó góp phần hình thành và phát  triển phẩm chất, nhân cách học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ  hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn; tạo dựng   sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với   các môn học khác. Nội dung môn Toán thường mang tính trừu tượng hóa và khái quát hóa nhưng không  thể chỉ dựa vào tri giác bởi toán học là kết quả của thao tác tư duy đặc thù. Do đó, để  hiểu và học được Toán, chương trình Toán  ở  trường phổ  thông cần bảo đảm sự  cân   đối giữa “học” kiến thức và “áp dụng” kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể. Trong chương trình toán Tiểu học, cùng với các nội dung về số học, đại lượng,...học  sinh còn được học các kiến thức về hình học. Hình học  ở  Tiểu học không được dạy   thành môn học riêng mà nó được sắp xếp đan xen với các mạch kiến thức khác,  là bộ  phận gắn bó mật thiết với các kiến thức số  học, đại lượng, giải toán thành các môn   học thống nhất phù hợp với sự phát triển từng giai đoạn nhận thức của học sinh. Đặc  biệt các bài toán giải có liên quan đến yếu tố  hình học chiếm phần nhiều trong dạy  toán có nội dung hình học  ở lớp 4­5. Đối với các bài toán có nội dung hình học ở  các   lớp giai đoạn đầu chỉ  yêu cầu học sinh quan sát các biểu tượng mà nhận ra các hình  đơn giản, tính diện tích với các số  đo cho sẵn (lớp 3). Đến lớp 4­5, yêu cầu về  các   yếu tố hình học đã được nâng cao, trong đó việc giảng dạy các bài toán thuộc loại này   thực sự đã làm cho học sinh phát triển được năng lực tư duy hình học mà đặc biệt các  bài toán liên quan đến diện tích các hình đã góp phần tích cực vào việc giúp cho học  
  2. sinh nắm chắc hơn kiến thức và các kỹ năng cơ  bản của hình học, tạo khả năng giải   toán một cách sáng tạo và linh hoạt.           Trước đây, giáo viên thường dạy như hướng dẫn trong sách giáo khoa. Giáo viên  xây dựng công thức cho học sinh rồi yêu cầu học sinh học thuộc lòng công thức ấy. Vì   thế, khi gặp các bài toán đơn giản cho sẵn các yếu tố có trong công thức thì học sinh   làm được nhưng khi gặp các bài toán thực tế liên quan đến yếu tố hình học, học sinh   lại lúng túng không biết làm thế nào. Nguyên nhân chính là do các em không nắm vững  công thức, không thuộc công thức. Đa số các em không biết cách vận dụng công thức   để giải quyết bài toán. Học sinh chưa có khả năng quan sát để nhận ra các yếu tố của   hình  ở  trong các hình khác nhau để  tìm ra mối liên hệ. Đặc biệt, khi phải thêm, bớt   hình thì học sinh càng lúng túng. ( Tài liệu Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học – Vũ Quốc Chung chủ biên) Vì vây, để  giải quyết những băn khoăn, trăn trở về  cách dạy và học mạch kiến thức  này, bản thân tôi là một giáo viên đã nhiều năm dạy lớp 5, tôi nghĩ cần phải có một  giải pháp cụ  thể  giúp học sinh nắm – hiểu và giải được các bài toán liên quan đến  diện tích các hình một cách chắc chắn hơn. Tôi chọn nội dung: “Một số  giải pháp   giúp học  sinh giải các bài toán có yếu tố  hình học  lớp 5”  để  nghiên cứu, thực  nghiệm nhằm góp phần tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn cho bản thân, cho đồng  nghiệp cũng như giúp các em học tốt hơn nội dung này. 2. Tên sáng kiến: Sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có  yếu tố hình học   lớp 5 „. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Thủy ­ Tổ 4 + 5 ­ Địa   chỉ tác   giả sáng   kiến: Trường   Tiểu   học Định   Trung­   thành   phố   Vĩnh  Yên­ tỉnh Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0984740576       ­ Email: nguyenthithuy.gvc1dinhtrungvy@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Thủy 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực khoa học tự nhiên ở Tiểu học. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng:  Ngày 15/11/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
  3.      7.1. Vê nội dung của sáng kiến:  “Một số  giải pháp giúp học sinh giải các bài   toán có  yếu tố hình học  lớp 5. „ 7.1.1.Cơ sở lí luận: ­ Học sinh Tiểu học thường  chú ý không chủ định. Sự chú ý của học sinh tiểu học còn   phân tán, dễ  bị  lôi cuốn vào các trực quan, gợi cảm, thường hướng ra bên ngoài vào   hành động, chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy. Trí nhớ trực quan­ hình   tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ logic, hiện tượng hình ảnh cụ thể dễ  nhớ  hơn các câu chữ  trừu tượng, khô khan. Trí tưởng tượng còn chịu tác động nhiều   của hứng thú, kinh nghiệm sống, mẫu vật đã biết. ­ Học sinh tiểu học thường phán đoán theo cảm nhận riêng nên suy luận thường mang  tính tuyệt đối. Học sinh khó nhận thức về quan hệ kéo theo trong suy diễn. các em khó   chấp nhận các giả  thiết, dữ  kiện có tính chất hoàn hảo giả  định bởi khi suy luận  thường gắn liền với thực tế, phép suy diễn của “ thực hiện”. Bởi vậy, khi nghe một   mệnh đề toán học các em chưa có khả năng phân tích rành mạch các thuật ngữ, các bộ  phận của câu mà hiểu rõ một cách tổng quát. ­ Tư duy của học sinh tiểu học đang trong giai đoạn “tư duy cụ thể”, chưa hoàn chỉnh,   vì vậy việc nhận thức các kiến thức toán học trừu tượng khái quát là vấn đề  khó đối   với các em. Trong dạy học, cần nắm vững sự phát triển có quy luật của tư  duy học   sinh, đánh giá đúng khả  năng hiện có và khả  năng tiềm  ẩn của học sinh. Từ  đó, có  những biện pháp sư phạm thích hợp với trình độ phát triển của học sinh. Tuy nhiên, đến cuối cấp học, học sinh có những tiến bộ về nhận thức không gian như  phối hợp cách nhìn một hình hộp từ các phía khác nhau, nhận thức được các quan hệ  giữa các hình với nhau ngoài các quan hệ  trong nội bộ  một hình. Học sinh tiểu học   bước đầu có khả  năng thực hiện việc phân tích tổng hợp, trừu tượng hoá­ khái quát  hoá và những hình thức đơn giản của sự  suy luận, phán đoán.  Ở  học sinh tiểu học,  phân tích và tổng hợp phát triển không đồng đều, tổng hợp có khi không đúng hoặc  không đầy đủ, dẫn đến khái quát sai trong hình thành khái niệm. Khi giải toán,  học  sinh thường  ảnh hưởng bởi một số  từ  “thêm”, “bớt”, “nhiều gấp” ... tách chúng ra   khỏi điều kiện chung để lựa chọn phép tính ứng với từ đó, do vậy dễ mắc sai lầm. Trước đây, cách dạy của giáo viên thường cho học sinh quan sát hình vẽ  trong sách  giáo khoa để trả  lời câu hỏi rồi xây dựng công thức. Cách dạy này nếu các em ngoan  ngoãn, chú ý nghe giảng thì còn hiểu được phần nào lời cô nói còn các em hay bị phân  tán, chú ý vào việc khác các em sẽ không nghe và không nhớ được những gì cô dạy.Từ  đó các em không hiểu bản chất của công thức, nếu có thuộc công thức cũng chỉ  là   “học vẹt”. Sau đó, khi luyện tập thực hành, giáo viên thường cho các em tự  làm, gặp  bài nào khó hỏi cô, cô giáo gợi ý các em làm được nhưng rồi các em cũng sẽ  nhanh   quên.
  4. 7.1.2. Thực trạng về dạy học về các yếu tố hình học ở Tiểu học. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm ở lớp 5, được tiếp xúc và tâm sự với   nhiều đối tượng học sinh, được dự  giờ  đồng nghiệp, tôi đã cập nhật và thu nhận rất  nhiều vấn đề thắc mắc cũng như những sai sót, nhầm lẫn của học sinh khi thực hành  giải các bài toán có có nội dung hình học.  Các lỗi sai của học sinh thể hiện rất nhiều   trường hợp ở nhiều khía cạnh khác nhau, đó là: ­ Nhiều học sinh không phân biệt được biểu tượng chu vi, diện tích từ  đó kéo theo  những sai lầm khi làm toán. ­ Sai khi tóm tắt bài toán và minh hoạ sơ đồ, hình vẽ, đoạn thẳng  ( học sinh thường bỏ  sót các dữ liệu đề bài hoặc bỏ sót câu hỏi của bài toán trên sơ đồ tóm tắt; cũng có khi   là sự biểu diễn sai hoặc chưa chính xác quan hệ toán học trên sơ đồ tóm tắt,...). ­ Sai khi lập luận thiếu chặt chẽ ( ngôn ngữ dài dòng, ngôn ngữ chưa phù hợp với tình   huống ứng dụng thực tế, viết chưa đúng quy ước trình bày bài giải......).            ­ Một số học sinh còn hạn chế trong việc nhận dạng và trình bày bài giải khi  thực hành giải toán có nội dung hình học, vận dụng còn nhầm lẫn công thức tính chu  vi, diện tích các hình đã học, thường sai đơn vị đo.           ­ Do khả năng tư duy thiếu linh hoạt nên khi giải các bài toán xuôi chiều thì  không vướng mắc nhưng khi giải các bài toán ngược chiều thì gặp khó khăn.                Ví dụ: Khi dạy hai hình A và B có chu vi bằng nhau  thì các em thường kết  luận ngay hai hình đó có diện tích bằng nhau.           ­ Việc tiếp thu kiến thức hình học rất máy móc, rập khuôn.                Ví dụ: Khi dạy về khối hình lập phương thì cứ nhất thiết hình đó phải như  hình của hộp phấn mới gọi là hình lập phương. ­ Cùng với đó, qua khảo sát chất lượng của 150 học sinh lớp 5 vào đầu tháng 10 theo 3   tiêu chí sau, kết quả như sau: Nhận biết  Nắm kiến  Vận dụng kiến thức làm bài tập hình và kĩ  thức cơ bản  năng vẽ hình về hình học Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt 129 em 21 em 115 em 35 em 105 em 45 em 86% 14% 76,7% 25,3% 70% 30% ­ Từ những thực trạng trên, tôi thiết nghĩ  là một giáo viên không thể dạy học toán mà  không nắm vững đặc thù của toán học nói chung, không thể  nắm không nắm vững  
  5. những kiến thức toán học cơ  bản, cần thiết liên quan đến các kiến thức cần dạy. Vì   vậy, giảng dạy như thế  nào cho có hiệu quả  để  giúp học học sinh giải được các bài  toán có liên quan đến yếu tố hình học lớp 5. Tôi xin mạnh dạn đưa ra những giải pháp   sau. 7.2. Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học lớp 5      *Giải pháp 1: Tổ chức cho học sinh thực hành để nắm chắc đặc điểm của các   hình.            Hoạt động nhận dạng đặc điểm các đối tượng hình học có các mức độ  sau:   Nhận dạng hình học được tiến hành bằng trực giác, tri giác như  là một “ toàn thể”  thông qua so sánh, đối chiếu vật mẫu. Vì vậy, tôi tiến hành theo các bước như sau: + Bước 1: Giáo viên nghiên cứu kĩ bài học, tìm hiểu các đồ  dùng gần gũi, quen thuộc   với học sinh có liên quan đến hình cần dạy. Chẳng hạn dạy bài hình tròn, giáo viên   nhắc học sinh mang những đồ  vật hình tròn đến lớp hay khi dạy hình lập phương,  hình hộp chữ  nhật… Giáo viên nhắc học sinh mang hộp quà, hộp kẹo, hộp giấy,… thậm chí có thể lấy luôn hộp bút, hộp phấn làm đồ dùng. + Bước 2: Cho học sinh thực hành trên các đồ  vật có thật đó để  tìm ra đặc điểm của   hình. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh dùng ngón tay đưa xung quanh hình tròn để  học sinh  cảm nhận và hiểu đó là đường tròn, đồng thời giúp học sinh phân biệt hình tròn và  đường tròn. Sau đó, giáo viên giới thiệu luôn với học sinh đường tròn chính là chu vi    của hình tròn còn nếu lấy tay xoa lên mặt hình tròn thì đó là diện tích hình tròn. Tương tự khi dạy bài Hình hộp chữ  nhật hay bất kì bài hình nào khác giáo viên cũng  cần cho học tự cảm nhận, tìm hiểu để  tìm và khắc sâu những đặc điểm của hình đó,  tránh nhầm lẫn hoặc mơ hồ về các hình. + Bước 3: Tổng hợp khái quát đặc điểm của từng hình. + Bước 4: Ôn tập, củng cố lại những hiểu biết của mình về hình đó. *Giải pháp 2: Tổ chức cho học sinh tự xây dựng công thức tính diện tích, thể tích   của các hình. ­ Các bước tiến hành như sau: + Bước 1: Tổ chức cho học sinh thảo luận tìm cách tính diện tích hình bằng cách đưa   về các hình đã học. Ví dụ 1: Để xây dựng công thức tính diện tích hình thang giáo viên tổ chức như sau: ­ Yêu cầu các nhóm lấy tấm bìa hình thang, quan sát và nhắc lại đặc điểm của hình  thang.
  6. ­ Hướng dẫn học sinh cắt, ghép thành hình tam giác. ­ Nhận xét : Diện tích hình thang ABCD bằng diện tích hình tam giác ADK. Diện tích tam giác ADK là :    Ví dụ 2: Để xây dựng công thức tính diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật, giáo   viên tổ chức như sau: ­ Yêu cầu học sinh chỉ ra bốn mặt bên của chiếc hộp mình mang đi. ­ Mở chiếc hộp đã cho ra như hình vẽ rồi xác định mỗi mặt bên là hình chữ nhật. ­ Ghép 4 hình chữ nhật này lại thành hình chữ nhật dài ABCD, tính cạnh hình chữ nhật   ABCD rồi tính diện tích hình chữ nhật ABCD thì ra diện tích xung quanh hình hộp chữ  nhật. + Bước 2: Xây dựng công thức tính diện tích các hình từ hình mình vừa tìm được. Ví dụ 1: Xây dựng công thức tính diện tích hình thang từ diện tích hình tam giác:   Ví dụ 2: Xây dựng công thức tính diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật từ hình   chữ nhật ABCD. + Chiều dài hình chữ  nhật ABCD là: AM + MN + NP + PB. Đây chính là chu vi mặt  đáy. + Chiều rộng AD chính là chiều cao của hình hộp chữ nhật. + Do đó diện tích xung quanh của hình hộp chữ  nhật là: Chu vi mặt đáy nhân chiều   cao. *Giải pháp 3: Tổ  chức cho học sinh luyện tập giải các bài toán cơ  bản nhằm   củng cố các công thức vừa học. + Bước 1: Giáo viên lựa chọn các bài toán áp dụng trực tiếp công thức. Ví dụ1: Tính chu vi hình tròn có đường kính d = 0,75cm. Ví dụ 2: Tính diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình hộp chữ nhật biết  chiều dài 25dm, chiều rộng 1,5m, chiều cao 18dm. + Bước 2: Quan sát, giúp đỡ những học sinh chưa làm được.           Ở bước này giáo viên chú ý những bài mà không cùng đơn vị đo ( như Ví dụ 2)    xem học sinh đã biết đổi đơn vị đo trước khi áp dụng công thức chưa. + Bước 3: Lựa chọn các bài toán tìm các thành phần khác của công thức.
  7. Ví dụ 1: Tính bán kính hình tròn có chu vi C = 18,84dm  ­ Bài này học sinh phải dựa vào công thức tính chu vi hình tròn C = r x 2 x 3,14 để suy  ra r = C : 3,14 : 2. Ví dụ 2: Một hình thang có diện tích 3,42m2, đáy lớn hơn đáy bé 2,7m. Tính độ dài mỗi  đáy biết chiều cao là 1,2m.            Để  làm bài toán này, GV hướng dẫn HS dựa vào công thức tính diện tích hình   thang  S =    ( a: đáy lớn; b: đáy nhỏ; h: chiều cao) để  suy ra tổng độ  dài hai đáy của hình thang  bằng diện tích nhân 2 chia chiều cao (a + b = S x 2 : h). T ừ đó đưa về bài toán tìm hai   số khi biết tổng và hiệu để tìm đáy lớn, đáy bé.           Khi làm dạng này, giáo viên cần chú ý quan tâm sát sao đến học sinh để giúp đỡ  những em gặp khó khăn, lúng túng trong khi các em làm bài, tránh tình trạng các em  nắm không vững thì sẽ gặp khó khăn cho các dạng tiếp theo. ­ Nếu giáo viên hướng dẫn rõ ràng, từng bước chắc rằng ngoài việc học sinh thuộc và   biết vận dụng công thức các em còn biết chuyển đổi công thức. Giáo viên rèn kỹ năng   học sinh áp dụng các kiến thức về tìm thành phần chưa biết và giải toán để  tìm kích  thước.Thông qua việc tìm ngược các kích thước các em cũng được củng cố công thức  tính diện tích và hiểu rõ các thành phần của công thức đó. *Giải pháp 4: Thường xuyên liên hệ các bài toán có yếu tố hình học gắn với thực   tế. + Bước 1: Hướng dẫn các bài toán có nội dung hình học gắn với thực tế  mà chỉ  sử  dụng công thức để giải bài toán. Trong bước này, giáo viên lựa chọn các bài toán có nội dung thực tế  gần gũi, có thể  minh họa bằng hình ảnh trực quan để học sinh hiểu và có sự liên hệ toán học với cuộc  sống. Ví dụ: Một bể  cá dạng hình hộp chữ  nhật có chiều dài 1m, chiều rộng 50cm, chiều   cao 60cm.Tính: 1. Diện tích kính dùng làm bể cá ( không có nắp) 2. Thể tích bể cá. 3. Mức nước trong bể cao bằng chiều cao bể. Tính thể tích nước trong bể ( chiều  dày kính không đáng kể) Để  dạy bài này, giáo viên cho học sinh quan sát bể  cá trên máy chiếu hoặc tranh  ảnh  để học sinh quan sát bằng trực quan. Từ đó, học sinh nhận ra diện tích kính dùng làm  bể cá là diện tích xung quanh và diện tích một mặt đáy cua hình hộp chữ nhật ( vì bể  không có nắp). Và quan trọng, hình ảnh trực quan giúp học sinh dễ dàng hiểu rằng khi 
  8. nước trong bể  nước cũng có dạng hình hộp chữ  nhật và so sánh được thể  tích của   nước và thể  tích của bể  cá giống nhau về  chiều dài, chiều rộng, chỉ  khác nhau về  chiều cao. Từ việc hiểu bài toán như vậy, học sinh dễ dàng áp dụng các công thức tính diện tích  xung quanh và thể tích để giải bài toán. Ví dụ: Trên mảnh vườn hình thang ( như hình vẽ), người ta sử dụng 30% diện tích để  trồng rau cải và 25% diện tích để trồng su hào.  Hỏi: 1. Diện tích trồng rau cải là bao nhiêu mét vuông? 2. Diện tích trồng su hào là bao nhiêu mét vuông? + Bước 2: Phối hợp các bài toán có nội dung hình học với các dạng toán khác. Giáo viên dần mở rộng các bài toán có nội dung hình học nhưng phối hợp nhiều  dạng toán khác để giải quyết các bài toán gắn trong thực tế. Ví dụ 1: Trên mảnh vườn hình thang có đáy nhỏ 40m, đáy lớn 70m, chiều cao  30m, người ta sử dụng 30% diện tích để trồng rau cải và 25% diện tích để  trồng su hào. Hỏi: 3. Diện tích trồng rau cải là bao nhiêu mét vuông? 4. Diện tích trồng su hào là bao nhiêu mét vuông? Với dạng toán này học sinh phải biết tính diện tích mảnh vườn hình thang rồi phối   hợp với dạng toán về tỉ số phần trăm để giải bài toán. Ví dụ  2: Một biển báo giao thông có đường kính 40cm. Diện tích hình mũi tên trên  biển báo bằng  diện tích của biển báo đó. Tính diện tích mũi tên của biển báo. Bài này đòi hỏi học sinh phải biết tính bán kính khi biết đường kính rồi từ đó tính diện   tích hình tròn. Khi tính diện tích hình tròn xong, học sinh phải nhớ lại cách tìm phân số  của một số để tính diện tích mũi tên. + Bước 3: Hướng dẫn HS hiểu một số từ ngữ toán học gắn với thực tế. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy học sinh nhiều khi lúng túng không biết từ đó là gì  và người ta hỏi gì. Ví dụ1: Một khu đô thị có chiều dài 0,5 km, chiều rộng bằng 5/8 chiều dài. Hỏi khu đô   thị đó rộng bao nhiêu héc ta? Ví dụ 2: Người  ta đổ cát vào một cái hố hình hộp chữ nhật có chiều dài 50dm, chiều   rộng 30dm, chiều sâu 50dm. Hãy tính xem phải đổ  bao nhiêu khối cát ( Biết rằng  1m3 là một khối ) thì đầy cái hố đó?
  9. Ở ví dụ 1 nhiều HS không biết “rộng” bao nhiêu héc ta là tính cái gì? “Chiều sâu” là  gì? Và “đổ bao nhiêu khối cát” là đi tìm gì? Giáo viên có thể sử dụng hình ảnh minh  họa chỉ cho HS hiểu “ rộng” ở đây chính là diện tích khu đô thị. Còn “chiều sâu” của hố  chính là chiều cao của nó và số  cát cần đổ  để  lấp đầy hố   chính là thể tích của cái hố. 7.3. Về khả năng áp dụng của sáng kiến. Sáng kiến đã được áp dụng thử   năm 11/2019 đến nay cho hiệu quả  rất tốt. Các em  học sinh cảm thấy làm bài dễ  dàng hơn, không còn lúng túng và không cảm thấy sợ  khi gặp phải các bài toán có nội dung hình học, đặc biệt là các bài toán gắn với thực  tế. ­ Vận dụng cho tất cả các đối tượng học sinh lớp 5 để rèn kĩ năng nhận dạng bài toán,   kĩ   năng   vận   dụng   công   thức,   kĩ   năng   trình   bày   bài   giải,   ...          ­ Đối với các em có năng khiếu khi mở rộng về dạng toán này nắm bắt cũng nhanh hơn, vận dụng giải các bài toán ngoài thực tế rất linh hoạt; còn các em học  yếu cũng làm được các bài toán cơ bản. Vì vậy, trong các bài kiểm tra các em đều làm  tốt các bài có nội dung hình học. Cụ  thể: Sau khi áp dụng sáng kiến tôi đã tiến hành Khảo sát lại chất lượng của 150   học sinh khối lớp 5 theo 3 tiêu chí. Kết quả đạt được như sau: Nhận biết Nắm kiến  thức cơ bản Vận dụng luyện tập về kỹ năng  vẽ hình về hình học Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt 145 em 5 em 142 em 8 em 140 em 10 em 96,7% 3,3% 94,5% 5,5% 93,3% 6,7%   ­ Sáng kiến mang lại hiệu quả  cao trong giảng dạy nên sáng kiến còn áp dụng tiếp   trong những năm học tiếp theo. ­ Mặt khác, sáng kiến có thể áp dụng cho những giáo viên mới ra trường hoặc những   giáo viên chưa từng dạy lớp 5 còn thiếu kinh nghiệm. Ngoài ra, sáng kiến còn có thể  áp dụng cho bất kì giáo viên nào muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán của lớp   mình. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
  10. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 9.1. Về phí giáo viên.           ­ Giáo viên phải nghiên cứu kĩ sách giáo viên, sách giáo khoa Toán 5 xác định   được mục đích và yêu cầu về  kiến thức kĩ năng cần đạt trong từng bài có liên quan  đến nội dung hình học.           ­ Dạy học phải nghiên cứu và phân đối tượng, chia lớp nhỏ có đủ các đối tượng,   chú ý đến cách phân tích đề toán, hình thành cho HS thói quen đọc và xác định yêu cầu  bài tập.           ­ Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải tạo điều kiện cho các em được giải  toán, được trình bày ý tưởng của mình, tạo niềm tin cho các em giúp các em có sự  nổ  lực cố gắng vươn lên trong quá trình học tập. 9.2. Về phía học sinh. ­ Đối với học sinh khó khăn về  học cần cho học sinh thực hành nhiều trên bảng với   những dạng tương tự và cũng đi từ từ từng bước. Tạo sự mạnh dạn ở các em, chỉ yêu  cầu học sinh thực hiện cơ bản về cách làm chung. ­ Đối với học sinh năng khiếu, giáo viên yêu cầu học sinh suy luận lô­gic hơn và làm  nhiều bài vận dụng ở thực tế hơn. 9.3. Vê phía nhà trường. ­ Nhà trường cần trang bị  đầy đủ  về  cơ  sở  vật chất, trang thiết bị  phục vụ  cho các  hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh.          ­ Tổ chức nhiều các hoạt động theo chủ đề Vui học tập có liên quan đến các yếu   tố hình học để học sinh được tham gia, tạo cơ hội cho học sinh phát huy năng lực học  tập của bản thân. 10. Đánh giá lợi ích dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến: 10.1. Mang lại lợi ích về kinh tế: Sau khi áp dụng các giải pháp mà sáng kiến đã nêu cho học sinh lớp 5, tôi thấy hiệu  quả giảng dạy được nâng lên rõ rệt. ­ Các giải pháp này giúp giáo viên có thể dạy các em hiểu và nắm chắc các bài toán có  nội dung hình học này ngay từ các bài toán trong sách giáo khoa. Giáo viên không cần  tìm và mua nhiều các tài liệu và sách tham khảo, học sinh cũng không phải mua nhiều  sách, không phải đi học thêm . Như vậy, giải pháp của tôi đã tiết kiệm chi phí, tiết  kiệm thời gian cho cả giáo viên và học sinh. 10.2. Mang lại lợi ích về xã hội:
  11. Đây là giải pháp sẽ giúp giáo viên tự tin hơn về phương pháp dạy các bài về có nội  dung hình học trong chương trình toán lớp 5. Nhờ có sự khắc sâu và mở rộng kiến  thức  của giáo viên trong quá trình giảng bài nên học sinh làm bài tốt, tính toán chính  xác và biết chọn cách giải hợp lý nhất và tự tin vận dụng vào thực tế linh hoạt hơn,…  Các em biết dùng lời lẽ giải thích hợp lý, lời văn trong sáng để trình bày một cách  khoa học, sạch sẽ. 11.  Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến. TT Tên tổ Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực chức/cá nhân áp dụng sáng kiến   Giáo   viên   và   họcTr  ường Tiểu   học   Định  sinh   lớp   5A1,   5A2,Trung– Vĩnh Yên   1 Trong thành phố/ Lĩnh vực 5A3, 5A4 khoa học tự nhiên     Trường Tiểu học Quất  Trong   tỉnh   giáo   dục/   Lĩnh   vực  Lưu­ Bình Xuyên khoa học tự nhiên 2 Trần Thắng Vũ   Hoàng Thành Thư Trường Tiểu   học   ĐồngTrong thành ph   ố  giáo dục/ Lĩnh  Tâm­ Vĩnh Yên vực khoa học tự nhiên 3   Vĩnh Yên, ngày…tháng…năm 2020 Vĩnh Yên, ngày 08 tháng 5 năm 2020 Xác nhận của lãnh đạo nhà trường. Tác giả sáng kiến (Kí tên, đóng dấu)       Nguyễn Thị Thủy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2