Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kĩ năng sống và thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Đề xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống theo hướng khai thác nội dung môn học để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc thù của học sinh Tiểu học và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực để giáo dục kĩ năng sống chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 5 1. Phần mở đầu: 1.1. Lý do chọn sáng kiến. Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà nước ta coi: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Bậc Tiểu học được coi là bậc học “ nền tảng” của hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là tiền đề vững chắc cho việc đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ,thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mã theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là : Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình. Từ năm học 20102011, Bộ GDĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào
- đời tự tin hơn. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ; Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội.Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều em không tự dọn dẹp phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngoài việc học. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên hệ thống Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán,
- Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, trăn trở. Mục tiêu giáo dục là nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng yêu cầu của xã hội.Ở bậc tiểu học là bậc tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới. Năm học 20142015 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây dưng trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một trong những nội dung của phong trào. Chí vì vậy nên các nhà trường cần chú trọng hơn đến nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường và phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho học sinh, tôi đã chọn sáng kiến về “Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5” 1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
- Ở trường trung học cơ sở nói chung và trường tiểu học nói riêng giáo dục kĩ năng sống có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách học sinh. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần hiểu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình, từ đó đưa ra những biện pháp cụ thể để xây dựng tập thể lớp vững mạnh toàn diện. Hiện nay việc giáo dục sống cho học sinh vẫn chưa được thật sự chú trọng và đầu tư đúng mức mà giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phải bắt đầu từ nhỏ và phải thường xuyên được bổ sung, củng cố trong quá trình học tập và đến khi trưởng thành. Gia đình là nơi đầu tiên trẻ được trang bị, giáo dục các kĩ năng sống cơ bản nhất vì vậy khi giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần phố hợp với tất cả các lực lượng giáo dục nhất là gia đình các em. Trong quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tôi đã dựa vào những nội dung chủ yếu sau: Công tác với tập thể học sinh. Giáo dục những phẩm chất đạo đức cho học sinh. Giáo dục kĩ năng sông thông qua các môn học. Chỉ đạo việc học tập của học sinh. Giáo dục lao động hướng nghiệp Tổ chức các hoạt động vui chơi, rèn luyện thể lực bảo vệ sức khoẻ. Công tác Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao nhi đồng. Công tác phối hợp với cha mẹ học sinh. Đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kĩ năng sống và thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Đề xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống theo hướng khai thác nội dung môn học để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc
- thù của học sinh Tiểu học và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực để giáo dục kĩ năng sống chung. Tìm một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học. Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin trong cuộc sống khi giải quyết công việc và chủ động đối phó với hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. 1.3. Phạm vi áp dụng Sáng kiến này được áp dụng từ đầu năm học đến nay để “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khối 5 ” và học sinh toàn trường. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao. Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5 trường tiểu học, bản thân tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt, các em còn có nhận thức còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể
- hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn tự nhìn nhận và tự đánh giá về bản thân, kĩ năng xác định còn hạn chế. Kĩ năng tư duy và sáng tạo chưa cao. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi, khả năng đảm nhận trách nhiệm còn hạn chế. Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao. a.Thực trạng chung của nhà trường. * Thuận lợi: Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền của địa phương, của phụ huynh học sinh. Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy học của giáo viên và việc học của học sinh. Giáo viên trong nhà trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ. Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác giảng dạy v à công t ác chủ nhiệm. Về học sinh : Nhìn chung các em chăm ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn có những khó khăn sau: * Khó khăn: Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, kinh tế còn nhiều khó khăn, nhiều gia đình thuộc diện hộ nghèo, một số em mồ côi cha hoặc mẹ có em mồ côi cả cha lẫn mẹ. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng học của học sinh. Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nêu việc học tập của các em cần có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì hiệu quả học của các em mới đạt cao. Về đội ngủ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song còn nhiều khó khăn do có một số giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiện trong giảng dạy.
- Về phía các bậc phụ huynh: Cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? Đối với giáo viên Phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học. Tuy chưa nắm hết về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp, những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Mặc dù có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. b. Thực trạng của lớp 5A: Năm học 2014 2015 tôi được phân công giảng dạy trường Tiểu học Lớp 5A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 35 học sinh. Trong đó: Con cán bộ công chức: 14 em Con gia đình nông nghiệp 21 em. Nam 15 em; nữ: 20 em. Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều em xa trường nên việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Một số em thuộc diện hộ ngheo gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Một số em con mồ côi, có em mồ côi cả cha lẫn mẹ sông với cô, bác. c. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh Trong qua trinh rèn k ́ ̀ ĩ năng sống cho trẻ bản thân đa găp nh ̃ ̣ ưng thuân l ̃ ̣ ợi và kho khăn sau: ́ c.1.. Thuân l ̣ ợi
- ̣ ́ ̣ và Đao tao đa phat đông phong trao “Xây d Bô Giao duc ̀ ̣ ̃ ́ ̣ ̀ ựng trương hoc thân ̀ ̣ ̣ ̣ ́ ực” vơi nh thiên hoc sinh tich c ́ ưng kê hoach nhât quan t ̃ ́ ̣ ́ ́ ừ trung ương đên đia ́ ̣ phương, Phong ́ ̣ và Đao tao cung đa co kê hoach t ̀ Giao duc ̀ ̣ ̃ ̃ ́ ́ ̣ ưng năm h ̀ ọc vơi nh ́ ưng̃ ̣ ́ ̣ ̉ ể rèn kĩ năng sống cho học sinh môt cach chung nhât cho cac bâc biên phap cu thê đ ̣ ́ ́ ́ ̣ ̣ ̀ ưng đinh h hoc, đây chinh la nh ́ ̃ ̣ ương giup giao viên th ́ ́ ́ ực hiên nh ̣ ư: Rèn luyện kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội, kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc. Trương hoc n ̀ ̣ ơi bản thân công tac la ngôi tr ́ ̀ ương đã đat chuân quôc gia nên ̀ ̣ ̉ ́ ̣ ợi trong viêc th thuân l ̣ ực hiên nôi dung xây d ̣ ̣ ựng môi trương giao duc sach đep, an ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ̉ Bên cạnh đó, bản thân nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và toan cho tre. ̀ biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì thế bản luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển. c.2. Kho khăn ́ * Đôi v ́ ới giao viên ́ Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan tr ọng, c ần thi ết rèn kĩ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng sống cho học sinh.
- Giáo dục tâp trung nhiêu nôi dung chung cho cac bâc hoc, giao viên ch ̣ ̀ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ưa hiêu ̉ ̀ ̀ ội dung phai day tre theo t nhiêu vê n ̉ ̣ ̉ ừng khối lớp nhưng kĩ năng sông c ̃ ́ ơ ban nao, ̉ ̀ chưa biêt vân dung t ́ ̣ ̣ ừ nhưng kê hoach đ ̃ ́ ̣ ịnh hương chung đ ́ ể rèn luyện kĩ năng sống cho HS. Đa sô giao viên l ́ ́ ớn tuôi co nhiêu kinh nghiêm nh ̉ ́ ̀ ̣ ưng viêc đ ̣ ổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh con găp nhiêu ̀ ̣ ̀ ̉ ̉ ́ ơn, năng đông, sang tao nh kho khăn; giao viên tre tuôi it h ́ ́ ̣ ́ ̣ ưng lai kho trong công tac ̣ ́ ́ ̀ ương do nhân th bôi d ̃ ̣ ưc vê nghê ch ́ ̀ ̀ ưa sâu săc nên ́ giao viên m ́ ơi th ́ ương không an ̀ tâm công tac. ́ *Đối với học sinh Trong các nhà trường, trong lớp ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, ...Các em học sinh vừa từ lớp một, hai, ba lên làm quen với môi trường lớp 4 ,5các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ... * Đối với phụ huynh học sinh ̀ ́ ́ ậc cha me các em luôn nong vôi trong viêc day con; h Vê phia cac b ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ọ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Toán thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ thì quá nuông chiều, Đông th ̀ ơi lai chiêu chuông, cung ph ̀ ̣ ̀ ̣ ụng con caí ̉ khiên tre không co kĩ năng t ́ ́ ự phuc vu b ̣ ̣ ản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết… Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn nêu trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học
- sinh thông qua các tiết dạy của một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục. Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) lớp 5A đầu năm học với chủ đề “ Kĩ năng của em”; kết quả như sau: Tổng số học Kĩ năng tốt Có hình thành kĩ năng Kĩ năng chưa tốt sinh SL % SL % SL % 35 10 28,6 10 28,6 15 42,8 Thực hành thảo luận nhóm Biết cách lắng nghe, hợp Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi Tổng số tác nhóm học sinh SL % SL % 35 15 42,9 20 57,1 Kĩ năng giải quyết vấn đề Biết cách tự giải quyết Tự giải quyết vấn đề chưa tốt Tổng số vấn đề học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng tự nhận thức, tự trọng và tự tin của bản thân Biết tự nhận thức, tự Chưa biết tự nhận thức, tự trọng và tự Tổng số trọng và tự tin của bản tin của bản thân học sinh thân SL % SL % 31 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc Biết tự ứng phó với căng Chưa biết tự ứng phó với căng thẳng và Tổng số thẳng và cảm xúc cảm xúc học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể Biết cách ứng xử hài hòa, khá Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi. Tổng số
- học sinh phù hợp. SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm Biết cách đảm nhận trách Chưa tự tin, chủ độngvà ý thức cùng Tổng số nhiệm khá phù hợp. chia sẻ với các thành viên khác trong học sinh nhóm SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng quản lí thời gian Biết cách quản lí thời gian khá Ghưa biết cách sắp xếp thời gian Tổng số phù hợp. phù hợp theo thứ tự ưutieen. học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kĩ năng tìm kiếm và xữ lí thông tin Biết cách tìm kiếm và xữ lí Tìm kiếm và xữ lí thông tin chưa phù Tổng số thông tin khá phù hợp. hợp. học sinh SL % SL % 35 17 48,6 18 51,4 Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất là những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả. * Nguyên nhân Lứa tuổi các em đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn
- thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động.... Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhậpquốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tiêu cực và tích cực, luôn phải đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọnnhững giá trị phải đương đầu với những khó khăn, thách thức , những áp lực tiêu cực. Nều không được giáo dục kĩ năng sông, thiếu giáo dục kĩ năng sống, các em dễ bị lôi cuốn vào hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sốn ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lạch lạcvề nhân cách. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa quanh: nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa...chính là do các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẩn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đại…Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận thấy kĩ năng sống học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau: Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh. Việc rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học còn hạn chế. Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn chưa sâu sát. Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.
- Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiên day các em các kĩ năng sông ̣ ̣ ́ cơ bản chưa nhiều. Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống 2.2. Các giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toán, hài hòa và lành mạnh. Giáo dục kĩ năng sốngcho học sinh được giáo dục ở nhà và ở trường. Kĩ năng sống được giáo dục trong các môn học chính khóa và ngoại khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Cụ thể cần phải áp dụng một số biện pháp sau: Gi ải pháp 1: Nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ năng sống cho học sinh. Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu chuyên đề rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc học tiểu học do Bộ Giáo dục Đào tạo phát động; qua đó giúp tôi hiểu được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. Bản thân tôi luôn chịu khó gần gũi
- chuyện trò với học sinh, trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn, Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ các em. Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ các em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa,truyền thống cho học sinh, đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống. Giải pháp 2: Xác định những kĩ năng sống cơ bản và cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học. Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểuvà giao tiếp. Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Các nội dung của kĩ năng cơ bản mà người giáo viên cần dạy cho trẻ là: Kĩ năng sống tự tin : Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng mình có thẻ trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tinvề tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ, giúp các em có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Kĩ năng sống hợp tác: Giáo dục các em biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
- cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn, thông qua kĩ năng hợp tác giúp các em sống hài hòa và tránh xung đột trong quan hệ với người khác. Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân biết dung hòa đối với mong đợi với những người khác, có cách ứng xữ phù hợp khi làm việc cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, học sinh cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng học mọi thứ. Ngoài ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa
- … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Giải pháp 3: Xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy: Giáo viên có thể làm được gì để dạy kĩ năng sống cho trẻ? Cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh , cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh . Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của các em. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. Gi ải pháp 4: Tạo mối thân thiện và tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kĩ năng sống với học sinh.
- Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần đầu, bản thân cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và học sinh tăng cường đọc sách, tôi đã tham mưu với hiệu trưởng đã trang bị, sách thư viện , sách Bác Hồ, Sách Lịch sử , và các loại sách trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “tủ sách Bác Hồ ”; “tủ sách lịch sử ”; “câu đố vui ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa trái bốn mùa”; …thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm các em. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo. Gi ải pháp 5: Rèn kĩ năng sống thông qua giáo dục những phẩm chất đạo đức cho học sinh. Giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức về hành vi, thái độ đối với bạn bè, thầy cô, bản thân mình. Ghi nhớ năm điều Bác Hồ dạy cho học sinh, học
- tập nội quy của nhà trường, của đội, của lớp. Thường xuyên nêu gương người tốt, việc tốt cho các thành viên khác để học tập , phấn đấu. Động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có sự cố gắng vươn lên trong học tập và rèn luyện. Kết hợp với hoạt động Đội, Sao thường xuyên phát động thi đua cùng với các chủ đề khác nhau để học sinh rèn luyện học sinh như: “ Em làm kế hoạch nhỏ”, ‘ ’Em làm công tác đền ơn đáp nghĩa’’, “ Đàn gà khăn quàng đỏ”, “ Áo ấm đếntrường”, “ Tổ chức sinh hoạt dưới cờ ”...... Từ đó giáo dục truyền thống hào hùng của dân tộc ta một cách sâu rộng đến từng em. Để các em noi gương học tập và rèn luyện trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ. Gi ải pháp 6: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; An toàn giao thông .... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực. Trong chương trình lớp 5, Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông qua việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Hình thành cho các em kĩ năng giao tiếp như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời yêu , đề nghị,
- bày tỏ sự thông cảm và chia sẻ.... Kĩ năng tự nhận thức như biết xác định và đánh giá bản thân. Kĩ năng xác định giá trị đó là có tình cảm và niềm tin vào các chuẩn mực, hành vi đạo đức đã học. kĩ năng ra quyết định giải quyết vấn đề đó là bước đầu biết lựa chọn và thực hiện cách ứng xử phù hợp với một số tình hình đạo đức đơn giản, phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Kĩ năng tư duy phê phán là biết nhận xét đánh giá các ý kiến, hành động, lời nói, việc làm, các hiện tượng trong đời sống hằng ngày đối chiếu với các chuẩn mực đạo đức hằng ngày. Kĩ năng từ chối , học sinh biết từ chối khi bị rủ rê lôi kéo làm những điều sai trái.Kĩ năng hợp tác đó là biết cách hợp tác với bạn bè và mọi người xung quanh thực hiện các hoạt động tập thể, hoạt động cộng đồng. Kĩ năng đặt mục tiêu, học sinh biết lập kế hoạch học tập, rèn luyện các chuẩn mực đã học. Kĩ năng tìm kiếm và xữ lý thông tinh về các vấn đề, hiện tượng trong đời sống thực tiển có liên quan đế các chuẩn mực đạo đức, pháp luất đã học. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm, học sinh biết nhận và thực hiện trách nhiệm của bản thân. Từ những kĩ năng đó học sinh có lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn… Ví dụ: Khi dạy: “Hợp tác với người xung quanh” bản thân tổ chức cho các em, khám phá bài học dựa vào các câu hỏi để học sinh cùng suy nghĩ và trả lời sau đó giúp học sinh kết nối thông qua các hoạt động tìm hiểu bản chất của hợp tác. Hoạt động ích lợi của việc hợp tác và cuối cùng là tìm hiểu các yêu câu trong hợp tác,. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, bản thân tổ chức cho các em đứng thành vòng tròn đóng vai, thảo luận, tổ chức các trò chơi,… Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin khi đóng vai, thảo luận bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng bản thân đã kịp thời nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc
- gọn, mạnh dạn hơn. Thông qua bài học học sinh có được kĩ năng biết hợp tác với bạ bè và mọi người xung quanh trong công việc chung. Các em có kĩ năng đảm nhận trách nhiệm hoàn tất nhiệm vụ khi hợp tác với bạn bè và người khác. Ngoài ra các em còn có kĩ năng tư duy phê phán, biết phê phán những quan niệm sai, các hành vi thiếu tinh thần hợp tác và kĩ năng biết ra uyết định đúng để biết hợp tác có hiệu qủa. Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Bản thân luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học. Ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Luyện tập làm báo cáo thống kê. Luyện tập làm đơn. Luyện tập thuyết trình, tranh luận. Luyện tập viết đoạn đối thoại; phân vai, đọc diễn màn kịch. Luyện tập làm biên bản cuộc họp( Môn tập làm văn). Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Kể chuyện lớp trưởng lớp tôi .... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp, ứng xử phù hợp, tư duy sáng tạo, lắng nghe phản hồi tích cực và kĩ năng hợp tác. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng , kĩ năng xác định giá trị và thể hiện rõ xác định giá trị, thể hiện sự thông cảm hoặc phản hồi lắng nghe tích cực,…hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2238 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn