Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Thể dục
lượt xem 4
download
Mục đích của sáng kiến này là giúp học sinh thường xuyên luyện tập để nâng cao sức khoẻ và hoàn thành tốt các bài tập thể dục mà giáo viên giao cho. Các em phải có tính trung thực trong luyện tập cũng như trong khi chơi trò chơi và biết vận dụng vào cuộc sống. Tập luyện ở nhà vào buổi sáng hằng ngày nhằm nâng cao sức khỏe.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Thể dục
- PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂU CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT TRƯỜNG TIỂU HỌC D CHÂU NAM PHONG Độc lập Tự do Hạnh phúc *** Châu Phong, ngày 03 tháng 12 năm 2018 BÁO CÁO SÁNG KIẾN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Thể dục I. Sơ yếu lý lịch tác giả: Họ và tên: Lê Quang Sen Nam, nữ: Nam Ngày tháng năm sinh: 25/02/1989 Nơi thường trú: xã Châu Phong, Thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang Đơn vị công tác: Trường Tiểu học D Châu Phong Chức vụ hiện nay: Giáo viên chuyên thể dục Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Lĩnh vực công tác: Chuyên môn II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: * Sơ lược tình hình đơn vị: a. Thuận lợi Được sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ban Giám Hiệu nhà trường trong công tác giảng dạy. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng nghiệp, có điều kiện trao đổi tay nghề. Sân bãi phục vụ cho việc ngoài trời khá tốt. Đồ dùng dạy học được trang bị đầy đủ. Đa số học sinh có trang bị đồ thể dụng cũng như giầy thể thao phục vụ cho việc học thể dục. b. Khó khăn Sân tập là sân đất còn bị bụi vào mùa gió nhiều. Một số học sinh chưa trang bị được đồ thể dục cũng như giày thể dục trong các giờ thể dục ảnh hưởng đến chất lượng học của tiết thể dục. * Tên sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Thể dục”. * Lĩnh vực: Chuyên môn thể dục III. Mục đích, yêu cầu của sáng kiến: 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: 1
- a) Đối với giáo viên: Trước giờ dạy cần nắm chắc những diễn biến sức khoẻ hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt, kết quả của bài trước những thay đổi tổ chức học tập, những vấn đề chung của lớp và những em cá biệt. Từ đó kịp thời điều chỉnh kế hoạch mức độ hình thức, phương pháp lên lớp. Khi hướng dẫn một nội dung nào đó trong tiết dạy giáo viên phải phối hợp tốt với cán sự lớp để giúp giáo viên điều khiển lớp tập, giáo viên đi quan sát sửa chữa, uốn nắn, gíúp đỡ những em tập chưa hoàn thành đặc biệt cần chú trọng đến sân bãi và dụng cụ tập luyện để phòng ngừa chấn thương cho các em. Giáo viên hướng dẫn một động tác nào đó cần nói rõ tên động tác. Hướng dẫn học sinh xem tranh, phân tích kỹ thuật động tác đặt biệt là biến độ động tác nhằm nâng cao kỹ thuật động tác.. b) Đối với học sinh: Thường xuyên luyện tập để nâng cao sức khoẻ và hoàn thành tốt các bài tập thể dục mà giáo viên giao cho. Các em phải có tính trung thực trong luyện tập cũng như trong khi chơi trò chơi và biết vận dụng vào cuộc sống. Tập luyện ở nhà vào buổi sáng hằng ngày nhằm nâng cao sức khỏe. Hình thành thói quen tập luyện, nâng cao kỹ thuật động tác . Các em phải có tính bảo quản đồ dùng của giáo viên và chính của các em. Tham gia đầy đủ các cuộc vui chơi do nhà trường tổ chức. Cần phải có trang phục thể dục để tập luyện thoại mái và tự tin hơn 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: Giáo dục sức khỏe là một mặt không thể thiếu được của nền giáo dục phổ thông toàn diện trong nhà trường, nó là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, một di sản quý giá của loài người, góp phần tích cực hình thành nên mẫu người phù hợp với các tiêu chuẩn do xã hội quy định, giáo dục sức khỏe tồn tại và phát triển theo các bước tiến bộ của xã hội loài người. Công tác giáo dục thể chất (GDTC) khẳng định vị trí, vai trò, tác dụng của GDTC trường học nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ảnh hưởng của giáo dục thể thao trường học đối với sức khỏe và thể chất của học sinh, sinh viên, đồng thời là phương tiện hữu hiệu nhằm giáo dục nhân cách, bồi dưỡng phẩm chất và kỹ năng lao động nghề nghiệp tương lai cho tuổi trẻ học đường. Hệ thống GDTC ở nước ta hiện nay thể hiện tính mục đích, tính nhân dân và tính khoa học. Từ bậc tiểu học cho đến trung học phổ thông, học sinh được học 2 tiết thể dục trên một tuần trong chương trình chính khoá. GDTC là biện pháp hữu hiệu đem lại sức khoẻ cho mọi người. Một trong những mục đích của GDTC đối với học sinh, sinh viên là hoàn thiện về cấu trúc và chức năng cơ thể của các em để khi các em trưởng thành sẽ trở thành một người phát triển toàn diện, thông qua GDTC còn giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, bồi dưỡng tinh 2
- thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong làm việc có khoa học trong đời sống. Nếu làm tốt công tác GDTC trong trường phổ thông và các trường đại học, cao đẳng sẽ phòng ngừa cho các em nhiều bệnh tật. Đất nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng mục tiêu giáo dục đặt lên hàng đầu. Vì thế sức khỏe con người ngày càng được nâng cao hơn, cho nên việc giảng dạy giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai mai sau trong trường tiểu học là rất quan trọng không thể thiếu được. Qua những bài tập: Đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, bài tập rèn luyện tư thế cơ bản, bài tập về kỹ năng vận động cơ bản, trò chơi vận động có tác động lên cơ thể các em, làm cho cơ thể các em chuyển biến về hình thái chức năng theo chiều hướng tích cực là một trong những mặt giáo dục có ý nghĩa nêu cao tầm vóc, sức khỏe cho học sinh phát triển tốt hơn. Đối với giáo viên thể dục hiện nay rèn luyện cho các em có đầy đủ sức khỏe là rất quan trọng tạo cho các em có được “một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể cường tráng”. Đặc biệt ở lứa tuổi học sinh tiểu học việc rèn luyện thể chất cho các em thông qua các bài tập thể dục là một việc làm hết sức quan trọng đối với giáo viên giảng dạy thể dục. Hơn thế nữa Bác đã nói: Mỗi người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân mạnh khỏe tức làm cho đất nước hùng mạnh thêm”. Chúng ta cũng nhớ rằng sức khỏe là vốn quý nhất của con người “Sức khỏe là vàng”. Một người khỏe mạnh, gia đình khỏe mạnh, xã hội khỏe mạnh thì đất nước sẽ cường thịnh, năng suất lao động sẽ được nâng cao, thành quả lao động đạt nhiều hơn: Dân giàu nước mạnh, xã hội phồn vinh – thịnh vượng Môn thể dục bậc tiểu học có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số tri thức kĩ năng đơn giản cần thiết, nhằm rèn luyện tư thế cơ bản, làm giàu vốn kỹ năng vận động để các em học tập sinh hoạt có hiệu quả. Trên cơ sở đó góp phần bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho học sinh, phát triển các tố chất thể lực, tạo điều kiện cho các em phát triển bình thường theo quy luật tâm lý, lứa tuổi, giới tính và góp phần rèn luyện cho học sinh nếp sống lành mạnh, vui tươi có ý thức tổ chức kỷ luật và một số phẩm chất đạo đức khác, tạo tiền đề cho quá trình hình thành nhân cách đúng cho học sinh. Vì đặc thù môn thể dục ở nhà trường phổ thông là biến những kiến thức mà học sinh nắm được thành kỹ năng hoạt động vận động, trên cơ sở đó phát triển thể lực và tăng cường sức khỏe của các em. Nội dung cơ bản của kiến thức và kỹ năng bao gồm: Đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, các bài tập rèn luyện tư thế và kỹ năng vận động cơ bản, các trò chơi vận động. Những nội dung này xuyên suốt trong chương trình, được bố trí xen kẽ theo dạng “xoáy chôn ốc”, có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau chuẩn bị tốt cho các hoạt động sau này. Trong thực tế khi học môn học thể dục thì có nhiều đối tượng học sinh khác nhau, có em có sức khỏe tốt, có em sức khỏe yếu, có em tật bẩm sinh.v.v. Vậy phải làm thế nào với những em không phải đứng nhìn các bạn tập luyện mà buồn tủi. 3
- Phải như thế nào? Phải dùng biện pháp nào? Một câu hỏi đang đặt ra. Vậy trên nền tảng giáo dục thể chất đặt ra, với những phương pháp được sử dụng hợp lý có tác dụng quan trọng đến đối tượng tập luyện kích thích hay động viên, nhiều phương pháp khác để cho các em có thể tập luyện nâng cao sức khỏe, phục vụ tốt cho việc học tập…Chính vì thế trong các giờ lên lớp tôi thường xuyên theo dõi ,chú ý và quan tâm đến những đối tượng đó, nhằm giúp các em nắm được kiến thức cơ bản của môn học và không nhàm chán sau mỗi tiết học. Với những yêu cầu cấp bách trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Thể dục”. 3. Nội dung sáng kiến: 3.1. Tiến trình thực hiện Những năm qua do điều kiện sân bãi còn gặp nhiều khó khăn nhất là dụng cụ thể dục còn hiếm, thiếu tranh ảnh, dụng cụ tập luyện. Nội dung bài thể dục và trò chơi vận động giáo viên chuẩn bị chưa được chu đáo, giáo viên chỉ tổ chức cho học sinh luyện tập và chơi qua loa. Học sinh luyện tập thiếu nhiệt tình, thiếu chủ động, tinh thần luyện tập của các em không cao, khi các em tập bài thể dục không được chủ động, không nhiệt tình, không khí buổi tập không được hào hứng và sôi nổi, không lôi cuốn các em vào bài tập một cách chủ động. Muốn khắc phục những vấn đề trên trong quá trình giảng dạy môn thể dục ở lớp 5, giáo viên cần tạo cho học sinh có sự ham thích, say mê hứng thú trong giờ học mà khi tham gia tập bài thể dục phát triển chung. Qua tiết học giúp các em hiểu được lợi ích, tác dụng của việc tập luyện thể dục để đáp ứng vào thực tế. Trong cuộc sống hàng ngày rèn luyện cho các em có sức khoẻ dẽo dai, tinh thần minh mẫn, tạo cho các em có đức tính tốt như: khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, trung thực và tự giác ngày càng được hoàn thiện hơn. Do vậy giáo viên cần chuẩn bị tốt, thật đầy đủ và chu đáo về sân bãi, đồ dùng dạy học: giáo viên phải có còi, tranh ảnh trực quan, đồ dùng tự làm… có như vậy thì học sinh mới ham thích, say mê, tự giác trong luyện tập không chỉ để cho cơ thể phát triển một cách hài hoà cân đối khoẻ mạnh mà còn có những đức tính tốt, một tinh thần minh mẫn, một thể lực cường tráng. * Những nội dung trong chương trình dạy thể dục lớp 5: Chương trình thể dục lớp 5 gồm các nội dung đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, bài tập rèn luyện và kỹ năng vận động cơ bản, trò chơi vận động, được thực hiện theo phân phối chương trình và chuẩn kiến thức kỉ năng cụ thể là: Mỗi tuần học 2 tiết, mỗi tiết học trung bình 35 phút, cả năm học gồm 70 tiết, trong đó học kỳ I là 18 tuần dạy 36 tiết, học kỳ II là 17 tuần dạy 34 tiết. Ở lứa tuổi học sinh lớp 5, các em đã hoàn thiện hơn so với ở lứa tuổi học sinh lớp 1,2,3,4 tốc độ phát triển cũng tăng lên rõ rệt các em đã biết hành động theo sự hướng dẫn của giáo viên ở mức độ cao hơn. Điều đó giáo viên phải gương mẫu thường xuyên chú ý giáo dục tư tưởng cho học sinh để có thể giáo dục cho các em một cách chủ động, có kế hoạch và có 4
- kết quả cao hơn. Trong giảng dạy: Khi luyện tập hoặc cho các em vui chơi trò chơi thì có ảnh hưởng đến các lớp đang học. Vì vậy, giáo viên dạy cũng không được tốt lắm, học sinh cảm thấy chưa say mê tích cực trong tập luyện. Học sinh không chỉ học những bài thể dục tay không, trò chơi vận động mà các em còn rèn luyện thêm các tố chất nhanh, mạnh, bền, khéo léo… thông qua các nội dung học như: bật nhảy, chạy, ném bóng… Ngoài việc giảng dạy cho các em có được một sức khoẻ thật tốt, giáo viên còn phải luôn giáo dục cho học sinh trong trường từng tiết học như: tính dũng cảm, tính trung thực, tính tự giác, tính tích cực, tính khiêm tốn… cho nên phân môn thể dục ở bậc tiểu học chiếm một vị trí hết sức quan trọng không thể thiếu trong giáo dục con người theo hướng toàn diện. 3.2. Thời gian thực hiện Quá trình giảng dạy có kinh nghiệm 3 năm nên đã thay đổi phương pháp giảng dạy và thử áp dụng đối với năm học này để xem hiệu quả thế nào, năm học 2017 – 2018 áp dụng phương pháp giảng mới đối với học sinh lớp 5C, 5D. Thấy được hiệu quả cao khi áp dụng phương pháp giảng dạy mới đối với năm học trước nên năm học 2018 – 2019 tôi tiếp tục áp dụng phương pháp giảng dạy mới đang được áp dụng đối với học sinh lớp 5C, 5D, hiện giờ đang được phân công giảng dạy đối với những lớp này. 3.3. Các biện pháp tổ chức: Ngay từ đầu năm nhà trường có kế hoạch với trạm y tế địa phương kiểm tra toàn bộ sức khoẻ học sinh. Đặc biệt chú ý đến các bệnh tật mãn tính, tình hình phát triển của cơ thể, chú trọng một số chỉ số cơ bản khách quan như: Chiều cao đứng, cân nặng, tiến hành phân tích tổng hợp sức khoẻ mỗi học sinh. Mặc khác cần tìm hiểu khái quát các điều kiện học tập như: Số lượng các môn, các giờ học, địa điểm, quãng đường đi lại của học sinh…điều kiện khí hậu, địa phương. Trước giờ học dạy cần nắm chắc những diễn biến sức khoẻ, hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt, kết quả của bài trước, những thay đổi tổ chức học tập, những vấn đề chung của cả lớp và của những em cá biệt. Từ đó kịp thời điều chỉnh kế hoạch, mức độ, hình thức, phương pháp lên lớp. 3.3.1. Đổi mới công tác chuẩn bị bài giảng của giáo viên: Giáo viên cần nắm vững nội dung, kiến thức, kĩ năng của từng bài học, đồng thời tìm ra những phương pháp, hình thức dạy học mới, độc đáo để áp dụng cho từng bài sao cho có hiệu quả cao nhất. Giáo viên phải có ý thức soạn bài công phu, tỉ mỉ, kĩ càng, có kế hoạch bài dạy rõ ràng và chi tiết. Cụ thể: + Kiến thức và kĩ năng cần đạt được trong một giờ học phải lấy nội dung tập luyện để giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực làm trọng tâm. + Dung lượng kiến thức và kĩ năng của mỗi bài học phải đảm bảo tính vừa sức, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ nhớ và hấp dẫn học sinh. 5
- + Phương pháp chủ đạo trong tiết dạy là thực hành, ôn luyện nhiều lần ở các dạng hoạt động khác nhằm tạo hứng thú cho học sinh. Đặc biệt giáo viên cần có những hoạt động phát huy tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong từng tiết học. + Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phải luôn luôn được cải tiến, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, khả năng học tập của từng lớp thậm chí của từng học sinh. Khi giảng dạy, giáo viên cần có những dự kiến trước các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong giờ học để chọn lựa thủ pháp sử lí phù hợp. Giáo viên có thể linh động bố trí thời gian tổ chức các hoạt động trong thời lượng cho phép từ khoảng 3540 phút cho một tiết dạy. Nên dành nhiều thời gian cho việc rút kinh nghiệm, uốn nắn và sửa sai cho học sinh. 3.3.2. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh: a) Khi dạy đội hình, đội ngũ: Nội dung đội hình đội ngũ lớp 5 gồm các bài tập chính như: Tập hợp các đội hình (hàng ngang, hàng dọc) Dóng hàng, điềm số. Dàn hàng và dồn hàng. Quay người về các hướng. Cách chào, báo cáo khi ra vào lớp. Đi đều và đổi chân khi đi đều sai nhịp. Đây là những nội dung rất cơ bản nhằm giáo dục tính kỉ luật, tinh thần tập thể, rèn luyện nề nếp, thói quen chấp hành những quy định về tổ chức của lớp học, rèn luyện tư thế và tác phong của mỗi học sinh. Vì vậy khi dạy chủ đề này, giáo viên yêu cầu học sinh nắm được những kiến thức kĩ năng cơ bản nhất của đội hình đội ngũ. Yêu cầu cần đạt đối với tất cả học sinh chỉ ở mức ban đầu, sau đó biết cách tập luyện và tham gia vào quá trình tập luyện cùng tập thể (tổ, nhóm, lớp), được tham gia vào vận động nhưng chưa yêu cầu cao về kĩ thuật. Ví dụ: Khi học tập hợp hàng ngang, dóng hàng, chỉ cần yêu cầu học sinh thực hiện được tập hợp hàng ngang, dóng thẳng hàng ngang. Trong quá trình tập luyện, giáo viên cần sử dụng các phương pháp tổ chức và biện pháp tập luyện khác nhau để tránh đơn điệu. Khi dạy một nội dung, giáo 6
- viên cần gọi tên bài tập và nêu rõ khẩu lệnh, làm đúng mẫu, kết hợp giải thích hoặc cho học sinh xem tranh sau đó cho học sinh bắt trước và làm theo. Trong quá trình tập luyện, giáo viên cần nắm vững những sai lầm thường mắc của học sinh như các em thường hay quên khẩu lệnh, vào hàng thì chưa đứng ngay ngắn và sai vị trí. Từ đó giáo viên có nhũng biện pháp uốn nắn, sửa chữa kịp thời cho các em, không bắt buộc các em phải thực hiện các động tác theo quy trình kĩ thuật một cách chính xác. Giáo viên cần cho học sinh ứng dụng nội dung đội hình, đội ngũ vào một số hoạt động như: + Tập hợp xếp hàng ra vào lớp. + Tập trung chào cờ đầu tuần. Khi các em làm tốt, giáo viên cần khuyến khích những em có khả năng đạt mức yêu cầu cao hơn, cần có những biệp pháp cụ thể ở từng tiết học nhằm giúp học sinh đạt các chuẩn về kiến thức, kĩ năng. Căn cứ vào đó, giáo viên soạn bài và tổ chức tiết dạy linh hoạt sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. b) Khi dạy bài thể dục phát triền chung: Đây là các động tác nhằm phát triển thể lực chung và rèn luyện tư thế cơ bản đúng cho học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh biết cách thực hiện và thực hiện cơ bản đúng các động tác của bài thể dục. Ngoài việc thực hiện đúng quy trình, vận dụng linh hoạt các phương pháp để nâng cao chất lượng dạy học nội dung bài thể dục. Muốn vậy, trước khi lên lớp giáo viên phải nghiên cứu kĩ và tập luyện để làm mẫu đúng các động tác. Khi dạy động tác mới, giáo viên cần nêu đúng tên động tác, khi làm mẫu phải giải thích để học sinh biết được những điểm cơ bản, sau đó cho các em làm theo. Đối với một số động tác khó, giáo viên cần cho học sinh tập trước một số lần đối với cử động khó, sau đó kết hợp tập toàn bộ các cử động khác theo nhịp của động tác. Ví dụ: Đối với nhịp 1, 2 của động tác thăng bằng, giáo viên nên cho học sinh tập động tác đơn lẻ trước, chưa yêu cầu học sinh phải nhớ trình tự động tác mà chỉ cần các em thực hiện được động tác. Khi học sinh đã tập được động tác, giáo viên cần tổ chức các hình thức tập luyện phong phú sao cho phù hợp, hấp dẫn và sinh động để học sinh hứng thú tập luyện. Cần động viên rằng “Phải mạnh dạn hỏi giáo viên khi chưa hiểu bài”, xen kẽ giữa các lần tập giáo viên cần nhận xét và trực tiếp sửa sai cho những em thực hiện chưa đúng động tác. Khi ôn tập động tác, giáo viên luôn luôn thay đổi các hình thức tập luyện để học sinh không bị nhàm chán. Trước hết, giáo viên cho cả lớp ôn lại, nêu những cử động khó trọng tâm của động tác, sau đó chia tổ và phân khu vực cho học sinh tập luyện. Giáo viên nên kết hợp cho học sinh tập luyện với hình thức thi đua hoặc tổ chức trò chơi để kích thích các em tích cực tập luyện. c) Khi dạy bài rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản: 7
- Các bài tập thể dục rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản nhằm xây dựng những tư thế đúng, điều chỉnh kĩ năng chưa hợp lí của học sinh, góp phần phát triển cơ thể hài hòa và cân đối. Giáo viên cần tập trung rèn luyện cho học sinh tư thế đúng ngay từ ban đầu, sửa chữa những nhược điểm hoặc tư thế không chính xác, nhắc nhở kịp thời khi học sinh thực hiện từng động tác của tư thế chân, tay ở những biên độ và phương hướng khác nhau. Khi dạy học, giáo viên cần gọi tên và chỉ dẫn động tác, sau đó cho các em tập dưới sự điều khiển của giáo viên một số lần, xen kẽ có nhận xét, sửa sai. Chia tổ cho học sinh tự quản tập luyện, giáo viên thường xuyên quan sát và nhắc nhở các em thực hiện cho đúng động tác. Cho một số học sinh hoặc từng tổ lên trình diễn báo cáo kết quả tập luyện, giáo viên và học sinh khác quan sát, nhận xét và đánh giá. d) Khi dạy trò chơi vận động: Những trò chơi được giới thiệu trong chương trình Thể dục lớp 5 nhằm phát triển các tố chất thể lực và kĩ năng vận động của học sinh. Ở lớp 5 học sinh sẽ được học mới 8 trò chơi vận động, phần lớn các trò chơi là những hoạt động tập thể nên chủ yếu chỉ yêu cầu học sinh biết cách chơi và tham gia chơi được các trò chơi là đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học. Những trò chơi trong chương trình môn học được trình bày cụ thể về cách chơi, luật chơi và gợi mở theo những chủ đề khác nhau nhằm mục đích giúp học sinh vừa chơi vừa liên hệ thực tế với cuộc sống và thế giới xung quanh. Trong quá trình chơi, giáo viên có thể sáng tạo hay điều chỉnh một số yêu cầu cho thêm phần phong phú, hấp dẫn, kích thích các em hưng phấn trong vui chơi, bởi chơi cũng chính là học tập. Khi dạy các trò chơi, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung trò chơi, chuẩn bị tốt các địa điểm và các phương tiện để tổ chức cho học sinh vui chơi, tổ chức phân công nhiệm vụ và tổ chức đội hình học tập và vui chơi hợp lí, hiệu quả. Khi tiến hành trò chơi, giáo viên cần giới thiệu ngắn gọn nội dung trò chơi, cách chơi và những yêu cầu về tổ chức kỉ luật khi chơi. Cho học sinh chơi thử 1 – 2 lần trước khi chơi chính thức. Trong quá trình chơi, giáo viên nên sử dụng phương pháp thi đấu, động viên khuyến khích học sinh tham gia chơi một cách tích cực và chủ động. Sau khi các em nắm chắc được cách chơi của trò chơi, giáo viên có thể tăng thêm yêu cầu, thay đổi nhịp điệu trò chơi, phạm vi hoạt động của trò chơi nhằm giúp các em phát huy tính sáng tạo trong khi chơi. Ngoài ra, giáo viên cần yêu cầu về tổ chức, kỉ luật trong khi chơi để đảm bảo an toàn cho học sinh. Đối với các trò chơi có lời hát, vần điệu, giáo viên nên phổ biến cho học sinh biết cách chơi, sau đó cho các em học thuộc vần điệu rồi mới kết hợp đưa lời hát vào trò chơi. Để đánh giá kết quả của cuộc chơi, giáo viên phải thống kê được những ưu điểm và tồn tại của từng đội chơi về: 8
- Thời gian. Số người phạm quy. Thành tích….. Từ những chứng cứ rõ ràng, giáo viên mới đánh giá được chính xác và phân thắng bại thật công bằng. Phải lưu ý rằng: nếu không đánh giá công bằng sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, đôi khi các em phản đối không chấp nhận sự đánh giá của giáo viên…Như vậy, cuộc chơi sẽ mất đi ý nghĩa giáo dục. Ví dụ: Ảnh 1: Ném bóng trúng đích Luyện tập ném bóng: Có thể cho học sinh thi ném trúng đích hoặc thi ai ném xa hơn. Ảnh 2: Bật xa tiếp sức Luyện tập bật nhảy: Có thể tổ chức trò chơi bật xa tiếp sức. Ảnh 3: Trò chơi ai chạy nhanh nhất 9
- Luyện tập chạy nhanh: Có thể chạy thi, chạy tiếp sức giữa hai đội dưới hình thức trò chơi. Với các hình thức thay đổi trên sẽ làm cho học sinh không cảm thấy chán nản. Trong quá trình dạy học, nếu các em có dấu hiệu mệt mỏi giáo viên cần thay đổi nội dung để tạo lại sự hứng thú, lấy lại tâm lý trạng thái vui tươi, có thể cho chơi một số trò chơi nhỏ hay kể một câu chuyện ngắn gọn về tinh thần tập luyện thể thao, lời kêu gọi tập luyện thể dục của Bác Hồ... Dụng cụ học tập rất quan trọng, nên áp dụng triệt để vì nó dễ tạo nên hưng phấn. Cho nên mỗi nội dung, mỗi tiết học, giáo viên nên thay đổi dụng cụ như: Bóng đá, bóng chuyền, ném bóng, nhảy dây... Để tìm hiểu tình hình học sinh một cách toàn diện, trong mỗi lớp học, tìm hiểu khả năng vận động của các em có sức khỏe tốt, có sức khỏe yếu hay bệnh tật... để có hình thức bồi dưỡng tập luyện khác nhau. Đối với học sinh yếu, khuyết tật, không để các em nghỉ, mà giáo viên phải tổ chức riêng cho các em tập với cường độ nhẹ hoặc cho các bạn có sức khỏe tốt giúp đỡ các bạn yếu, giáo viên nên động viên, khích lệ các em này. Tạo điều kiện cho các em, chẳng hạn như cho các em này làm trọng tài trong các trò chơi, các hoạt động thi đua hoặc áp dụng phương pháp tập luyện bằng cách “phục hồi chức năng” với hình thức nhẹ nhàng, nội dung phù hợp để các em này được hoạt động, tạo cho các em một tình thần thoải mái, vui vẻ phấn khởi tập luyện nâng cao sức khỏe cùng các bạn. 3. Giải thích kĩ thuật khi thực hiện nội dung các bài học: Trong thể dục thể thao, việc giải thích kĩ thuật là phương pháp giải thích giúp học sinh có mục đích, hiểu và nắm được kĩ thuật từng phần động tác, tạo điều kiện cho học sinh tiếp nhận bài tập chính xác về mặt kĩ thuật, qua đó nhằm hình thành biểu tượng chung về động tác cho học sinh. Thường khi mô tả phải diễn ra đồng thời với quá trình làm động tác mẫu. Lời giải thích của giáo viên cần ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu.Việc giải thích phải giúp học sinh nắm vững những nét cơ bản về kĩ thuật và nhấn mạnh yếu lĩnh của động tác đã học, qua đó nhằm củng cố kĩ năng, kĩ xảo vận động, tránh được những sai sót mắc phải trong luyện tập đồng thời đánh giá được ý 10
- thức thực hiện bài tập của học sinh. Vì vậy lời giải thích của giáo viên có ý nghĩa đáng kể trong quá trình tập luyện và học tập bài thể dục phát triển chung. 4. Thực hiện khẩu lệnh: Khẩu lệnh của giáo viên phát ra xác định nội dung chính xác, bắt buộc học sinh phải hành động theo. Ví dụ: Khi hô động tác “ Vươn thở” giáo viên dùng khẩu lệnh điều hành động tác vươn thở...chuẩn bị” sau đó hô nhịp cho học sinh tập luyện. Khẩu lệnh đưa ra phải đúng lúc, lời phát ra cần có sức truyền cảm, rõ, nhanh, chính xác. Lệnh phát ra kéo dài hợp lý, đủ để cho học sinh chuẩn bị thực hiện khi lệnh phát ra. Trong giảng dạy thể dục, khẩu lệnh áp dụng rộng rãi, song đối với học sinh tiểu học không nên sử dụng quá nhiều vì sẽ gây căng thẳng trong tiết học. 5. Phối hợp khởi động và bổ trợ: Thông thường giáo viên cho học sinh tập bài khởi động, tiếp đến là bài tập bổ trợ cho nội dung bài học. Khi thực hiện như vậy sẽ làm mất thời gian, vì vậy giáo viên có thể cho học sinh kết hợp hai bài tập làm một. Để làm được điều này giáo viên cần căn cứ vào từng loại hình của bài dạy để chọn những động tác vừa có tác dụng khởi động, vừa có tác dụng bổ trợ cho các động tác chính mà học sinh sẽ học tiếp ngay sau đó. Ví dụ: Khi dạy nội dung “Chạy đà kết hợp với giậm nhảy của nhảy xa. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập luyện như sau: Khởi động làm linh hoạt các khớp. Chạy nhẹ nhàng và xác định chân giậm nhảy. Giáo viên cho học sinh chạy nhẹ nhàng, khi tới vạch giới hạn thì giậm nhảy bật qua. Sau một số lần, học sinh sẽ xác định được chân giậm nhảy là chân phải hay chân trái. Tiếp theo cho học sinh chạy nhẹ nhàng ba bước, giậm nhảy đi xa. Sau đó cho học sinh chạy nhẹ nhàng bật nhảy lên cao về phía trước, chạm vật chuẩn trên cao. Cách tập như bài tập trên đây đã bổ trợ cho kĩ thuật chạy đà, giậm nhảy bật đi xa và giậm nhảy bật lên cao. Học sinh được tăng thời gian tập luyện, kĩ thuật và kĩ năng của kĩ thuật nhảy xa. Khi học sinh được tập luyện nhiều, nghĩa là khối lượng vận động tăng, có ảnh hưởng tốt đến việc rèn luyện thể lực cho học sinh. 6. Làm mẫu kết hợp sử dụng tranh kĩ thuật: Việc làm mẫu của giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu khi lên lớp, nếu không làm mẫu chuẩn thì học sinh sẽ không nắm được kĩ thuật dẫn đến việc tập luyện sẽ không chính xác đặc biệt là khi dạy kĩ thuật mới. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân: Trình độ chuyên môn. Sức khỏe. 11
- Năng khiếu thể thao của giáo viên. Vì những lí do trên nên việc làm mẫu của giáo viên còn gặp nhiều hạn chế nhất định như: Làm mẫu không chuẩn. Làm mẫu không rõ ràng, dứt khoát. Không rõ kĩ thuật. Để khắc phục những hạn chế đó, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh, kĩ thuật giới thiệu và phân tích để học sinh nhận biết kĩ thuật động tác dễ hơn. Mặt khác, học sinh vừa học vừa đối chiếu với hình vẽ để tự sửa chữa những kĩ thuật còn chưa đúng của mình. Mặc dù hiệu quả cao nhưng giáo viên cũng không nên lạm dụng tranh vẽ mà phải suy nghĩ và tính toán xem sử dụng tranh kĩ thuật vào thời điểm nào, sửa dụng thế nào để phát huy được tác dụng của tranh kĩ thuật để học sinh có ấn tượng sâu và có hứng thú trong quá trình học tập. Ví dụ: Khi dạy bật cao, bật xa, nhảy xa đối với học sinh lớp 5. Trong phần cơ bản, khi giáo viên giảng dạy cần phân tích kĩ thuật động tác nhảy xa kết hợp tranh để học sinh nắm chắc tư thế và động tác. Khi làm mẫu, giáo viên phải thực hiện đúng giúp học sinh nắm được yếu lĩnh cơ bản của động tác, học sinh có thể tập làm theo. Khi giảng dạy những động tác mới, phức tạp giáo viên phải làm mẫu hai ba lần. Làm mẫu lần thứ nhất cả động tác hoàn chỉnh với tốc độ bình thường đúng nhịp động tác, giúp học sinh có khái niệm sơ bộ với tồn bộ động tác và gây hứng thú học tập cho học sinh. Khi làm mẫu lần 2 cố gắng thực hiện chậm, đối với những chỗ quan trọng, giáo viên có thể vừa làm động tác vừa nói để nhắc nhở sự chú ý của học sinh. Làm mẫu lần 3 như lần thứ nhất, làm mẫu với tốc độ bình thường phải hòan chỉnh, chính xác. Làm mẫu phải kết hợp giải thích, nhắc học sinh quan sát những khâu chủ yếu. Khi giảng dạy phải trình bày một cách rõ ràng, nhấn mạnh điểm chủ yếu, then chốt của động tác và có tác dụng kích thích sự hứng thú của học sinh thực hiện bài tập. Khi hướng dẫn học sinh bài thể dục phát triển chung, nên sử dụng hình thức làm mẫu “soi gương” nghĩa là đứng đối diện với học sinh, mặt và hướng động tác của giáo viên là mặt và hướng động tác của học sinh: Ví dụ: Muốn hướng dẫn học sinh làm động tác “Tay phải dang ngang, chân phải trên mũi bàn chân” thì giáo viên làm động tác ngược lại như: “Tay trái dang ngang, chân trái kiễng trên mũi bàn chân”. Cần chú ý tính tự nhiên của động tác và sự phối hợp nhịp nhàng của động tác. IV. Hiệu quả đạt được: 1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến: a. Trước khi áp dụng: Đối với học sinh khối 5 đang giảng thì tổng số hai lớp là 58 em: thì khoảng 8 học sinh là học tốt các nội dung chương trình lớp 5, số học sinh còn lại thì các em chỉ học tốt được 1 hoặc 2 nội dung. b. Sau khi áp dụng: 12
- Khi đổi mới phương pháp giảng dạy và đồ dùng dạy học đối với bản thân tôi rất hài lòng về phương pháp giảng dạy mới này, tôi thấy được như sau: + Học sinh ngày càng học tốt hơn, không còn lười tập như trước. + Học sinh ngày càng hứng thú học tập đối với môn thể dục đặt biệt là đối với các nội dung mà trước đây các em cảm thấy khó tiếp thu. + Kết quả học tập của các em ngày càng tiến bộ vượt bậc do tinh thần học tập, tính tự giác và tich cực ngày càng cao. Trong những buổi họp tổ, tôi có nhắc đến các biện pháp sửa đổi của mình thì được các thành viên trong tổ đồng tình và khen ngợi, cho là sáng kiến phù hợp, sáng tạo và đã cũng có nhiều giáo viên tiếp thu sáng kiến và áp dụng. Bảng so sánh kết quả về khả năng học trước và sau khi áp dụng sáng kiến như sau: Trước khi áp dụng: Học Học Học Học tốt Học tốt Lớ S tốt 4 tốt 1 tốt 0 3 nội 2 nội p S nội nội nội dung dung dung dung dung 1 1 5C 28 3 3 0 0 2 1 1 5B 30 3 3 1 3 Sau khi áp dụng sáng kiến: Học Học Học Học Học tốt Lớ S tốt 4 tốt 2 tốt 1 tốt 0 3 nội p S nội nội nội nội dung dung dung dung dung 1 5C 28 6 7 0 0 5 1 5B 30 6 7 0 7 2. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến Sau khi thực hiện các biện pháp trên tôi thấy bản thân tự tin và chủ động hơn khi dạy bài thể dục phát triển chung, tiết dạy trở nên sôi động, học sinh tích cực học tập và tham gia nhiệt tình vào các hoạt động tập luyện. Đối với học sinh khá giỏi các em học nhiệt tình, chuẩn xác hơn. Đối với học sinh yếu tham gia học nhiệt tình hơn, tiến bộ rõ rệt và hòa đồng với các bạn trong lớp. Học sinh hầu hết tham gia nhiệt tình, phụ huynh học sinh rất vui, qua đó phụ huynh đã quan tâm nhiều hơn tới môn học này và quan tâm đến con em nhiều hơn. 13
- Với kết quả đạt được qua áp dụng kinh nghiệm cơ sở. Tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn thể dục cũng như góp phần nâng cao chất lượng học tập các môn học khác ở tiểu học. V. Mức độ ảnh hưởng: Ngày nay khi xác định vai trò của hoạt động thể dục thể thao trong sự nghiệp giáo dục, các nhà giáo dục đã khẳng định rằng: “hoạt động thể dục thể thao giữ vai trò quản lý, điều khiển quá trính phát triển cá thể, cả năng lực lẫn tính cách trong lĩnh vực hoạt động vận động”. Luận điểm khoa học này đã đánh giá một cách khách quan vai trò nền tảng và động lực thể chất đối với mọi hoạt động và sáng tạo của cá nhân. Đồng thời cũng giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của hoạt động thể dục thể thao trong sự phát triển hoàn thiện cả mặt sinh học lẫn mặt xã hội của một con người. Hoạt động thể dục thể thao giúp cho học sinh hiểu được kĩ năng của môn học trong nhà trường, giúp các em có được sức khỏe thật tốt để thực hiện công việc khác. Rèn luyện cho các em thêm niềm tin và nghị lực trong cuộc sống, để mai sau các em có thể va chạm với cuộc sống không nao lòng, nản chí, bình tĩnh để đi đến một tương lai tươi sáng. Sáng kiến đã được áp dụng có kết quả tại đơn vị nên có thể áp dụng cho tất cả giáo viên dạy thể dục ở các trường Tiểu học. VI. Kết luận: Trong bất cứ một tiết học của bộ môn nào người thầy cũng phải nắm được đặc trưng của bộ môn đó, vận dụng những phương pháp đổi mới phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh tiếp thu một cách tốt nhất. Thường xuyên vận dụng khích lệ tinh thần học tập của các em bằng nhiều hình thức có hướng dẫn thực hành dẫn dắt đi vào các trò chơi vận đông mà học sinh còn lúng túng. Khai thác tốt nội dung, yêu cầu sách giáo viên và đối tượng học sinh trong việc sử dụng tốt các phương pháp sư phạm. Kiên nhẫn học hỏi trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp. Mạnh dạn thực hiện các giải pháp cải tiến cần thiết cho việc dạy học. Đặc biệt đối với môn học thể dục người thầy cần phải có nhiều sáng tạo, luôn luôn làm mới phong phú về hình thức dạy học sẽ gây được sự hứng thú cho học sinh trong giờ học thể dục. Đối với phần kết thúc của các nội dung, tôi hệ thống lại những kiến thức mà các em đã thực hiện, để tìm hiểu thêm về trình độ của các em có vận dụng tốt kiến thức và kỹ năng thưc hiện hay không. Làm được như vậy học sinh sẽ tiếp thu bài học tốt, giờ học sôi nổi và học sinh rất thích thú khi được học cũng như tham gia vào các hoạt động vui chơi. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. 14
- Người viết Lê Quang Sen Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến ……………………………………………… ……………………………………………… ……………………………………………… ……………………………………………… ……………………………………………… 15
- Mục Lục Nội dung Trang I. Sơ yếu lý lịch 1 II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị 1 III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến 1 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến 1 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến 2 3. Nội dung của sáng kiến 3 3.1. Tiến trình thực hiện 3 3.2. Thời gian thực hiện 4 3.3. Biện pháp tổ chức 5 IV. Hiệu quả đạt được 8 1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng 12 sáng kiến 2. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến 12 V. Mức độ ảnh hưởng 13 1. Ý nghĩa của sáng kiến 13 2. Khả năng ứng dụng, triển khai 13 VI. Kết luận 13 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2237 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn