Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh Tiểu học bằng trò chơi
lượt xem 3
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là rút ra kinh nghiệm để có thể áp dụng ở trường chúng tôi và một số trường trong huyện với mục đích cuối cùng là giúp học sinh hiểu bài và đưa ra một số phương pháp làm thế nào để gây hứng thú học tập cho các em học sinh tiểu học. Từ đó nhằm góp phần hoàn thiện, bổ sung và nâng cao kiến thức cho học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến phương pháp mới trong quá trình dạy Tiếng Anh cấp Tiểu học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh Tiểu học bằng trò chơi
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Trong xu thế hội nhập quốc tế của đất nước, Tiếng Anh là một môn học quan trọng đang được mọi ngành, mọi nghề, mọi lĩnh vực và mọi người quan tâm. Trong số khoảng 780 thứ tiếng trên thế giới hiện nay thì Tiếng Anh chính là ngôn ngữ chính thức của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ chính thức của khối E.U và là ngôn ngữ thứ 3 được nhiều người sử dụng nhất chỉ sau tiếng Trung Quốc và Tây Ban Nha (do sự chênh lệch về dân số các quốc gia sử dụng), Tiếng Anh được sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai ở rất nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, có tới hơn 1 tỷ trang Web sử dụng Tiếng Anh, thật kinh ngạc khi ch ỉ c ần h ọc m ột ngôn ngữ là có thể khai thác hầu hết kho tri thức ấy. Những phần mềm thông dụng nhất trên thế giới, những mạng xã hội nổi tiếng nhất, những cổng thông tin phong phú nhất, ... tất cả đều được viết bằng Tiếng Anh. Vì thế, học Tiếng Anh cũng là điều kiện quan trọng để chúng ta có thể tiếp cận, cập nhật những nguồn tri thức từ khắp thế giới. Trong xu thế mở cửa hội nhập của đất nước, bên cạnh sự du nhập mạnh mẽ của các nền khoa học công nghệ cao còn có sự du nhập vừa phong phú vừa đa dạng của các nền văn hóa của các nước trên thế giới. Như vậy làm thế nào để có thể tiếp cận được với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như việc tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới, đồng thời giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, không có con đường nào khác là phải đào tạo cho thế hệ trẻ Việt Nam vốn kiến thức về ngoại ngữ nói chung và Tiếng Anh nói riêng là điều hết sức cần thiết. Nhưng ai cũng biết rằng các ngoại ngữ nói chung và Tiếng Anh nói riêng là một môn học khó. Vì thế, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng đào tạo bên cạnh việc thúc đẩy hứng thú, khơi gợi niềm say mê học tập Tiếng Anh nơi học sinh đang và sẽ không ngừng thu hút sự quan tâm của nhiều giáo viên có tâm huyết trong nghề. Vấn đề này cũng đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu của một số nhà giáo, các bài viết trên Tạp chí giáo dục, trang web của một số các thầy cô giáo, cũng như không ít những quyển sách tham khảo của nhiều tác giả nổi tiếng. Các công trình đó đã tạo cơ sở, nền móng cả về mặt lí luận và thực tiễn để tôi mạnh dạn đưa ra “Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi”.Ở đây, tôi không cho rằng đó là sáng kiến kinh nghiệm mà chỉ đơn thuần là kiến thức của bản thân tôi trong những năm daỵ học vừa qua, mong rằng các bạn tham khảo và cùng đóng góp, bổ sung cho tôi ngày một hoàn thiện hơn trong công tác giáo dục của mình. 2. Tên sáng kiến: “Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh Tiểu học bằng trò chơi”.
- 3. Tác giả sáng kiến. Họ và tên: Trần Thị Mai Lan Địa chỉ: Trường Tiểu học Hội Hợp A Thành phố Vĩnh Yên Điện thoại: 0969271488 Email: tranmailanvp@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Mai Lan – Giáo viên trường Tiểu học Hội Hợp A Thành phố Vĩnh Yên – Tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng trong ngành giáo dục; môn Tiếng Anh ở bậc Tiểu học. Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích rút ra kinh nghiệm để có thể áp dụng ở trường chúng tôi và một số trường trong huyện với mục đích cuối cùng là giúp học sinh hiểu bài và đưa ra một số phương pháp làm thế nào để gây hứng thú học tập cho các em học sinh tiểu học. Từ đó nhằm góp phần hoàn thiện, bổ sung và nâng cao kiến thức cho học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến phương pháp mới trong quá trình dạy Tiếng Anh cấp Tiểu học. Bên cạnh đó với một mong muốn giúp giáo viên có một số phương pháp trong việc huy động học sinh tham gia các hoạt động giao tiếp trên lớp nhằm đáp được yêu cầu về đổi mới phương pháp, hướng học sinh vào đúng trọng tâm yêu cầu của từng tiết học và thu hút học sinh trong quá học tập, đem lại hiệu quả cao. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 15 tháng 9 năm 2017 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. 7.1. Cơ sở lý luận. * Tầm quan trọng phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi. Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các trường tiểu học hiện nay,Tiếng Anh được đưa vào giảng dạy như là một ngoại ngữ cơ bản, là môn học độc lập. Trong những năm gần đây đã có rất nhiều những cuộc thi tiếng Anh dành cho học sinh tiểu học như: cuộc thi IOE, Olympic Tiếng Anh, Violympic Toán – Tiếng Anh ... . Cũng như những môn học khác, môn Tiếng Anh được xây dựng nhằm cung cấp những tri thức ban đầu về ngôn ngữ nước ngoài, giúp học sinh có một công cụ giao tiếp mới ngoài tiếng mẹ đẻ, bước đầu phát triển khả năng nhận biết, tư duy có phê phán và các kĩ năng tiền ngôn ngữ trong quá trình thực hành giao tiếp Tiếng Anh dưới bốn hình thức nghe, nói, đọc, viết. Ngoài ra, việc học Tiếng Anh còn giúp học sinh hình thành năng lực diễn đạt ý tưởng cá nhân một cách tự tin, độc lập và sáng tạo.
- Muốn học sinh tiểu học tốt môn Tiếng Anh thì người giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động, mà cần phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Xuất phát từ những vấn đề này, tôi cho rằng tổ chức các hoạt động tương tác trong mỗi bài học đặc biệt là ở phần khởi động (Kiểm tra bài cũ) sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo sự tập trung của học sinh vào chủ đề chính của bài học hoặc phần ứng dụng để giúp học sinh củng cố lại và ghi nhớ kiến thức sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, chúng ta có thể lồng ghép sử dụng các hoạt động vào các khâu giới thiệu và thực hành ngữ liệu mới để tránh việc gây nhàm chán cho học sinh khi phải lặp đi lặp lại những mẫu câu cho thuần thục. Việc nghiên cứu và vận dụng hợp lý các hoạt động tương tác vào mỗi bài dạy sẽ góp phần tích cực đến thành công của tiết học. 7.2. Cơ sở thực tiễn Do việc thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa mới và sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT về việc dạy học theo phương pháp cải tiến đổi mới chỉ diễn ra trong một vài năm gần đây. Thực tế còn nhiều giáo viên bị ảnh hưởng những phương pháp dạy học cũ; chưa thúc đẩy được khả năng chủ động, tích cực của học sinh; chưa khai thác tối đa các kênh hình trong sách giáo khoa, cũng như việc sử dụng kết hợp nhiều thủ thuật dạy học khác nhau. Dẫn đến hiệu quả học thấp, không tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Hơn nữa, chương trình Tiếng Anh tiểu học được xây dựng dựa vào nhu cầu của xã hội Việt Nam và đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nên về mặt nội dung rất thú vị, hấp dẫn và gần gũi với đời sống hàng ngày của các em. Tuy nhiên trên thực tế thì Tiếng Anh tiểu học vẫn là một môn học tự chọn cho nên ngoài những cá nhân thực sự yêu thích môn học này thì vẫn còn một số bộ phận học sinh vẫn chưa thực sự chú trọng và chưa có ý thức tự giác, ham muốn học tập cho nên dẫn đến tình trạng chất lượng học sinh học môn Tiếng Anh chưa cao. Các em không có môi trường để giao tiếp hàng ngày nên chóng quên từ đó dẫn đến tiếp thu chậm, lực học của các em không đồng đều. Chỉ có một số học sinh phát triển các kĩ năng tương đối, còn đa phần các em chưa có khả năng tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Hơn nữa, ở lứa tuổi tiểu học các em thường rất hiếu động, ham hiểu biết cái mới song các em lại chóng chán, nhanh quên. Từ thực tế trên, tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng học tập của các em thì điều đầu tiên người giáo viên phải làm là tạo cho học sinh sự hứng thú, ham muốn học tập, tạo sự tò mò và muốn biết được những điều mình sắp được học. Học sinh cần được tham gia tích cực và chủ động vào môi trường giao tiếp đa dạng với các hoạt động tương tác như trò chơi, bài hát, bài đọc nhịp, kể chuyện… dưới sự hướng dẫn của giáo viên để hình thành các kĩ năng ngôn ngữ, tạo không gian học tập nhẹ nhàng, thú vị và hấp dẫn cho người học.
- 7.3. Thực trạng của vấn đề. 7.3.1. Đặc điểm tình hình. a. Thuận lợi: Học sinh Tiểu học với bản chất hồn nhiên sẵn sàng tham gia vào các hoạt động của giờ học khi đã bị cuốn hút vào các hoạt động. Học sinh luôn được phụ huynh học sinh và giáo viên quan tâm, giúp đỡ trong quá trình học tập. Giáo viên được học tập, trao đổi kinh nghiệm từ đồng nghiệp qua các buổi hội giảng, trao đổi kinh nghiệm, chuyên đề. Được sự quan tâm, hỗ trợ của Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn và đồng nghiệp. Học sinh được làm quen với công nghệ thông tin, các em sớm được tiếp xúc với máy tính, với mạng Internet và thu nhận được nhiều thông tin từ đây. b. Khó khăn : Tiếng Anh là một môn học mới và rất khó đối với học sinh Tiểu học. Hơn nữa đối với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi thực tế xung quanh còn hạn chế. Ở lứa tuổi này, còn một số học sinh phát âm Tiếng Việt chưa được chuẩn. Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc nói Tiếng anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học. Hoạt động luyện nói thường được thực hiện theo cặp, nhóm nên lớp học dễ ồn ào mất trật tự. Giáo viên không bao quát hết được tất cả học sinh nên một số em cá biệt lợi dụng cơ hội nói chuyện bằng Tiếng Việt hay làm việc riêng. Giáo viên không thể phát hiện và sửa hết lỗi của các em học sinh. Nhà trường chưa có phòng chức năng riêng phục vụ cho việc học ngoại ngữ. Vì vậy việc tổ chức các hoạt động học tập trong tiết học gặp nhiều khó khăn. Các trang thiết bị, đồ dùng dạy học chưa phong phú và chưa hiện đại. Đa số phụ huynh học sinh chưa nhận ra được tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh đối với con em họ. Do vậy đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp sư phạm tốt, chủ động sáng tạo, luôn cải tiến phương pháp luyện tập bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều dạng bài tập khác nhau phù hợp cho từng nội dung bài học để gây hứng thú và động viên tất cả học sinh nhiệt tình luyện tập thực hành hoạt động giao tiếp.
- 7.3.2. Quy mô trường lớp năm học 2017 – 2018. Năm học 2017 2018 nhà trường có 541 học sinh chia làm 20 lớp. Tổng số CBQL, giáo viên và nhân viên là 26 người trong đó có 02 giáo viên Tiếng Anh. 100% các lớp học Tiếng Anh. Trong đó 4 lớp 3; 4 lớp 4 và 4 lớp 5 học chương trình mới của BGD 4tiết/ tuần; 4 lớp 1 và 4 lớp 2 học bộ sách I learn my Phonics( khuyến khích các em làm quen với Tiếng Anh). 7.3.3. Thực trạng việc dạy và học môn Tiếng Anh tại nhà trường. Hiện tại nhà trường đã và đang thực hiện giảng dạy môn Tiếng Anh 4 tiết/tuần đối với học sinh khối 3,4,5 và 2 tiết /tuần đối với học sinh khối 1,2. Bước đầu hình thành dần cho học sinh các kĩ năng chủ yếu: Nghe Nói Đọc Viết. Trong đó chú trọng đặc biệt là kĩ năng nghe và nói nhằm nâng cao năng lực thực hành giao Tiếp tiếng Anh mọi lúc, mọi nơi một cách tự tin nhất, Tạo tiền đề, tạo hứng thú, lòng say mê và khả năng khám phá ngôn ngữ mới để lên bậc học trên các em sẽ học tốt hơn. Qua những năm giảng dạy ở trường tiểu học, tôi nhận thấy có một số học sinh rất yêu thích môn học, năng động, chủ động và tích cực trong các hoạt động học tập nhưng chủ yếu là học sinh khá và giỏi. Đối tượng học sinh yếu còn rất nhiều, các em chậm tiếp thu các kiến thức mà giáo viên truyền đạt, thụ động học tập, các em rụt rè, xấu hổ, ngại thực hành nói trên lớp. Bên cạnh đó còn có những đối tượng học sinh cá biệt thiếu ý thức học tập, các em thường mất trật tự trong lớp, không chú ý nghe giảng, thậm chí không ghi chép bài ở trên lớp và không làm bài tập ở nhà. Đây là một khó khăn lớn đối với giáo viên giảng dạy bộ môn. Khi nói đến việc áp dụng một số biện pháp như tổ chức trò chơi, dạy các bài hát ... vào các giờ học Tiếng Anh thì có rất nhiều những ý kiến từ những người trực tiếp giảng dạy. Có giáo viên cho rằng những hoạt động này rất tốn thời gian mà bài học thì dài, không đủ thời gian để tổ chức. Có những giáo viên cũng tổ chức nhưng lại chưa biết cách sắp xếp và quản lí các hoạt động dẫn đến mất thời gian mà không hiệu quả. Có những giáo viên thì ngại tổ chức vì đôi khi phải chuẩn bị nhiều đồ dùng hoặc lớp học sẽ ồn ào, làm ảnh hưởng đến các lớp học khác. Việc thay đổi quan niệm và thói quen dạy học, khắc phục tâm lý ngại đổi mới là việc không đơn giản.Vì vậy, chất lượng dạy học môn Tiếng Anh trong thời gian qua chưa được như mong muốn. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh và tạo ra sự say mê, hứng thú trong học tập của học sinh là một câu hỏi cho mỗi giáo viên chúng ta. Chính vì vậy mà tôi đã thử áp dụng sáng kiến “Một số phương pháp
- dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi” để tạo ra động lực thúc đẩy niềm đam mê học ngoại ngữ của học sinh. Dưới đây là kết quả tôi làm khảo sát trước khi thực hiện áp dụng sáng kiến trong khối lớp 3, 4 tại trường tiểu học Hội Hợp A. Bảng 1: Thống kê mức độ yêu thích môn Tiếng Anh. Mức độ yêu thích môn Tiếng Anh Khối Rất Bình Thích Ghét/ Sợ lớp thích thường Sĩ số SL % SL % SL % SL % 3 99 10 10.1 15 15,2 54 54,5 20 20,2 4 68 6 8.8 8 11,8 40 58,8 14 20,6 Tổng 167 16 9,6 23 13,8 94 56,3 34 20,3 Nhìn vào bảng thống kê cho ta thấy số lượng học sinh sợ học bộ môn Tiếng Anh còn chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó chứng tỏ rằng học sinh chưa cảm thấy hứng thú với việc học và thực hành Tiếng Anh Bảng 2: Tổng hợp kết quả đánh giá học sinh. (Tổng hợp theo 4 kỹ năng) Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Khối lớp SL % SL % SL % SL % 3 99 12 12.1 20 20,2 47 47,5 20 20,2
- 4 68 8 11,8 14 20,6 36 52,9 10 14,7 Tổng 167 20 12,0 34 20,4 83 49,6 30 18,0 Qua bảng thống kê cho ta thấy chất lượng học sinh yếu còn rất cao, tỉ lệ học sinh trung bình còn nhiều, tỉ lệ khá giỏi vẫn chưa cao. * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên Học sinh lười học, ngại học, nhút nhát, thiếu tự tin, chưa có động cơ học tập đúng đắn và phương pháp học tập phù hợp, phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phù hợp, giáo viên chưa quan tâm hết các đối tượng học sinh, do gia đình chưa động viên kịp thời và quan tâm đúng mức.... Giáo viên ngại đổi mới, năng khiếu hạn chế, ngại sáng tạo, thiếu linh hoạt, thiếu kinh nghiệm thậm chí là lòng yêu nghề, yêu trẻ... Từ thực tế đó, là người trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh, tôi đã cố gắng suy nghĩ tìm tòi, học hỏi các biện pháp hay để nâng cao chất lượng học tập của bộ môn. Qua quan sát và kinh nghiệm đứng lớp, tôi thấy các em học sinh tiểu học chưa có ý thức tự giác học tập cao, ham chơi hơn ham học, tò mò, thích cái mới lạ. Vì thế mà tôi đã mạnh dạn thay đổi phương pháp học cho các em, vừa chơi vừa học, tạo cho các em không khí học tập nhẹ nhàng thoải mái, và tiếp thu kiến thức một cách chủ động, vận dụng kiến thức vào luyện tập và củng cố một cách tự nhiên nhất. Vì thế, các em sẽ phát huy hết được trí lực của mình, tạo ra không khí vui vẻ, hào hứng và các em sẽ bị lôi cuốn vào hoạt động học tập một cách tự nhiên. Từ đó, hiệu quả dạy học sẽ được cải thiện. Từ những thực trạng trên, tôi đã quyết định nghiên cứu về các biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong các tiết học ngoại ngữ để từ đó có động cơ đi tìm tòi nghiên cứu những phương pháp dạy học mới, hay phù hợp với việc dạy và học ngoại ngữ trong trường học của mình. 7.4. Giải quyết vấn đề 7.4.1.Tại sao phải sử dụng trò chơi cho học sinh trong giờ học tiếng Anh? 7.4.1.1. Khái niệm
- * Trò chơi Theo từ điển Bách khoa tiếng Việt: "Trò chơi là hoạt động vận động làm biểu hiện tình cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một cách hào hứng về nục đích hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy đủ hơn đối tượng trong đời sống hiện thực" và " trò chơi tạo nên hứng thú ở chủ thể khát vọng tiếp cận và đi sâu vào đối tượng, làm nảy sinh cảm xúc tích cực (hài lòng, phấn khởi, yêu thích ...), nâng cao mức tập trung, chú ý và khả năng làm việc. Khi được làm việc phù hợp với hứng thú, dù phải vượt qua khó khăn, con người vẫn cảm thấy thoải mái và đạt kết quả cao". * Học tập Học tập là quá trình học và luyện tập những kiến thức tiếp thu được của người học một cách tự giác, tích cực. * Trò chơi học tập Trò chơi học tập là một cách thể hiện thái độ yêu thích đặc biệt của học sinh đối với việc học tập, được thể hiện qua nhiều mức độ như: sự chú ý tập trung, sự ham thích và cao nhất là niềm đam mê đối với một đối tượng trong quá trình học. Đối với mức độ của trò chơi, học sinh ở những lứa tuổi khác nhau có những biểu hiện khác nhau, nhưng ở cấp tiểu học đa số các em đều chỉ thể hiện ở mức chú ý, tập trung tham gia trò chơi, rất ít học sinh đạt tới mức độ đam mê do các em chưa ý thức được những lợi ích của việc học tập. Do đó, thiết nghĩ mỗi người giáo viên tiểu học phải là một người đưa đường bền bỉ, là người bạn đồng hành của tất cả các em trên con đường đi tìm niềm đam mê đối với tri thức. Hơn ai hết, giáo viên tiểu học phải coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú học tập cho các em ngay từ những buổi học đầu tiên, những bài học đầu tiên. Đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự khéo léo trong nghệ thuật sư phạm. *Trò chơi học tập môn tiếng Anh. Trò chơi học tập môn Tiếng Anh là xu hướng vận động nhằm tạo ra hứng thú của học sinh có nhu cầu đúng đắn về học tập môn này. Học sinh có hứng thú học tập thường chú ý cao độ trong học tập trên lớp và ngoài giờ; thường xuyên say mê rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; tích cực vận dụng vào giao tiếp và cuộc sống; đam mê tìm hiểu nghiên cứu; không ngừng nâng cao trình độ học Tiếng Anh. Chính vì vậy, khi học sinh có được hứng thú trong học tập thì việc học tập tốt môn học này sẽ không phải là trở ngại lớn đối với các em. Do đó, khơi dậy sự hứng thú học tập cho học sinh là việc làm cần thiết và rất quan trọng của người giáo viên. 7.4.1.2. Vai trò của trò chơi đối với việc học tập môn tiếng Anh
- Hàng loạt các công trình nghiên cứu sinh lý học cho thấy rằng khả năng tiềm tàng của bộ óc trong hoạt động trí tuệ của con người còn lâu mới được sử dụng hết. Thực tế, chỉ khoảng 10 – 15% khả năng đó được sử dụng và do vậy dẫn đến sự khác biệt về khả năng trí tuệ mà ta có thể nhận thấy giữa người này và người khác. Điều này không hẳn phụ thuộc vào bản tính sinh lý của họ mà chủ yếu là vào những ảnh hưởng khác nhau của môi trường và sự giáo dục. Thực tế, trong trường học cũng vậy, khi tiếp nhận những tác động bên ngoài (sự giảng dạy, môi trường học tập,...) một cách tích cực, các em dễ bộc lộ tính tích cực nhận thức và cố gắng lĩnh hội bài. Ngược lại, nếu tác động bên ngoài là tiêu cực thì tính tiêu cực nhận thức của các em sẽ được bộc lộ. Chính vì thế, vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên là phải hình thành ở học sinh tâm trạng tích cực đối với học tập và khêu gợi những kích thích bên trong của sự tích cực nhận thức. Hay nói cách khác, khi vận dụng những phương pháp và thủ thuật giảng dạy nào đó, giáo viên phải quan tâm, đầu tư sao cho chúng có tác dụng xúc cảm cần thiết và làm cho chúng vừa trở nên những tài liệu dễ hiểu, sinh động hơn vừa để kích thích tâm trạng bên trong của học sinh đối với học tập. Không phải ngẫu nhiên mà nhà tâm lý học L. I. Boogiôvich đã viết rằng: "tuyệt đại đa số học sinh kém thường có thái độ tiêu cực đối với học tập". Điều này có nghĩa là nếu chúng ta muốn học sinh chăm chú nghe giảng thì việc chỉ nêu tên chủ đề của tiết học và thông báo những vấn đề cơ bản của bài giảng là chưa đủ. Cần phải gây cho học sinh một tâm tư xúc động tích cực có liên quan trực tiếp với lòng mong muốn hoạt động nhận thức. Do đó, không thể thiếu được yếu tố gây hứng thú cho hoạt động nhận thức của học sinh. Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng. Khi đó, học sinh không cần đến sự động viên bên ngoài đối với học tập mà làm việc với sức mạnh của sự say mê bên trong nhằm đáp ứng nguyện vọng của bản thân. Việc gây hứng thú ở học sinh sẽ giúp các em có cảm giác niềm vui sướng của thành công, tin tưởng vào sức mình, vào khả năng vượt qua những khó khăn thử thách. Dẫu biết rằng sự hứng thú có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự thành công của hoạt động dạy và học nhưng trong thực tế dạy học có những yếu tố gây mất hứng thú hay chưa khơi dậy được sự hứng thú học tập ở học sinh. Nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng này? Do không hiểu bài: Không hiểu bài, các em sẽ thấy khó khăn, và khi thấy khó khăn thì học sinh sẽ không thể nắm bắt được, vì không thể nắm bắt được nên các em cảm thấy mọi thứ đều tù mù, không rõ ràng và vô hướng. Do đó, các em đương nhiên không thể có hứng thú học và kết quả học tập luôn đi xuống là điều dễ hiểu. Đây là một hiện tượng không hiếm gặp trong bối cảnh giáo dục hiện nay, khi mà việc học đơn
- thuần ở lớp không thể đáp ứng đủ được nhu cầu tương đương với trình độ của mỗi học sinh do sĩ số lớp quá đông. Không những thế, tác động từ môi trường cũng có ảnh hưởng nhất định tới kết quả học tập của mỗi học sinh. Để giải quyết được vấn đề này, đối với từng học sinh, ta phải có những phương án cụ thể thích hợp. Do phương pháp giảng dạy: Đôi khi không có hứng thú học tập cũng bắt nguồn từ phương pháp giảng dạy. Chúng ta cần phải ý thức lại vấn đề này. Giáo viên phải là người gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Với một giáo viên lúc nào cũng nghiêm khắc, khô khan thì đương nhiên khó có thể tạo hứng thú học tập cho các em, mà thay vào đó chỉ là tâm lý sợ sai mà các em luôn phải duy trì trong suốt giờ học. Không những thế, ngày nay các giáo viên còn mắc một lỗi phổ biến khiến các em không hứng thú học đó là: thiếu tính sáng tạo trong giảng dạy. Khi phải học bởi kiểu giảng dạy chỉ có đọc và chép thì chắc hứng thú của các em đều chìm vào giấc ngủ từ khi nào rồi. Vấn đề này đòi hỏi sự cải thiện rất nhiều từ đội ngũ giáo viên. Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng trên? Từ việc đọc, tìm hiểu và nghiên cứu các thông tin trên các trang web, sách tham khảo, kinh nghiệm của đồng nghiệp và bài học từ chính quá trình giảng dạy của mình, tôi đã mạnh dạn chia sẻ một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi” nhằm tạo hứng thú cho các em như sau: 7.4.2. Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi: 7.4.2.1. Các hoạt động dạy học phải phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng học sinh và cụ thể là phải phù hợp với từng học sinh Trong mỗi lớp học đều có đầy đủ trình độ học sinh. Những học sinh khá, giỏi đương nhiên sẽ tiếp thu bài nhanh hơn những học sinh yếu kém. Vì vậy, nếu các trò chơi vận động dạy học chỉ hướng đến học sinh khá, giỏi thì các em còn lại sẽ ngơ ngác, không theo kịp; ngược lại nếu chỉ hướng đến học sinh yếu kém thì các học sinh khá, giỏi sẽ cảm thấy nhàm chán. Do đó, khi đưa ra các hoạt động trên lớp, giáo viên cần nói rõ nội dung, đưa ra các yêu cầu không quá khó đến mức làm nản lòng học sinh nhưng vẫn có thách thức ở mức độ nào đó để học sinh cố gắng giải quyết và cảm thấy hứng thú hơn khi hoàn thành tốt các yêu cầu đặt ra. Qua từng tiết học như thế sẽ giúp học sinh có lòng tự tin học tập rồi dần dần sẽ phát huy được tính tích cực học tập đồng đều ở tất cả học sinh. 7.4.2.2. Sử dụng có hiệu quả dụng cụ trực quan Để kích thích tinh thần chú ý của học sinh không thể thiếu các dụng cụ trực quan vì các phương tiện trực quan giúp học sinh hiểu sâu hơn về từ vựng, mẫu câu, cách sử dụng từ, ... . thông qua các vật thật, tranh ảnh, biểu đồ, ... sẽ giúp các em nhận thức tốt và ghi nhớ nhanh hơn, lâu bền hơn.
- 7.4.2.3. Sử dụng trò chơi ngôn ngữ Nhiều tài liệu nghiên cứu về phương pháp giảng dạy Tiếng Anh tiểu học đã cho rằng trò chơi không chỉ là hoạt động để lấp khoảng trống về thời gian trong các tiết học mà nó còn có một giá trị giáo dục rất lớn. Trong thực tế, trẻ em thường hiếu động nên các em thường có khuynh hướng dễ nhàm chán nếu nội dung bài học được trình bày đơn điệu, tẻ nhạt. Được vui chơi khi học là nguyện vọng rất chính đáng và tha thiết của đa số học sinh. vì vậy việc sử dụng trò chơi trong các tiết học Tiếng Anh có thể giúp ích cho việc học ngôn ngữ của học sinh. * Trò chơi giúp luyện tập kĩ năng giao tiếp Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với kiến thức kĩ năng có được trong quá trình học tập, gần với nội dung bài học và giúp học sinh thực hành luyện tập ngôn ngữ trong các tình huống của trò chơi. Tham gia các trò chơi sẽ khuyến khích hoạt động nhóm tạo cơ hội cho học sinh hợp tác và giao tiếp với nhau bằng những mẫu câu được lặp lại giúp phát triển kĩ năng giao tiếp một cách lưu loát. * Trò chơi giúp mở rộng và củng cố từ vựng, ngữ pháp Nhằm tránh việc cung cấp từ mới cho học sinh một cách dập khuôn máy móc, không sinh động, thông qua các trò chơi chúng ta có thể lồng ghép từ mới vào các trò chơi. Từ đó giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn các từ mà học sinh đã học. Trong giảng dạy tiếng Anh cho trẻ em, sử dụng game là một biện pháp hiệu quả và hữu ích nhằm tạo không khí học tập vui nhộn cũng như lôi cuốn học sinh vào bài học, góp phần cải thiện khả năng tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng ngoại ngữ cho trẻ. Sau đây là 16 trò chơi đơn giản và phổ biến thường được áp dụng để dạy các kỹ năng tiếng Anh khác nhau cho trẻ em. Dạy kĩ năng đọc 1.Mặt nạ (Word masking) Giáo viên sẽ che một từ trong bài đọc lại. Khi học sinh đọc mỗi câu trong bài, giáo viên cần cố gắng giúp các em tìm ra từ bị thiếu trong câu là gì. Giáo viên có thể khuyến khích các em sử dụng các gợi ý như nghĩa, âm từ vựng tương ứng ngữ pháp. 2. (Bingo) Học sinh sẽ lựa chọn một danh sách cho các từ vựng có trong truyện hoặc bài đọc và viết chúng vào một khung lưới gọi là bảng bingo. Giáo viên sẽ đọc tên các từ ngẫu nhiên và học sinh nối các từ vừa được đọc trong bảng Bingo của mình. Ai hoàn thành một đường thằng nối các từ trước sẽ hô Bingo. Em nào có nhiều đường thẳng Bingo nhất sẽ là người chiến thắng.
- 3.Những con số may mắn( Lucky numbers) E.g. Unit 13. What do you do in your free time? (tiếng Anh 5 tập 2) Phân chia lớp thành 2 đội (thi ghi điểm). Giáo viên kẻ lên bảng khoảng 12 ô vuông có đánh số. Giải thích trò chơi: Trong 12 con số viết lên bảng có 5 con số may mắn (giáo viên tự chọn). Các con số còn lại mỗi số tương ứng với 1 câu hỏi. Mỗi đội sẽ lần lượt chọn những con số bất kỳ. Nếu chọn được số may mắn thì không phải trả lời câu hỏi mà vẫn ghi được điểm (2 điểm cho ô). Nếu không phải là số may mắn thì các đội phải trả lời đúng câu hỏi thì mới ghi được điểm. Nếu đội chọn số không trả lời được thì cơ hội ghi điểm dành cho đội đối phương. Nếu cả 2 đội đều không có câu trả lời đúng, đáp án sẽ để lại và được tìm hiểu trong bài học. Các số thứ tự của ô chữ sẽ tương ứng với câu hỏi giáo viên đã chuẩn bị theo nội dung bài học. E.g. 1) Lucky number. 2) What do you do in your free time? 3) Do you often go fishing in your free time? 4) Lucky number. 5) Who do you often go camping with? 6) Lucky number. 7) Where do you go in your free time? 8) What did you do in Nha Trang? 9) Lucky number. 10) Lucky number. 11) Do you often surf the Internet? 12) Do you like going skating? Sau khi trò chơi kết thúc, giáo viên tổng kết điểm. Đội nào ghi được nhiều điểm hơn sẽ chiến thắng. (Nếu 2 đội bằng điểm nhau, đội thắng sẽ là đội chọn được nhiều số may mắn hơn).
- Lucky numbers là một trò chơi có rất nhều cách sử dụng , nó có thể thích hợp với hầu hết các kiểu bài, các chủ điểm, các trình độ của học sinh. Giáo viên cũng chỉ mất khoảng 7 – 10 phút là có thể chuẩn bị tốt trò chơi này. 4. Hang man Gạch những đường gạch ngắn lên bảng. mỗi gạch tượng trưng cho một mẫu tự trong từ. Ví dụ: Nếu muốn cho học sinh đoán từ “ water” thì gạch 5 gạch lên bảng (_ _ _ _ _). Học sinh lần lượt đoán các mẫu tự có trong từ. Nếu mỗi lần học sinh đoán sai giáo viên gạch một gạch (theo thứ tự trong hình vẽ). Nếu học sinh đoán sai 8 lần thì bị thua. Giáo viên giải đáp từ gợi ý. Dạy từ vựng 5.Nhớ tranh (Remembering pictures) Chia học sinh thành 3 hoặc 4 nhóm. Giáo viên cầm một số bức tranh liên quan đến từ vựng đã dạy ở bài trước trước và giơ lần lượt từng bức tranh lên. Các em có cơ hội để nhìn vào mỗi bức tranh khoảng 4 hoặc 5 giây. Khi giáo viên giơ tranh xong, mỗi thành viên của các nhóm sẽ lần lượt chạy lên bục giảng và chỉ viết tên của một bức tranh. Nhóm nào có nhiều câu trả lời nhất và hoàn thành nhanh nhất sẽ là người chiến thắng 6.Chiếc ghế nóng (Hot Seat) Giáo viên chia học sinh của mình thành 3 hoặc 4 đội và chọn mỗi nhóm 1 thành viên ngồi lên Ghế Nóng và quay mặt về phía lớp. Giáo viên viết một từ lên bảng, và một thành viên trong đội của học sinh đang ngồi trên Ghế Nóng phải diễn tả giúp đồng đội của mình đoán được ra từ vựng trên mà không được nói, đánh vần hay viết tên từ đó ra. Trò chơi sẽ tiếp diễn cho đến khi thành viên trong các đội đều đã diễn tả từ vựng cho đồng đội ngồi trên Ghế Nóng của mình. Trò chơi này cũng có thể áp dụng để dạy kĩ năng nói. 7. Network Giáo viên chia lớp học thành 3 hoặc 4 nhóm, cung cấp cho học sinh từ chủ đề lên bảng, cho học sinh 2 – 3 phút để thảo luận về các từ có liên quan trong nhóm, sau đó 1 đại diện của các nhóm lên viết bảng cùng một lúc trong khoảng thời gian 2 phút, nhóm nào viết được nhiều từ đúng hơn sẽ giành chiến thắng. E.g. Unit 12. What does your father do?. ( Tiếng Anh 4 tập 2) Khi kiểm tra phần từ vựng về nghề nghiệp, tôi sẽ cho học sinh chơi trò chơi Network. Trò chơi này rất dễ chơi và có thể tổ chức ở rất nhiều bài học trong chương trình tiếng Anh tiểu học như: Unit 8. School Things, Unit 11. My Family, Unit 18. Colours,
- … trong chương trình Tiếng Anh lớp 3;Unit 3: Days; Unit 4: Months; Unit 8; subjects ;Unit 11. Daily Activities, Unit 12. Jobs, Unit 13. Favourite Food and Drink, Unit 17: Clothes; Unit 19. Zoo Animals, ….. trong chương trình Tiếng Anh lớp 4. …. 8. Jumple words Giáo viên cần chuẩn bị các tấm bìa giấy hoặc các tấm thẻ đã viết mỗi chữ cái của các từ (tùy theo trình độ học sinh và số lượng từ của bài để giáo viên có thể chọn từ dễ hay khó, nhiều hay ít từ). Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm A và B, tùy theo số chữ cái của mỗi từ để giáo viên gọi số học sinh của mỗi nhóm lên trước lớp ( ví dụ từ có 5 chữ cái thì gọi 5 em học sinh), giáo viên xáo trộn các chữ cái trong từ trước khi phát cho số học sinh được gọi lên bảng, mỗi em một chữ cái. Và trong khoảng thời gian nhất định (ví dụ: 30 giây) những học sinh này phải đưa chữ cái của mình ra phía trước và tự sắp xếp trong đội để có được một từ đúng hoàn chỉnh, đội nào sắp xếp đúng và nhanh nhất được giáo viên cho một số điểm nhất định ( tùy sở thích của giáo viên, có thể là 20, 30, … điểm). Sau khi chơi hết các từ mà giáo viên đã chuẩn bị, giáo viên tổng kết điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc. E.g. Unit 18. What will the weather be like tomorrow? ( Tiếng Anh 5 tập 2) Mục đích là ôn lại cho học sinh các từ mới về mùa: summer, winter, spring, autumn. Giáo viên chuẩn bị sẵn 4 từ và viết mỗi chữ cái của 4 từ này lên một tấm thẻ. Giáo viên xáo trộn các chữ cái trước khi phát cho số học sinh được gọi lên bảng, mỗi em một chữ cái. + R E S M U M + N T W E R I + S N G I P R + N A U M U T Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm. Giáo viên gọi 4 lượt học sinh lên bảng, mỗi lượt có số học sinh của mỗi nhóm tương ứng với số chữ cái của mỗi từ. Trong khoảng thời gian 30 giây, những học sinh này phải đưa chữ cái của mình ra phía trước và tự sắp xếp trong đội để có được một từ đúng hoàn chỉnh, đội nào sắp xếp đúng và nhanh nhất được giáo viên cho 20 điểm. Sau khi chơi hết các từ mà giáo viên đã chuẩn bị, giáo viên tổng kết điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc.
- Trò chơi này có thể được thay thế với Jumple sentences để ôn lại cho học sinh các cấu trúc câu mà các em đã được học. Trò chơi này có thể được áp dụng trong các bài học nhất là các bài ôn tập. Dạy ngữ pháp 9.Từ xáo trộn (Word Jumble Race) Giáo viên viết ra một số câu, sau đó cắt chúng thành từng từ. Đặt mỗi câu đã bị cắt vào mũ, ly hoặc bất kỳ vật gì có thể chứa được và tách chúng riêng biệt. Chia lớp thành các nhóm gồm 2, 3, hoặc 4 học sinh. Các đội bây sẽ phải sắp xếp các từ trong câu của mình theo đúng thứ tự. Đội chiến thắng là đội đầu tiên hoàn thành các câu của mình một cách chính xác. 10.Nhảy cóc (Jumping games) Trò chơi này cần một khoảng không gian rộng chặng hạn như sân trường. Học sinh sẽ đứng thành một hàng. Giáo viên sẽ đọc một danh sách các câu hay từ liên quan đến một cấu trúc ngữ pháp đã dạy trước đó. Học sinh quyết định câu hay từ giáo viên vừa đọc đúng hay sai để nhảy lên phia trước hoặc nhảy ngược về phia sau. Em nào nhảy sai sẽ bị loại ra khỏi hàng. 11. Chain game chia lớp thành nhóm từ 810 em. Học sinh ngồi quay mặt với nhau. Em đầu tiên trong các nhóm lặp lại câu của giáo viên. Học sinh thứ 2 lặp lại câu của học sinh thứ 1 và thêm vào một ý khác Học sinh thứ 3 lặp lại câu của học sinh thứ 1,2 và thêm vào một ý khác và cứ thế tiếp tục cho đến học sinh cuối cùng trong nhóm. E.g. Unit 2. I’m from Japan. (Tiếng Anh 4 tập 1). GV: Hello. I'm from Vietnam. HS1: Hello. I'm from Malaysia. HS2: Hello. I'm from Indonesia. ................................................... 12. Noughts and Crosses Giải thích với học sinh rằng trò chơi này cũng giống như trò chơi “ cờ ca rô” ở Việt Nam nhưng chỉ cần 3 “0” hoặc 3 “x” trên một hàng ngang, dọc, đường chéo là thắng. Kẻ 9 ô vuông trên bảng, mỗi ô có chứa một từ (hoặc một tranh vẽ).
- E.g. Unit 1. What’s your address? (Tiếng Anh 5 tập 1). 52 Ba trieu Street South Road the second floor of Hanoi Tower Green Avenue Hoa Binh Lane 42 Hai Ba Trung Street Lieu Giai Street High Street Thanh Cong block of flat Làm mẫu một câu với học sinh sử dụng một từ bất kỳ trong các ô: I live in 52 Ba trieu Street . Chia học sinh làm hai nhóm: một nhóm là nought (0) và một nhóm là crosses (X). Các nhóm lần lượt chọn từ trong ô và đặt câu. Nhóm nào đặt đúng sẽ được một 0 hay một X. Dạy kĩ năng nghe 13.Simon nói (Simon says) Giáo viên đứng trước lớp và đóng vai Simon. Giáo viên nói “Simon says” cùng với tên của bất kỳ một hành động nào đó và diễn tả bằng cử chỉ cho dù cử chỉ của giáo viên có thể không đúng với tên hành động vừa nêu. Học sinh có nhiệm vụ lắng nghe và diễn tả lại hành động được nêu tên, không nên bắt chước hành động của giáo viên hoàn toàn. Em nào diễn tả sai sẽ là người thua cuộc. Giáo viên cũng có thể tiến hành trò chơi Simon says. Học sinh chỉ thực hiện hành động khi khẩu lệnh của bạn có cụm “Simon says…”. E.g. Unit 4. Did you go to the party? (Tiếng Anh 5 tập 1). “Simon says show me a dictionary?” hay “Simon says show me a comic book” và học sinh sẽ làm đúng theo những gì được yêu cầu. Tuy nhiên, nếu giáo viên chỉ nói “show me a birthday card” học sinh sẽ không thực hiện hành động. Nếu em nào thực hiện hành động không phải do Simon nói, em đó sẽ bị loại và trở thành người phát hiện các em bị loại trong những lần tiếp theo.
- 14.Truyền miệng (Word of Mouth) Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm đứng thành hàng và nói thầm với học sinh đứng đầu tiên tên một từ vựng nhất định, học sinh đó sẽ phải nói thầm từ trên cho bạn kế tiếp và tiếp tục cho đến khi em học sinh cuối cùng trong hàng đọc to từ vừa được truyền. Nếu em học sinh trên có thể phát âm từ được thì thầm chính xác, cả đội sẽ giành được 1 điểm. Một biến thể khác của trò chơi này thay vì thì thầm thì các thành viên trong đội sẽ viết ra giấy và giơ cho bạn kế tiếp xem. Dạy kĩ năng nói 15.Đối mặt (Facing game) Trò chơi này dựa trên một gameshow trên truyền hình. Học sinh đứng theo hình vòng tròn. Giáo viên sẽ chọn một chủ đề nhất định và mỗi học sinh sẽ có vài giây để đọc to một từ hay cụm từ liên quan đến chủ đề đã chọn. Nếu em nào không thể đưa ra câu trả lời của mình, em đó sẽ bị loại và trò chơi sẽ tiếp tục. Người thắng cuộc sẽ là em học sinh duy nhất còn lại. Trò chơi này cũng phù hợp để sử dụng trong giảng dạy từ vựng 16.Những từ bí ẩn (Secret Words) Trong trò chơi này, giáo viên sẽ chuẩn bị sẵn một số tấm thẻ, mỗi tấm đều ghi tên một từ vựng nhất định. Học sinh được chia thành 2 nhóm và mỗi nhóm sẽ lần lượt đặt câu hỏi cho giáo viên để có được gợi ý liên quan đến từ vựng trong từng thẻ. Nhóm nào tìm ra từ bí ẩn trước sẽ giành 1 điểm. Trò chơi sẽ tiếp diễn cho đến khi tấm thẻ cuối cùng được hoàn thành và nhóm giành số điểm cao nhất sẽ chiến thắng. Ngoài ra còn có rất nhiều các trò chơi ngôn ngữ khác mà giáo viên có thể sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy của mình. Tóm lại qua quá trình thực tế giảng dạy ở các khối lớp, khi áp dụng các hoạt động tương tác như trò chơi, bài hát, bài chant và kể chuyện vào các tiết học tôi thấy có hiệu quả rõ rệt, học sinh nắm được kiến thức bài học và chất lượng học tập của học sinh dần được nâng cao. 7.4.2.4. Sử dụng phương pháp TPR TPR là dạng viết tắt của Total Physical Response (Phản ứng cơ học), m ột ph ương pháp giảng dạy Tiếng Anh mới của tiến sỹ James J. Asher. Ph ương pháp này được phát triển dựa trên cách thức trẻ em học tiếng mẹ đẻ. Bố mẹ thường có những “cuộc trò chuyện bằng cử chỉ” với con cái. Họ hướng dẫn và đứa trẻ sẽ làm theo. Ví dụ: bố/ mẹ nói “Look at mummy” ( hãy nhìn vào mẹ) hoặc “Give me the ball” (Đưa cho bố/ mẹ quả bóng) và đứa trẻ làm theo. Những cuộc “trò
- chuyện” đặc biệt này sẽ diễn ra trong nhiều tháng trước khi đứa trẻ bắt đầu nói những tiếng đầu tiên. Tuy chưa biết nói nhưng trong thời gian đó, đứa bé đã có thể ghi nhớ cách bố mẹ sử dụng ngôn ngữ, âm thanh cũng như cấu trúc. Cuối cùng khi chúng có thể giải mã được tất cả những tín hiệu ngôn ngữ xung quanh, chúng sẽ tự mình nói ra những câu đó. Phương pháp dạy Tiếng Anh TPR áp dụng nguyên lý tương tự trong các lớp học Tiếng Anh. * Cách áp dụng Trong lớp học, giáo viên đóng vai trò của bố mẹ. Giáo viên sẽ bắt đầu bằng việc nói một từ (E.g. jump) hoặc một cụm ( E.g. look at the board) và minh hoạ lời nói bằng hành động tương ứng. Sau đó, giáo viên nhắc lại mệnh lệnh để học sinh thực hiện hành động tương ứng. Sau khi lặp đi lặp lại việc này để học sinh làm quen và ghi nhớ, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại cụm đó khi thực hiện động tác. Khi học sinh đã nắm vững từ hoặc câu đã học, hãy bảo chúng tự đưa ra yêu cầu để các bạn khác thực hiện. Hoạt động này sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu học sinh đứng thành vòng tròn xung quanh giáo viên và di chuyển khi thực hiện động tác mà mệnh lệnh yêu cầu. Khi áp dụng phương pháp TPR, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện hành động trước, sau đó cho học sinh luyện tập phát âm khẩu lệnh (đồng thanh và cá nhân) để chúng có cơ hội làm quen với âm thanh. Khi đã thành thục, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự ra lệnh để các bạn khác thực hiện hành động. Giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi theo phương pháp TPR. Học sinh đứng thành vòng tròn xung quanh giáo viên, giáo viên nói khẩu lệnh và người thực hiện việc này cuối cùng sẽ bị loại. Học sinh bị loại sẽ đứng sau lưng giáo viên và quan sát xem ai là người thực hiện hành động cuối cùng khi khẩu lệnh tiếp theo được đưa ra. Học sinh còn lại cuối cùng sẽ là người thắng cuộc. Giáo viên cũng có thể tiến hành trò chơi Simon says. Học sinh chỉ thực hiện hành động khi khẩu lệnh của bạn có cụm “Simon says…”. E.g. Unit 4. Dd ? (Tiếng Anh 1). “Simon says: show me a dog?” hay “Simon says: show me a drum” và học sinh sẽ làm đúng theo những gì được yêu cầu. Tuy nhiên, nếu giáo viên chỉ nói “show me: a cat” học sinh sẽ không thực hiện hành động. Nếu em nào thực hiện hành động không phải do Simon nói, em đó sẽ bị loại và trở thành người phát hiện các em bị loại trong những lần tiếp theo. * Thời điểm áp dụng: Có thể dùng phương pháp TPR để dạy: Từ vựng liên quan đến hành động (smile, chop, headache, wriggle …) Thì quá khứ,hiện tại, tương lai, tiếp diễn của động từ (Every morning I clean my teeth, I make my bed, I eat breakfast …)
- Ngôn ngữ dùng trong lớp học (Open your books …) Câu mệnh lệnh/ Hướng dẫn (Stand up, Close your eyes …) Kể chuyện Việc áp dụng vào thời điểm nào là thích hợp hoàn toàn phụ thuộc vào trí tưởng tượng của giáo viên. * Ưu điểm Làm cho giờ học trở nên thú vị và sôi nổi. Nó thật sự có tác dụng khuấy động không khí lớp học theo chiều hướng tích cực. Dễ nhớ đối với học sinh vì chúng có cơ hội thực hành những thứ vừa được học. Phát huy thế mạnh của những học sinh ưa hoạt động trong lớp Có thể áp dụng phương pháp này trong cả lớp lớn và lớp nhỏ. Việc lớp có bao nhiêu học sinh không thành vấn đề vì khi bạn sẵn sàng thực hiện hành động thì học sinh sẽ sẵn sàng làm theo. Phương pháp này rất hiệu quả đối với các lớp mà trình độ học sinh không đồng đều. Hoạt động cơ học giúp chuyển tải ý nghĩa của ngữ liệu mới hiệu quả hơn. Do đó, họ sinh có thể hiểu và sử dụng những gì đã học trong thực tế. Không mất nhiều thời gian để chuẩn bị miễn là giáo viên hiểu rõ mình muốn cho học sinh luyện tập gì. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả đối với trẻ em và thiếu niên. TPR liên quan tới quá trình học tập của cả bán cầu não trái và phải. * Nhược điểm Những học sinh chưa quen với phương pháp này có thể cảm thấy bối rối. Điều này có thể đúng với lần đầu tiên nhưng nếu giáo viên sẵn sàng thực hiện hành động thì học sinh cũng sẽ không ngại ngần làm theo. Không thể dạy mọi thứ bằng phương pháp này và nếu lạm dụng nó sẽ trở nên kém hiệu quả. Hãy kết hợp TPR với những phương pháp để đem lại hiệu quả giảng dạy cao. 7.5.Giải pháp khi thực hiện đề tài. Tiếng Anh là một ngôn ngữ quốc tế , ngôn ngữ được dùng để giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong công việc. Tuy nhiên để tất cả các em nhận thức
- được tầm quan trọng của nó trong cuộc sống không phải là dễ .Qua quá trình giảng dạy bộ môn ở toàn cấp .Tôi đúc rút được một số giải pháp. Không nên quá lạm dụng các phương pháp này, trong mỗi tiết học chỉ nên sử dụng 12 hoạt động trong khoảng thời gian phù hợp. Tránh sự ôm đồm quá nhiều hoạt động một lúc sẽ làm cho người học thấy mệt mỏi và giảm hứng thú với môn học. Phải biết lựa chọn và áp dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung từng bài học cụ thể, tránh hiện tượng dạy và học lệch chương trình. Thiết kế các hoạt động phải phù hợp với trình độ của học sinh, tránh tình trạng các hoạt động quá khó hoặc quá dễ sẽ không kích thích được năng lực tư duy và khả năng sáng tạo của học sinh. Sự liên tục cần phải kiểm tra sự hiểu và nắm bắt kiến thức của các em trên lớp thông qua các trò chơi, tạo sự hứng thú học tập trước khi vào bài. Khảo sát chất lượng học sinh nhiều lần để kết luận, rút kinh nghiệm khi xây dựng đề tài. Viết sáng kiến kinh nghiệm qua sự bổ sung, góp ý kiến của đồng nghiệp , qua thực tế giảng dạy nhằm thực hiện tốt đề tài này. Khi thực hiện các giải pháp trên tôi chắc chắn rằng sau một thời gian vận dụng sẽ giúp học sinh yêu thích bộ môn tiếng Anh hơn. Từ đó giúp các em tích cực tham gia học tập, nghiên cứu, tự tin hơn trong thực hành và giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng của học sinh và hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Như vậy, việc vận dụng các phương pháp để tạo sự hứng thú học tập của học sinh ở trên lớp, không chỉ tạo không khí vui vẻ, phấn khởi học tập của học sinh, mà là một thủ thuật khoa học, sáng tạo của người thầy. Tôi tin rằng nếu tiếp tục thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này một cách nghiêm túc, xuyên suốt quá trình giảng dạy và có thể áp dụng rộng rãi ở các trường Tiểu học thì chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh trong trường Tiểu học sẽ có được những kết quả khả quan hơn. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 9. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến. Đội ngũ giáo viên Tiếng Anh cần phải đạt chuẩn và trên chuẩn để tham gia dạy chương trình 4 tiết theo chương trình sách giáo khoa mới. Học sinh phải có tính chuyên cần, luôn tham gia học một cách tích cực và có hứng thú tìm hiểu, khám phá, chịu khó học hỏi. Chương trình dạy học không quá nặng về lý thuyết mà cần phải mang tính thực tế trong chương trình giảng dạy. Phòng học phải đạt chuẩn theo bộ môn Tiếng Anh có các phương tiện trang thiết bị hỗ trợ dạy học đầy đủ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 439 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 220 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh trong phân môn luyện từ và câu lớp 3
27 p | 169 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 189 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 175 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 123 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 168 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp giáo viên lớp 1 dạy tốt Hoạt động trải nghiệm theo chủ đề ở trường Tiểu học Thanh Liệt
39 p | 24 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 164 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 102 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 129 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 147 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp huấn luyện chạy cự ly ngắn cho học sinh
14 p | 96 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục tại Trường Tiểu học Ngọc Lâm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông
9 p | 60 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trường Tiểu học Cổ Đô
40 p | 14 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn