intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:37

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kĩ năng sống và thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Đề xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống theo hướng khai thác nội dung môn học để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc thù của học sinh Tiểu học và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực để giáo dục kĩ năng sống chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5

  1.                                    SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG  CHO HỌC SINH LỚP 5 1. Phần mở đầu:  1.1. Lý do chọn sáng kiến.                 Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà nước ta coi: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Bậc Tiểu học được coi là bậc học “ nền tảng” của hệ  thống giáo dục quốc dân. Đó là tiền đề  vững chắc cho việc   đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá,   hiện đại hoá đất nước.            Vì vậy, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành  những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ,thể  chất, thẩm mỹ  và các kỹ  năng cơ  bản để  học sinh tiếp tục học lên trung học cơ  sở.        Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng  nguồn nhân lực phục vụ  sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp  ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ  thông đã và đang được đổi mới mạnh mã theo bốn trụ  cột của giáo dục thế  kỉ  XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là : Học để biết, Học để làm,  Học để tự khẳng định mình.       Từ năm học 2010­2011, Bộ GD­ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng   ghép vào các môn học  ở  bậc tiểu học. Đây là một chủ  trương cần thiết và đúng  đắn. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của   xã hội, các em không chỉ  biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện   những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích  cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào 
  2. đời tự  tin hơn. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước  trên thế  giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát  triển mạnh song những vấn đề  mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều  ảnh   hưởng đến sự  tồn   tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ  phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm,  mải lo đến việc làm kinh tế  mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi   việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm  dạy dỗ trẻ; Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc,   rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của  trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có  những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ  thiếu sự  sáng tạo, luôn  ỷ  lại, phụ  thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong  thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân   mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không làm theo ý người  khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ  được chú ý giáo dục đạo đức,  được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ  chối cám dỗ, biết   ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người   tác động tốt đến gia đình, xã hội.Những năm gần đây, nhiều trẻ  em rất thiếu kĩ   năng làm việc nhà, kĩ năng tự  phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ.   Nhiều em không tự dọn dẹp phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì  việc gì ngoài việc học. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ  con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự  tin khi   giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị  cuốn hút theo các trò chơi   điện tử và hệ thống  ảo trên hệ  thống Internet. Đây là những trò chơi làm cho các  em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với   con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình   trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta   thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, 
  3. Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học điều gì để  giúp các em hội nhập với xã   hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra  cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, trăn trở.        Mục tiêu giáo dục là nhằm giúp HS hình thành những cơ  sở  ban đầu cho sự  phát triển đúng đắn và lâu dài về  đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mĩ và các kỹ  năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách  đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây  dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Việc giáo dục kỹ năng sống   cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi  đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh và phù hợp   với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy đủ  các mặt  “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng yêu cầu của xã hội.Ở bậc tiểu học là bậc tạo nền   tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức   cơ  bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ  năng sống, kỹ  năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội   mới.        Năm học 2014­2015 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây   dưng trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ  năng sống cho  học sinh là một trong những nội dung của phong trào. Chí vì vậy nên các nhà  trường cần chú trọng hơn đến nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”.       Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số  vấn đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ  môi trường và phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không  phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.       Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho học sinh, tôi đã  chọn sáng kiến về  “Một số  kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống   cho học sinh lớp 5” 1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
  4.       Ở trường trung học cơ sở nói chung và trường tiểu học nói riêng giáo dục kĩ   năng sống có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách học sinh.  Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh  cần hiểu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của   mình,  từ  đó đưa ra những biện pháp cụ  thể  để  xây dựng tập thể  lớp vững mạnh toàn  diện.   Hiện nay việc giáo dục sống  cho học sinh vẫn chưa được thật sự  chú trọng và   đầu  tư đúng mức mà giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phải bắt đầu từ nhỏ và phải  thường xuyên được bổ  sung, củng cố  trong quá trình học tập và đến khi trưởng   thành. Gia đình là nơi đầu tiên trẻ được trang bị, giáo dục các kĩ năng sống cơ bản   nhất vì vậy khi giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần phố hợp với tất cả các lực   lượng giáo dục nhất là gia đình các em.      Trong quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tôi đã dựa vào những nội  dung chủ yếu sau: ­ Công tác với tập thể học sinh. ­ Giáo dục những phẩm chất đạo đức cho học sinh. ­ Giáo dục kĩ năng sông thông qua các môn học. ­ Chỉ đạo việc học tập của học sinh. ­ Giáo dục lao động hướng nghiệp ­ Tổ chức các hoạt động vui chơi, rèn  luyện thể lực bảo vệ sức khoẻ. ­ Công tác Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao nhi đồng. ­ Công tác  phối hợp với cha mẹ học sinh. ­ Đánh giá được một số  mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kĩ năng sống và  thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. ­ Đề xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống theo  hướng khai thác nội dung môn học để  giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc 
  5. thù của học sinh Tiểu học và sử  dụng phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học   tích cực để giáo dục kĩ năng sống chung. ­ Tìm một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học. ­ Giúp học sinh ý thức được giá trị  của bản thân trong mối quan hệ  xã hội; giúp   học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen  ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… ­ Giúp học sinh có đủ  khả  năng tự  thích ứng với môi trường xung quanh, tự  chủ,  độc lập, tự tin trong cuộc sống khi giải quyết công việc và chủ động đối phó với  hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, đem lại cho các em vốn tự  tin ban đầu để  trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.  1.3. Phạm vi áp dụng       Sáng kiến này được áp dụng từ đầu năm học đến nay để  “Giáo dục kỹ năng   sống cho học sinh khối 5 ” và học sinh toàn trường. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.     Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập  không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa  học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri  thức về  thế  giới trong đó có cả  những mối quan hệ, cách thức  ứng xử  với môi  trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề  quan trọng đối với   mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Mặc dù  ở  một số  môn học, các  hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề  cập đến. Tuy nhiên, do   nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối   tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.          Qua thực tế  giảng dạy  ở lớp 5 trường tiểu học,  bản thân tôi thấy kĩ năng  sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt,  các em còn có nhận thức còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về  sự  việc   nhưng chưa có thái độ  và cách  ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể 
  6. hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn  tự  nhìn nhận và tự  đánh giá về  bản  thân, kĩ năng xác định còn hạn chế. Kĩ năng tư duy và  sáng tạo chưa cao.  Các em   còn ngại nói, ngại viết, khả  năng tự  học, tự  tìm tòi, khả  năng đảm nhận trách  nhiệm  còn hạn chế.         Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã   được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù  hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.  a.Thực trạng chung của nhà trường. * Thuận lợi:      Nhà trường   được sự  quan tâm của chính quyền của địa phương, của phụ  huynh học sinh. ­Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc   dạy học của giáo viên và việc học của học sinh. ­ Giáo viên trong nhà trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ.    ­ Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác giảng dạy v à công t ác chủ nhiệm. ­ Về học sinh : Nhìn chung các em chăm ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. ­  Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn có những khó khăn sau: * Khó khăn:  ­ Là một xã dân cư  chủ  yếu sống bằng nghề  nông, kinh tế  còn nhiều khó khăn,  nhiều gia đình thuộc diện hộ  nghèo, một số  em mồ  côi cha hoặc mẹ  có em mồ  côi cả  cha lẫn mẹ. Chính điều đó đã  ảnh hưởng không nhỏ  đến việc học tập   cũng như chất lượng học của học sinh. ­ Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nêu việc học tập của các   em cần có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì hiệu quả học của các em mới đạt   cao. ­ Về  đội ngủ  giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy  song còn nhiều khó khăn do có một số  giáo viên trẻ  chưa có nhiều kinh nghiện   trong giảng dạy.
  7.  ­ Về phía các bậc phụ huynh:  Cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con;   họ  chỉ  chú trọng đến việc con mình về  nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc   chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng,   cung phụng con cái khiến trẻ  không có kĩ năng tự  phục vụ, chỉ  chú ý đến khâu   dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những  đồ  dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ  dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để  làm gì? Đối với giáo viên Phong trào“  Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung  chung cho các bậc học. Tuy chưa nắm hết về  nội dung phải dạy trẻ theo từng   khối lớp, những kĩ năng sống cơ  bản nào, chưa biết vận dụng từ  những kế  hoạch định hướng chung để  rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Mặc dù có   nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến   khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện   khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn.  b. Thực trạng của lớp 5A: Năm học 2014­ 2015 tôi được phân công giảng dạy trường Tiểu học  Lớp 5A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 35 học sinh. Trong đó: ­ Con cán bộ công chức: 14 em ­ Con gia đình nông nghiệp 21 em. ­ Nam 15 em; nữ: 20 em. ­ Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều em xa trường nên việc đi lại   của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó  ảnh hưởng không nhỏ  đến chất  lượng học tập của các em. Một số em thuộc diện hộ ngheo gia đình có hoàn cảnh   khó khăn. Một số em con mồ côi, có em mồ côi cả cha lẫn mẹ sông với cô, bác.   c. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh Trong qua trinh rèn k ́ ̀ ĩ năng sống cho trẻ bản thân đa găp nh ̃ ̣ ưng thuân l ̃ ̣ ợi và  kho khăn sau: ́     c.1.. Thuân l ̣ ợi 
  8. ̣ ́ ̣ và Đao tao đa phat đông phong trao “Xây d Bô Giao duc  ̀ ̣ ̃ ́ ̣ ̀ ựng trương hoc thân ̀ ̣   ̣ ̣ ́ ực” vơi nh thiên ­ hoc sinh tich c ́ ưng kê hoach nhât quan t ̃ ́ ̣ ́ ́ ừ trung  ương đên đia ́ ̣   phương, Phong  ́ ̣  và Đao tao cung đa co kê hoach t ̀ Giao duc ̀ ̣ ̃ ̃ ́ ́ ̣ ưng năm h ̀ ọc vơi nh ́ ưng̃   ̣ ́ ̣ ̉ ể rèn kĩ năng sống cho học sinh môt cach chung nhât cho cac bâc biên phap cu thê đ ̣ ́ ́ ́ ̣   ̣ ̀ ưng đinh h hoc, đây chinh la nh ́ ̃ ̣ ương giup giao viên th ́ ́ ́ ực hiên nh ̣ ư: Rèn luyện kĩ  năng tư duy phê phán, kĩ năng  ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống,   thói quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức  bảo vệ  sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai  nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng  ứng xử  văn hóa, chung sống hòa bình,  phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội, kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm  xúc. Trương hoc n ̀ ̣ ơi bản thân công tac la ngôi tr ́ ̀ ương  đã đat chuân quôc gia nên ̀ ̣ ̉ ́   ̣ ợi trong viêc th thuân l ̣ ực hiên nôi dung xây d ̣ ̣ ựng môi trương giao duc sach đep, an ̀ ́ ̣ ̣ ̣   ̉  Bên cạnh đó, bản thân nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và   toan cho tre. ̀ biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn  theo sát, quan tâm, hỗ  trợ  cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như  giáo  dục. Chính vì thế bản luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các   em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để  trở  thành  con người năng  động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.     c.2. Kho khăn ́ * Đôi v ́ ới giao viên  ́ Trong thực tế  hiện nay, việc nhận thức tầm quan tr ọng, c ần thi ết rèn kĩ  năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò,  khảo sát thực tế  cho thấy một số  giáo viên lúng túng cả  về  nội dung, biện pháp   rèn kĩ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ,   chưa đầy đủ  rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức  chưa đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu  để rèn kĩ năng sống cho học sinh.  
  9.    Giáo dục    tâp trung nhiêu nôi dung chung cho cac bâc hoc, giao viên ch ̣ ̀ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ưa hiêu ̉   ̀ ̀ ội dung phai day tre theo t nhiêu vê n ̉ ̣ ̉ ừng khối lớp nhưng kĩ năng sông c ̃ ́ ơ  ban nao, ̉ ̀   chưa biêt vân dung t ́ ̣ ̣ ừ nhưng kê hoach đ ̃ ́ ̣ ịnh hương chung đ ́ ể  rèn luyện kĩ năng   sống cho HS.   Đa sô giao viên l ́ ́ ớn tuôi co nhiêu kinh nghiêm nh ̉ ́ ̀ ̣ ưng viêc đ ̣ ổi mới  phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự  chuyên cần, tích cực, chủ  động,  sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh con găp nhiêu ̀ ̣ ̀  ̉ ̉ ́ ơn, năng đông, sang tao nh kho khăn; giao viên tre tuôi it h ́ ́ ̣ ́ ̣ ưng lai kho trong công tac ̣ ́ ́  ̀ ương do nhân th bôi d ̃ ̣ ưc vê nghê ch ́ ̀ ̀ ưa sâu săc nên ́  giao viên m ́ ơi th ́ ương không an ̀   tâm công tac.  ́ *Đối với học sinh           Trong các nhà trường, trong lớp ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi  nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, ...Các em học  sinh vừa từ lớp một, hai, ba lên làm quen với môi trường lớp 4 ,5các em khá rụt rè  chưa quen với cách học cũng như  mạnh dạn bày tỏ  ý kiến. Khi phát biểu các em  nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi   với cô, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ  ra nói nhiều vì  ở  nhà các em không có  người trò chuyện, chia sẻ ... * Đối với phụ huynh học sinh ̀ ́ ́ ậc cha me các em luôn nong vôi trong viêc day con; h Vê phia cac b ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ọ chỉ chú   trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Toán   thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có   một số bố mẹ thì quá nuông chiều, Đông th ̀ ơi lai chiêu chuông, cung ph ̀ ̣ ̀ ̣ ụng con caí  ̉ khiên tre không co kĩ năng t ́ ́ ự  phuc vu b ̣ ̣ ản thân. Ngược lại, một số  phụ  huynh vì   bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ  con em trong các hoạt động cần  thiết…        Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như  các thuận lợi và khó khăn   nêu trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học  
  10. sinh thông qua các tiết dạy của một số  môn học và hoạt động ngoài giờ  lên lớp  nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục.        Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) lớp 5A đầu năm học với chủ đề “ Kĩ năng của   em”; kết quả như sau: Tổng số học  Kĩ năng tốt Có hình thành kĩ năng Kĩ năng chưa tốt sinh SL % SL % SL % 35 10 28,6 10 28,6 15 42,8 Thực hành thảo luận nhóm Biết cách lắng nghe, hợp  Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi  Tổng   số  tác nhóm học sinh SL % SL % 35 15 42,9 20 57,1 Kĩ năng giải quyết vấn đề Biết   cách   tự   giải   quyết  Tự giải quyết vấn đề chưa tốt Tổng   số  vấn đề học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng tự nhận thức, tự trọng và tự tin của bản thân Biết   tự   nhận   thức,   tự  Chưa biết tự  nhận thức, tự  trọng và tự  Tổng   số  trọng   và   tự   tin   của   bản  tin của bản thân học sinh thân SL % SL % 31 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc Biết tự   ứng phó với căng  Chưa biết tự   ứng phó với căng thẳng và  Tổng   số  thẳng và cảm xúc cảm xúc học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể Biết cách  ứng xử  hài hòa, khá  Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi. Tổng   số 
  11. học sinh phù hợp. SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm Biết   cách   đảm   nhận   trách  Chưa tự tin, chủ độngvà ý thức cùng  Tổng   số  nhiệm khá phù hợp. chia sẻ với các thành viên khác trong  học sinh nhóm SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng quản lí thời gian Biết cách quản lí thời gian khá  Ghưa   biết   cách   sắp   xếp   thời   gian  Tổng   số  phù hợp. phù hợp theo thứ tự ưutieen. học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng tìm kiếm và xữ lí thông tin Biết   cách   tìm   kiếm   và   xữ   lí  Tìm kiếm và xữ lí thông tin chưa phù  Tổng   số  thông tin khá phù hợp. hợp. học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4     Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ năng   chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề  cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất là những   người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để  hình thành nhân cách   cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi nghiên cứu.  Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng  “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để  từ  đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng  sống cho học sinh đạt hiệu quả. * Nguyên nhân          Lứa tuổi các em đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham   hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn  
  12. thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động.... Đặc biệt là trong bối cảnh hội  nhậpquốc tế  và cơ  chế  thị  trường hiện nay, thế  hệ  trẻ  thường xuyên chịu tác   động đan xen của những yếu tố tiêu cực và tích cực, luôn phải đặt vào hoàn cảnh   phải lựa chọnnhững giá trị  phải đương đầu với những khó khăn, thách thức ,   những áp lực tiêu cực. Nều không được giáo dục kĩ năng sông, thiếu giáo dục kĩ  năng sống, các em dễ bị lôi cuốn vào hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sốn ích kỉ,   lai   căng,   thực  dụng,   dễ   bị   phát  triển  lạch   lạcvề   nhân   cách.   Một   trong   những   nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ  phận học sinh phổ  thông trong thời gian vừa quanh: nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn  chơi sa đọa...chính là do các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ năng xác định   giá trị, kĩ năng từ  chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẩn, kĩ năng  thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những  tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự  tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt  qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ  nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do  đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện   đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà  trường. Việc định hướng sai các giá trị  là nguyên nhân gây ra những hiện tượng   đáng tiếc trong  ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông,  không tạo được cho trẻ  khả  năng tư  duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không  tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đại…Qua  nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận thấy kĩ năng sống học sinh   chưa tốt là do những nguyên nhân sau:      ­ Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.     ­ Việc rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học còn hạn chế.       ­ Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui  chơi còn  chưa sâu sát.      ­   Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.
  13.       ­  Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiên day các em các kĩ năng sông ̣ ̣ ́   cơ bản chưa nhiều.        Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự  hạn chế của giáo   dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực   tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống 2.2. Các giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.  Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết, giúp các em rèn  luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ  quốc;   giúp các em có khả  năng  ứng phó tích cực trước các tình huống  của cuộc sống,   xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực,   chủ động, an toán, hài hòa và lành mạnh. Giáo dục kĩ năng sốngcho học sinh được   giáo dục ở nhà và ở trường. Kĩ năng sống được giáo dục trong các môn học chính  khóa và ngoại khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá  nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Cụ thể cần phải áp  dụng một số biện pháp sau:   Gi   ải  pháp 1:      Nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ năng sống cho học sinh.   Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu chuyên đề  rèn kĩ năng sống cho học sinh   tiểu học, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học   sinh bậc học tiểu học do Bộ  Giáo dục­ Đào tạo phát động; qua đó giúp tôi hiểu  được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến  thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách   tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc  và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành   vi ứng  xử  cơ  bản trong nhóm bạn, thì trẻ  sẽ  nhanh chóng sẵn sàng và có khả  năng tập  trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. Bản thân tôi luôn chịu khó gần gũi 
  14. chuyện trò với học sinh, trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng,  giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh   trong lớp. Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều   hơn, Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn   bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ  các em. Hiệu quả  lớn   nhất là nhà trường đã huy động được sự  tham gia của cha mẹ các em, của các tổ  chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa,truyền thống cho học sinh,  đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.   Giải  pháp 2:       Xác định những kĩ năng sống cơ  bản và cụ  thể  hóa nội dung  của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học.      Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ  cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1.  Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất   trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự  hợp tác, tự  kiểm soát, tính tự  tin, tự  lập, tò mò, khả  năng thấu hiểuvà giao tiếp.  Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa   chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ.   Các  nội dung của kĩ năng cơ bản mà người giáo viên cần dạy cho trẻ là: ­Kĩ năng sống tự tin : Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm   là phát triển sự tự tin, có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng   mình có thẻ trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tinvề tương lai, cảm   thấy có nghị lực để  hoàn thành các nhiệm vụ, giúp các em có suy nghĩ tích cực và  lạc quan trong cuộc sống. Nghĩa là giúp trẻ  cảm nhận được mình là ai, cả  về  cá   nhân cũng như  trong mối quan hệ  với những người khác. Kĩ năng sống này giúp  trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. ­ Kĩ năng sống hợp tác: Giáo dục các em biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và 
  15. cùng làm việc có hiệu quả  với những thành viên khác trong nhóm.Bằng các trò  chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là  một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác  sẽ  giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn, thông qua kĩ năng   hợp tác giúp  các em sống hài hòa và tránh xung đột trong quan hệ với người khác.   ­Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ  năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học.   Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính  tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc  các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn   là những thứ có thể đoán trước được. ­ Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân biết dung hòa đối  với mong đợi với những người khác, có cách ứng xữ phù hợp khi làm việc cùng và   ở  cùng với những người khác trong một môi trường tập thể và diễn đạt ý tưởng  của mình cho người khác hiểu,   học sinh cảm nhận được vị  trí, kiến thức của   mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ  bản và khá quan trọng   đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết,  làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một   ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp  nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng   học mọi thứ. Ngoài ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa  trong ăn uống qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như:   Biết tự  rửa tay sạch sẽ  trước khi ăn, chỉ  ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử  dụng   những đồ  dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng,   không rơi vãi, nhai nhỏ  nhẹ  không gây tiếng  ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn,  biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa  
  16. … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến  người xung quanh.    Giải    pháp 3:    Xác định nhiệm vụ  cơ  bản và phân công trách nhiệm trong   việc dạy:       Giáo viên có thể làm được gì để  dạy kĩ năng sống cho trẻ? Cần tích cực đổi  mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học  sinh , cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học   sinh . Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như  thế  nào để  các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Cần   thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách   thích hợp tuân theo một số  quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh   vực: thể  chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm­ xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính  tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ  động khám phá tìm tòi, biết vận   dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Cần  giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp,  các em biết chia sẻ  chăm sóc, trẻ  cần phải học về  cách hành xử, biết lắng nghe  trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau,  giúp các em luôn cảm thấy tự  tin khi tiếp nhận các thử  thách mới. Điều này liên   quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự  tin hay không đối với mọi người  xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa học sinh đó như  thế  nào? Cần chuẩn bị  cho học sinh sự  tự  tin, thoải mái trong mọi trường hợp   nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không   đẹp của các em. Thường xuyên liên hệ  với phụ  huynh để  kịp thời nắm tình hình  của các em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo  dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.     Gi   ải  pháp 4:      Tạo mối thân thiện và tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ  giáo dục trẻ kĩ năng sống với học sinh.
  17. Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để  tạo sự  gần gũi và gắn kết giữa học sinh và  giáo viên chủ  nhiệm, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới   thiệu về  mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ  với nhau về  những sở  thích,  ước mơ  tương lai cũng như  mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt  động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện   “Trường học thật sự  trở  thành ngôi nhà thứ  hai của các em, các thầy cô giáo là  những người thân trong gia đình".  Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để  phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể  mạnh dạn, tự  tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần   đầu, bản thân cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào   nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay   tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản   thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại   vị  trí ngồi mà các em chọn để  bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.  Nhằm tạo môi  trường giúp giáo viên và học sinh tăng cường đọc sách, tôi đã tham mưu với hiệu   trưởng đã trang bị, sách thư  viện , sách Bác Hồ, Sách Lịch sử  , và các loại sách   trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “tủ sách Bác Hồ ”; “tủ sách  lịch sử ”; “câu đố vui ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa trái bốn mùa”; …thiết kế  phân chia nhiều ngăn để  sách, truyện nhiều kích   cở, vừa tầm các em.    Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào,   giờ  học nào. Để  việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả  cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.    Gi   ải    pháp 5:   Rèn kĩ năng sống thông qua giáo dục những phẩm chất đạo  đức cho học sinh.        Giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức về  hành vi, thái độ  đối với  bạn bè, thầy cô, bản thân mình. Ghi nhớ năm điều Bác Hồ dạy cho học sinh, học  
  18. tập nội quy của nhà trường, của đội, của lớp. Thường xuyên nêu gương người  tốt, việc tốt  cho các thành viên khác để học tập , phấn đấu.       Động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có sự cố gắng  vươn lên trong học tập và rèn luyện.       Kết hợp với hoạt động Đội, Sao thường xuyên phát động thi đua cùng với các  chủ đề khác nhau để học sinh rèn luyện học sinh như: “ Em làm kế hoạch nhỏ”, ‘ ’Em   làm   công   tác   đền   ơn   đáp   nghĩa’’,   “   Đàn   gà   khăn   quàng   đỏ”,   “   Áo   ấm   đếntrường”, “ Tổ chức sinh hoạt dưới cờ ”...... Từ đó giáo dục truyền thống hào  hùng của dân tộc ta một cách sâu rộng đến từng em. Để các em noi gương học tập   và rèn luyện trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.   Gi   ải  pháp 6:     Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học. Để  giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả  bản thân đã vận dụng   vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học;  An toàn giao thông .... để  những giờ  học sao cho các em được làm để  học, được  trải nghiệm như trong cuộc sống thực. Trong chương trình lớp 5,  Ở  môn Đạo đức, để  các chuẩn mực đạo đức,  pháp luật xã hội trở  thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh.  Giáo viên phải sử  dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính  tích cực, chủ  động, sáng tạo của học sinh. Tổ  chức cho học sinh thực hiện các  hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể  chuyện theo tranh; quan sát tranh   ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử  lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu   phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy  học tích cực như: học theo nhóm, theo dự  án, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông  qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được   tạo cơ hội để thực  hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Hình thành  cho các em kĩ năng giao tiếp như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời yêu , đề nghị, 
  19. bày tỏ sự thông cảm và chia sẻ.... Kĩ năng tự nhận thức như biết xác định và đánh   giá bản thân. Kĩ năng xác định giá trị đó là có tình cảm và niềm tin vào các chuẩn   mực, hành vi đạo đức đã học. kĩ năng ra quyết định giải quyết vấn đề đó là bước  đầu biết lựa chọn và thực hiện cách ứng xử phù hợp với một số tình hình đạo đức  đơn giản, phổ  biến trong cuộc sống hàng ngày. Kĩ năng tư  duy phê phán là biết  nhận xét đánh giá các ý kiến, hành động, lời nói, việc làm, các hiện tượng trong  đời sống hằng ngày đối chiếu với các chuẩn mực đạo đức hằng ngày. Kĩ năng từ  chối , học sinh biết từ chối khi bị rủ rê lôi kéo làm những điều sai trái.Kĩ năng hợp   tác đó là biết   cách hợp tác với bạn bè và mọi người xung quanh thực hiện các   hoạt động tập thể, hoạt động cộng đồng. Kĩ năng đặt mục tiêu, học sinh biết lập  kế  hoạch học tập, rèn luyện các chuẩn mực đã học. Kĩ năng tìm kiếm và xữ  lý  thông tinh về các vấn đề, hiện tượng trong đời sống thực tiển có liên quan đế các   chuẩn mực đạo đức, pháp luất đã học. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm, học sinh   biết nhận và thực hiện trách nhiệm của bản thân. Từ những kĩ năng đó học sinh có   lối sống lành mạnh, các hành vi  ứng xử  phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối  sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố  mẹ, ông bà, hợp  tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn… Ví dụ: Khi dạy:  “Hợp tác với người xung quanh” bản thân tổ  chức cho  các em, khám phá bài học dựa vào các câu hỏi để học sinh cùng suy nghĩ và trả  lời  sau đó giúp học sinh kết nối thông qua các hoạt động tìm hiểu bản chất của hợp   tác. Hoạt động ích lợi của việc hợp tác và cuối cùng là tìm hiểu các yêu câu trong   hợp tác,. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, bản thân tổ  chức cho các em đứng  thành vòng tròn đóng vai, thảo luận, tổ chức các trò chơi,…  Lúc đầu các em rất ái   ngại không tự tin khi đóng vai, thảo luận bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng bản thân  đã kịp thời  nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm  một môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái   nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc 
  20. gọn, mạnh dạn hơn. Thông qua bài học học sinh có được kĩ năng biết hợp tác với   bạ bè và mọi người xung quanh trong công việc chung. Các em có kĩ năng đảm  nhận trách nhiệm hoàn tất nhiệm vụ khi hợp tác với bạn bè và người khác. Ngoài   ra các em còn có kĩ năng tư duy phê phán, biết phê phán những quan niệm sai, các   hành vi thiếu tinh thần hợp tác và kĩ năng biết ra uyết định đúng để biết hợp tác có  hiệu qủa. Các kĩ năng được phát triển từ  dễ  đến khó. Sau bài học giới thiệu là   những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng   đội. Bản thân luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp   tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn   qua việc học.         Ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em,   đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Luyện tập làm báo cáo thống kê. Luyện  tập làm đơn. Luyện tập thuyết trình, tranh luận. Luyện tập viết đoạn đối thoại;  phân vai, đọc diễn màn kịch. Luyện tập làm biên bản cuộc họp( Môn tập làm văn).   Kể  chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Kể  chuyện lớp trưởng lớp tôi ....   được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp,  ứng xử phù hợp, tư  duy sáng tạo,  lắng nghe phản hồi tích cực và kĩ năng hợp tác. Bản thân chỉ  gợi mở  sau đó cho  các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều   bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc  giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị  cho việc hình thành một số  kĩ năng giao  tiếp cộng đồng , kĩ năng xác định giá trị và thể hiện rõ xác định giá trị, thể hiện sự  thông cảm hoặc phản hồi lắng nghe tích cực,…hoặc cung cấp những câu chuyện   mà qua đó học sinh có thể  rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để  hình thành  những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt,  người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực,   chủ   động,  sáng   tạo   của  học   sinh   như:   thực   hành   giao  tiếp,   trò   chơi  học  tập,  phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ  chức hoạt động nhóm, 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2