intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt qua dạy tích hợp các phân môn

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

22
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với một số biện pháp như: Dạy tích hợp qua phân môn Tập đọc; Dạy tích hợp qua phân môn Chính tả; Dạy tích hợp qua phân môn Luyện từ và câu; Dạy tích hợp qua phân môn Tập làm văn;...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt qua dạy tích hợp các phân môn

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Trong hệ thống giáo dục, Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ  sở ban  đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng  vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.  Để đạt được mục tiêu trên, giáo dục Tiểu học đã duy trì dạy học toàn diện,  việc giúp các em học tốt các môn học. Học có phương pháp là mục tiêu hàng  đầu được đặt ra trong mọi tiết học, giúp cho sự  phát triển kỹ năng, kỹ  xảo,  năng lực, tư duy và khả năng của các em.     Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung   cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và  sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao.            Môn Tiếng Việt rất quan trọng đối với học sinh cấp bậc tiểu học nói  chung, ở lớp tôi nói riêng. Nếu học tốt bộ môn này nó sẽ  giúp các em học tốt  hơn các phân môn của bộ môn Tiếng Việt: giúp cho môn Tập làm văn dùng từ  đúng, vế câu  chau chuốt hơn, diễn đạt bằng ngôn ngữ  rõ ràng mạch lạc, biết  sàng lọc để đưa hình  ảnh hay vào trong bài; giúp cho phân môn chính tả như  viết đúng, ít lỗi hơn. Trong phân môn kể chuyện, các em sẽ biết cách kể  hay,   hấp dẫn người nghe hơn. Học tốt bộ  môn này còn giúp cho việc học và nắm   bắt kiến thức các môn học khác một cách dể dàng hơn. Tiếng Việt là một môn học cần thiết cho tất cả các bậc học, không  những chỉ cần thiết cho bậc tiểu học, trung học mà còn là nền tảng, là cơ sở  học tốt các bậc học trên. Ngoài ra, học tốt các phân môn trong Tiếng Việt là  điều rất cần thiết cho đời sống, sinh hoạt lao động và cho việc học các môn  khác. Hơn thế nữa, hiện nay, chúng ta đang trong xu thế hội nhập nền kinh tế  quốc tế thì “Bồi dưỡng nhân tài” là một trong những yếu tố để chúng ta có thể  tiếp cận với sự tiến bộ của khoa học công nghệ các nước trong khu vực và  trên thế giới. Chính vì thế mà giáo viên cần cố gắng hướng đến sự phát triển  tối đa những năng lực tiềm tàng trong mỗi học sinh. Trong thực tế giảng dạy, để đạt được mục tiêu đề ra thật không dễ  dàng. Qua những năm trực tiếp giảng dạy lớp 5, bản thân tôi nhận thấy các  phân môn tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn có mối quan hệ chặc  chẽ với nhau. Thật vậy:
  2. Phân môn Tập đọc: giúp học sinh từ  chỗ đọc đúng, đọc trôi chảy, diễn  cảm đến chỗ hiểu được nghĩa của từ, ý của câu và nội dung của bài. Phân môn Chính tả: rèn cho học sinh biết quy tắc và có thói quen viết   chữ  ghi Tiếng Việt đúng với chuẩn viết đúng chính tả, giúp cho học sinh có  điều kiện để  sử  dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các bộ  môn văn hóa, trong việc viết các văn bản, thư từ. Phân môn Luyện từ và câu: có vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống  ngôn ngữ. Không có một vốn từ đầy đủ  thì không thể  nắm ngôn ngữ như  là  phương tiện giao tiếp. Luyện từ  và câu còn phát triển năng lực, trí tuệ, ngôn  ngữ, những phẩm chất đạo đức  ở  trẻ  em. Nó có vai trò hướng dẫn học sinh  trong việc nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn: là một phân môn sử dụng tổng hợp các hiểu biết  về  luyện từ  và câu, chính tả, khả năng nghe nói tiếng việt, vốn hiểu biết về  đời sống của học sinh do bài học khác nhau mang lại. Mỗi bài tập làm văn là  sản phẩm của từng cá nhân học sinh trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều  in dấu ấn riêng từng em trong cách suy nghĩ, cách kể, cách tả, cách diễn đạt…  Chính luyện từ và câu, chính tả, tập đọc là nền tảng để học tốt Tập làm văn Xuất phát từ  những lý do cơ  bản trên nên tôi chọn đề  tài  “Nâng cao   chất lượng môn Tiếng Việt qua dạy tích hợp các phân môn” để nghiên cứu. 1.2. Điểm mới của đề tài Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này đã tiến  hành trong thời gian dài, được bản thân rút kinh nghiệm qua quá trình giảng   dạy môn Tiếng Việt. Những kinh nghiệm trích lũy được trong giảng dạy trong  đó có sự tiến bộ của học sinh  ở các phân môn trong môn Tiếng Việt, đặc biệt  là phân môn Tập làm văn. Những kết quả  giảng dạy được bản thân thường  xuyên cập nhật, so sánh, rút kinh nghiệm vào từng thời điểm trong năm học và  so sánh kết quả  với những năm học trước. Từ đó đề  xuất một số  biện pháp  “Nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt qua dạy tích hợp các phân môn” những   biện pháp để giảng dạy đạt kết quả cao hơn.
  3. {3} 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ  trong phạm vi lớp phụ  trách một số bài tập tổng hợp các phân môn Tiếng Việt với các nội dung: Đọc hiểu văn bản. Điền đúng vần, âm Điền dấu hỏi, ngã. Tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, hiểu nghĩa của từ. Xếp từ theo nhóm Viết đoạn văn theo yêu cầu. Kết quả thu được như sau: Tổng số HS tham gia: 33 Đọc hiểu: Hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học trở  lên: 90,9,  %;              Hoàn thành tốt các yêu cầu của nội dung môn học: 63,6% Điền âm, vần, dấu thanh: Hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học  trở lên: 100%            Hoàn thành tốt các yêu cầu của nội dung môn học:: 66,6% Tìm từ, xếp từ: Hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học trở  lên:   93,9%          Hoàn thành tốt các yêu cầu của nội dung môn học:  66,6% Viết đoạn văn: Hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học trở  lên:  90,9%           Hoàn thành tốt các yêu cầu của nội dung môn học: 51,5% Qua khảo sát tôi thấy tỷ lệ học sinh  sai các mảng kiến thức còn nhiều,  tỷ lệ học sinh sai trong từng mảng kiến thức khá trùng lặp, bên cạnh đó có một  số em sai từng kiến thức riêng,đạt tỷ lệ hoàn thành tốt còn thấp. Qua quá trình  dạy học, kiểm tra đánh giá tôi thấy các em thường gặp các lỗi cơ bản sau: Học sinh đọc không đúng ngắt nghỉ, khả năng trả  lời câu hỏi trong nội  dung bài đọc còn hạn chế, dài dòng, không trả lời đúng trọng tâm. Kĩ năng nói  còn hạn chế, dùng từ địa phương nhiều. Viết lẫn lộn nhiều các tiếng có thanh hỏi/ ngã; vần anh/ ân, ong/ ông,  ênh/anh; âm gi/d.
  4. Hiểu nghĩa của từ còn mơ hồ, xếp từ theo nhóm không chính xác, vốn từ  nghèo. Kĩ năng viết đoạn văn còn yếu, diễn đạt lúng củng, liên kết câu, đoạn  rời rạc. *Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân sau: Nguyên nhân từ phía giáo viên GV dạy học theo từng phân môn riêng biệt, chưa được chú trọng đến  dạy tích hợp cho học sinh trong các phân môn TV. Sử dụng phương pháp, hình thức dạy học chưa phong phú, chưa thực sự  kích thức khả năng sáng tạo của học sinh. Các hình ảnh minh họa trực quan cho một số hoạt động trong bổ trợ để  giảng từ GV chưa khai thác triệt để. Kiến thức Tiếng Việt còn hạn chế, kinh nghiệm bồi dưỡng cho học sinh  còn ít. Nguyên nhân từ phía học sinh Có nhiều em trong giao tiếp còn dùng từ địa phương.  Rất ít học sinh  được tham gia câu lạc bộ  Tiếng Việt để  thể  hiện tài  năng của mình. Điều kiện kinh tế gia đình của học sinh còn khó khăn, thời gian dành cho  việc học tập còn ít,việc mua sắm tài liệu tham khảo còn ít dẫn đến chất lượng  chưa cao. Một số phụ huynh, học sinh xem nhẹ môn Tiếng Việt. 2.2. Một số biện pháp dạy tích hợp các phân môn tập đọc, luyện từ  và câu, chính tả, tập làm văn trong Tiếng Việt Để nắm được mối quan hệ giữa các phân môn này, tôi đã xem toàn bộ  chương trình về số tiết, bài dạy, nội dung có liên quan với nhau. Chính vì thế  nên khi giảng dạy tôi thường lồng ghép chúng với nhau. Cụ thể tôi đã làm như sau: 2.2.1. Dạy  tích hợp qua phân môn Tập đọc Khi giảng hoặc lúc giao tiếp với học sinh, tôi tránh nói tiếng địa phương,  cố gắng sử dụng ngôn ngữ viết thay cho ngôn ngữ nói.
  5. {5} Ví dụ: học sinh thường nói: trửa sân, đường ngái, rộng rại... Tôi sửa cho học sinh: giữa sân, đường xa, rộng rãi ( hoặc các từ đồng  nghĩa: bao la, thênh thang) Khi đọc mẫu bài tập  đọc, tôi cho cả  lớp dùng bút chì gạch chéo (/)  những chỗ ngắt giọng hoặc ngắt nhịp thơ. Tôi chú ý ngắt câu dài thành nhiều  cụm từ nhỏ; ngắt nhịp thơ để học sinh yếu và trung bình dễ đọc. Ví dụ:   “Ngày nay/ chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ/mà tổ tiên đã để lại  cho chúng ta,… nước nhà trông mong/ chờ đợi ở các em rất nhiều…” (Thư gửi các học sinh – Hồ Chí Minh – SGK TV5T1) “Sáng mát trong /như sáng năm xưa Gió thổi/ mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ/ những ngày thu đã xa” (Đất nước ­ Nguyễn Đình Thi) Khi giảng bài, nhất là phần tìm hiểu bài cần tạo hứng thú cho học sinh.  Đây là một khâu quan trọng, là một hiện tượng tâm lý trong đời sống mỗi  người, tạo hứng thú là tạo điều kiện cho học sinh học tập, lao động được tốt  hơn. Để  tạo được hứng thú cho học sinh, giáo viên phải tạo cho học sinh sự  thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp và khả  năng kì diệu của ngôn từ để kích thích vốn từ sẵn có của từng em. Ví dụ: Bài “sắc màu em yêu” của Phạm Đình Ân – giáo viên có thể gợi ý  học sinh tìm hiểu: Những màu sắc trong bài được tác giả gợi ra những hình ảnh nào?  Tại sao bạn nhỏ yêu tất cả các màu sắc đó? Em có thể liên tưởng những màu sắc đó bằng những hình ảnh nào khác  trong thực tế? Trên cơ  sở học sinh đã được tiếp thu bài học, giáo viên bồi dưỡng cảm  thụ văn học cho học sinh khá, giỏi. Đây là một quá trình lâu dài và công phu  trong phân môn Tập đọc. Để bồi dưỡng tốt, trước hết giáo viên bồi dưỡng cho  các em vốn sống, có vốn sống học sinh mới có khả  năng liên tưởng để  tiếp  cận tác phẩm. Giáo viên cần tạo cho học sinh tiếp cận với nhiều tác phẩm.   Giáo viên chỉ  gợi mở, dẫn dắt cho sự  tiếp xúc của học sinh với những tác 
  6. phẩm hay. Hoạt động của giáo viên chỉ có tác dụng hỗ trợ cho cảm xúc thẩm   mĩ nảy nở  trong hoạt động. Cần tôn trọng những suy nghĩ, cảm xúc thực của  học sinh và nâng chúng lên ở cấp độ cao hơn, đồng thời giáo viên phải trang bị  cho học sinh một số kiến thức về văn học như hình  ảnh, chi tiết, kết cấu tác  phẩm, các đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, những biện pháp tu từ Ví dụ: Trong bài thơ tác giả đã sử dụng biện pháp nào ? Em có cảm nhận gì khi đọc bài sắc màu em yêu của Phạm Đình Ân. Ngoài ra cần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm có sáng tạo, nó giúp học  sinh nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ và kích thích các em khám phá ra cái  hay, cái đẹp của văn chương. Khi cho học sinh tiếp xúc tác phẩm, giáo viên  cần có hệ thống câu hỏi, bài tập liên tưởng cụ thể để hướng vào nội dung, yêu  cầu cần đạt. Ví dụ:   Đọc phân vai bài “Lòng dân” của Nguyễn Văn Xe.Yêu cầu học sinh khi  đọc phải thể  hiện được tâm trạng của nhân vật.( dì Năm, Cai, An, Cán bộ,  lính) qua đó mới thấy được hết nội dung mà vở kịch đem lại cho người đọc. Đọc bài thơ: Những cánh buồm­ Hoàng Trung Thông­ Tuần 32. GV hỏi:  Chúng ta cần đọc bài thơ với giọng đọc như thế nào? Nhấn giọng từ nào? Vì  sao ? (Nhẹ  nhàng, trầm lắng, tha thiết, nhấn giọng các từ: rực rỡ, lênh khênh, chắc   nịch, rả rích,trầm ngâm, thầm thì... để thể hiện tâm tình của cha với con…)   Phân môn tập đọc còn xây dựng cho học sinh thói quen tìm đọc sách  ở  thư  viện, dùng sách công cụ  (từ  điển, sổ  tay luyện từ  và câu) và ghi chép  những thông tin cần thiết khi đọc. Ví dụ: khi dạy bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” của Tô Hoài (Trang  10­STV5T1) tôi lưu ý cho học sinh về  cách dùng từ  tả  màu sắc để  vận dụng  vào tập làm văn và ghi vào sổ tay như:  + lúa: vàng xuộm + nắng: vàng hoe + xoan: vàng lịm + tàu lá chuối: vàng ối + bụi mía: vàng xọng + rơm, thóc: vàng giòn
  7. {7} ………… Dùng Từ điển để biết được màu sắc được sử dụng trong bài gợi cho em  cảm giác gì.      + Vàng xọng: màu vàng gợi cảm giác như có nước                           + Vàng lịm: gợi cảm giác căng mọng, ngọt                            + vàng tươi: cảm giác vàng tươi mới, đẹp mắt.                            ................... Nói chung khi dạy phân môn Tập đọc không những giáo viên củng cố  nâng cao kĩ  năng đọc cho học sinh, mở  rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư  tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh mà cần hướng học sinh biết vận dụng  những hiểu biết của phân môn này vào những phân môn khác một cách phù   hợp, sáng tạo. 2.2.2. Dạy  tích hợp qua phân môn Chính tả Rèn kĩ năng viết chính tả và kĩ năng nghe: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nghe – viết; nhớ ­ viết một đoạn trích  từ  bài tập đọc hoặc các bài tập chính tả âm, vần là ôn lại qui tắc viết một số  chữ dễ nhầm lẫn do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương theo yêu cầu đã  đề ra. Nếu học sinh sai, giáo viên có thể giúp học sinh: + Phân biệt các chữ viết đúng chính tả với các chữ viết sai chính tả + Học sinh sữa lại những lỗi sai của mình phía dưới bài viết. + Học sinh có thể ghi vào sổ tay chính tả các lỗi chính tả thường mắc và  cách sữa những lỗi ấy. Ví dụ: Ở bài chính tả nghe – viết “ Việt Nam thân yêu” của Nguyễn  Đình Thi (trang 6 STV5T1) bài tập 2: tìm tiếng thích hợp với mỗi ô trống để  hoàn chỉnh bài văn sau. Biết rằng: 1 Chứa tiếng bắt đầu bằng ng hoặc ngh 2 Chứa tiếng bắt đầu bằng g hoặc gh 3 Chứa tiếng bắt đầu bằng c hoặc k Sau khi học sinh hoàn thành bài tập giáo viên gợi ý để học sinh rút ra quy  tắc: 
  8. *Âm “gờ” viết là gh khi nó đứng trước các âm i, ê, e  và viết g khi đứng  trước các âm còn lại. *Âm “ngờ” viết là ngh khi nó đứng trước các âm i, ê, e  và viết ng khi  đứng trước các âm còn lại. *Âm “cờ” viết là k khi nó đứng trước các âm i, ê, e  và viết c khi đứng  trước các âm còn lại. Rèn luyện một số kĩ năng sử dụng Tiếng Việt và phát triển tư duy.  Thông qua các bài tập chính tả học sinh được rèn luyện cách phát âm,  củng cố nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng việt, góp phần phát triển một  số thao tác tư duy cơ bản như so sánh, liên tưởng, ghi nhớ. Ví dụ: bài chính tả nghe – viết: “Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ” của Như  Kim (trang 38, STV5T1) ở bài tập 2 sau khi học sinh điền tiếng “nghĩa”;  “chiến” vào mô hình cấu tạo vần các em tự biết so sánh sự giống và khác nhau  của 2 tiếng này về cấu tạo. Mở  rộng vốn hiểu biết, góp phần hình thành nhân cách con người mới.  Thông qua bài chính tả, nội dung bài tập chính tả giáo viên mở  rộng vốn hiểu   biết về cuộc sống, con người; bồi dưỡng một số đức tính và thái độ cần thiết  trong công việc như: cẩn thận, chính xác, có óc thẩm mĩ, lòng tự  trọng, tinh  thần trách nhiệm… Ví dụ: bài chính tả nghe – viết: “Luật Bảo vệ môi trường” ( trang 103  STV5T1) thông qua nội dung bài chính tả giáo viên lồng ghép ý thức tự giác  giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở, trường học. Cụ thể là quét dọn vệ sinh  hàng ngày nhà ở, lớp, sân trường, trồng cây xanh tạo cảnh quan trường học  vừa xanh – sạch – đẹp. Nói chung, giáo viên hướng dẫn học sinh học tốt phân môn chính tả thì  học sinh sẽ vận dụng kiến thức này để viết đúng bài tập làm văn viết; biết  khai thác từ ngữ ở phân môn luyện từ và câu; khi đã hiểu bài thì học sinh sẽ  đọc trôi chảy ở tiết tập đọc và nâng cao cho học sinh khá giỏi về chữ viết đẹp,  đúng để tham gia vào các đợt thi viết chữ đẹp do trường, ngành tổ chức. 2.2.3. Dạy  tích hợp qua phân môn  Luyện từ và câu *Nội dung dạy luyện từ và câu ở lớp 5 gồm có: ­ Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ ­ Nghĩa của từ: Từ đồng nghĩa, trái nghĩa; đồng âm, nhiều nghĩa...
  9. {9} ­ Từ loại ­ Câu ghép ­ Văn bản ­ Ôn tập *Các biện pháp dạy học ­ Hướng dẫn học sinh làm bài tập ­ Hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức mới *Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy luyện từ  và câu nhằm đạt  hiệu quả thiết thực Đối với dạng bài mở rộng và hệ thống hóa vốn từ giáo viên yêu cầu học   sinh trung bình, yếu chỉ  cần tìm được một vài từ  thông dụng theo gợi ý SGK  còn đối với học sinh khá giỏi có thể  tham khảo từ điển để  tìm nhiều từ hơn  hoặc giáo viên chủ  động dẫn dắt, gợi ý, giải nghĩa từ  ngữ  bằng nhiều hình  thức khác nhau để bổ sung vốn tiếng việt và giúp các em dễ thực hiện yêu cầu   bài tập; tăng cường tổ chức học sinh trao đổi theo nhóm để các em hợp tác tìm  ra YC  đối với giờ học luyện từ và câu. Ví dụ:  trong bài “  Mở  rộng vốn từ  Hữu nghị  ­ Hợp tác” (trang 56  TV5T1) bài tập 2 có yêu cầu: xếp các từ có tiếng “ hợp” cho dưới đây thành 2  nhóm a và b: (Hợp tình, hợp tác, phù hợp, hợp thời, hợp lệ, hợp nhất, hợp pháp, hợp   lực, hợp lý, thích hợp).   a/ hợp có nghĩa là “ gộp lại” (thành lớn hơn) M: hợp tác.   b/ hợp có nghĩa là “đúng với yêu cầu, đòi hỏi…nào đó”. M: thích hợp. Giáo viên YC   học sinh giải nghĩa từ, giáo viên cũng cần chấp nhận  nhiều cách diễn đạt khác nhau, đôi khi còn vụng về, “ngây ngô”, miễn sao học  sinh thể hiện được sự cảm nhận đúng và biết dùng từ không sai lạc về nghĩa.  Từ đó giáo viên uốn nắn để học sinh biết cách giải nghĩa từ cho chính xác.Từ  việc nắm được nghĩa của từ, học sinh dễ dàng xếp đúng từ theo nhóm. Đối với dạng bài cung cấp kiến thức mới và thực hành luyện tập, giáo   viên chủ  động dẫn dắt, gợi ý học sinh trao đổi chung  ở  lớp để  từ  đó rút ra  những điểm cần ghi nhớ về kiến thức. Trong quá trình luyện tập, giáo viên có  thể hướng dẫn học sinh nhắc lại một số kiến thức liên quan để dễ thực hiện 
  10. bài tập Ví dụ: trong bài “Quan hệ  từ” (trang 109 TV5T1) bài tập 3: đặt câu với mỗi  quan hệ từ: và, nhưng, của. Giáo viên có thể yêu cầu đặt 3 câu, mỗi câu có một quan hệ từ cho trước  bằng hình thức nói hoặc viết hoặc cũng có thể chỉ yêu cầu mỗi học sinh chọn   2 (hoặc 1) trong 3 quan hệ từ cho trước để đặt câu rồi chữa chung cho cả lớp  đối với lớp có học sinh trung bình, yếu nhiều. Còn đối với lớp có học sinh khá,  giỏi   giáo viên có thể  nâng lên yêu cầu cao hơn là đặt đoạn văn  ngắn có sử  dụng 3 quan hệ  từ cho trước với chủ đề  tự  chọn. Đây cũng là cơ  sở để  làm  Tập làm văn tốt hơn. Khi dạy về câu giáo viên cần hướng dẫn học sinh: + Tìm được bộ phận chính của câu tránh nhầm lẫn trạng ngữ, ngữ danh   từ là câu. + Xác định được những ví dụ nào đã thành câu, ví dụ nào chưa thành câu  và giải thích tại sao? + Nắm được dạng bài mở rộng nòng cốt câu bằng cách thêm thành phần  phụ. + Biết chữa câu sai bằng 2 cách. + Nắm được kiến thức cơ bản về câu để sử dụng dấu câu cho phù hợp. Ví dụ bài “ Ôn tập về câu” (trang 171 TV5T1) sau khi dạy nội dung SGK  để  học sinh nắm được các kiểu câu, giáo viên có thể  củng cố  bằng bài tập  nâng cao như sau: Giáo viên viết bảng phụ và đính lên bảng: a/ Ngày 2/9/1945 Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập. b/ Học sinh trường Tiểu học Liên Thủy c/ Bờ biển Nha Trang rất đẹp d/ Vui chơi trong sân trường Yêu cầu học sinh xác định dòng nào là câu? Viết thêm vào những dòng  chưa thành câu và giải thích tại sao? Khi dạy bài “  Ôn tập dấu câu”(Dấu phẩy)TV5 Tập 2­ trang 133: sau  khi ôn tập cho học sinh nâng cao thêm cho HS khá giỏi: Viết đoạn văn khoảng  5­7 câu về hoạt động vui chơi của HS có sử  dụng câu có dấu phẩy, chỉ rõ tác  dụng của dấu phẩy em đã sử dụng.
  11. {11} Ở bài tập này không những giúp học sinh biết được cấu trúc câu, hiểu ý  nghĩa câu mà còn giúp học sinh biết lựa chọn vốn từ đã học để vận dụng một  cách sinh động, sáng tạo vào một văn cảnh cụ thể. Ngoài ra học sinh còn có  thể vận dụng những kiến thức này vào bài làm văn hoặc sử dụng dấu câu  trong tiết chính tả, tập làm văn. 2.2.4. Dạy  tích hợp qua phân môn Tập làm văn Đây là một phân môn mà học sinh phải tổng hợp những gì đã được tích  lũy qua các bài giảng của giáo viên. Chính vì thế, khi dạy phân môn này, tôi  thường giới thiệu với các em những bài đọc có liên quan hoặc tài liệu hay để  các em tham khảo. Ví dụ:  Văn tả cảnh có các bài tham khảo:  ­ Quang cảnh làng mạc ngày mùa (Tô Hoài) trang 10 TV5T1 ­ Tiếng đàn Ba­la­lai­ca trên sông Đà (Quang Huy) trang 69 TV5T1 ­ Kì diệu rừng xanh (Nguyễn Phan Hách) trang 75 TV5T1 ­ Trước cổng trời (Nguyễn Đình Ảnh) trang 80 TV5T1 ­ Đất Cà Mau (Mai Văn Tạo) trang 89 TV5T1 ­ Mở rộng vốn từ thiên nhiên (Bài bầu trời mùa thu  của Xu­ khôm­lin – xki) trang 87 TV5T1 ............................................………… Ngoài những bài học trong chương trình, tôi còn giới thiệu cho học sinh  những bài tập đọc ở chương trình lớp 5cũ: ­ Núi rừng Trường Sơn sau cơn mưa (trích tập đọc lớp 5 – 1980 trang 46   TV5T1) ­Thác Y­a­li (Thiên Lương) trang 50 TV5T1 ­ Sau trận mưa rào (Vích­ to Huy­gô) trang 73 TV5T1 ­ Đêm trăng đẹp (Thạch Lam) trang 30 TV5T1 ­ Buổi sáng mùa hè trong thung lũng (Hoàng Hữu Bội) trang 42 TV5T2. ……........................................ + Văn tả người có các bài tham khảo: ­ Một chuyên gia máy xúc (Hồng Thủy) trang 45 TV5T1 ­ Những người bạn tốt (Lưu Anh) trang 65 TV5T1 ­ Hạng A­cháng (Ma Văn Kháng) trang 119 TV5T1
  12. ­ Bà tôi (Mác­xim Go­ro­ki) trang 122 TV5T1                             ........................................................................... ­  Làm văn là nơi thử  thách cho học sinh các kĩ  năng  Tiếng Việt, vốn  sống, vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học, học sinh phải thể hiện cảm xúc,  suy nghĩ bằng ngôn ngữ  nói và viết từ  đó rèn cách nghĩ, cách cảm nhân thật  sáng tạo, luyện cách diễn tả  chính xác, sinh động, hồn nhiên với những nét  riêng độc đáo. Ví dụ:  Tả  cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây  (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy) * Mở  bài (học sinh trung bình, yếu): Cạnh nhà em, vào buổi sáng cánh  đồng lúa chín thật đẹp * Mở  bài (học sinh khá, giỏi): Quê em là một vùng nông thôn, khung   cảnh đơn sơ mộc mạc và cũng đẹp rất bình dị. Nhưng đẹp nhất có lẽ là được  ngắm cảnh cánh đồng lúa chín vàng  mênh mông, im lìm như  còn tận hưởng  giấc ngủ thanh bình buổi sớm mai. ­ Giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kĩ  năng tìm hiểu, phân tích đề,  quan sát, tìm ý, kĩ năng diễn đạt, viết đoạn và hoàn thiện bài viết. ­ Trong phân môn Tập làm văn, khâu đánh giá chữa lỗi rất quan trọng.  Giáo viên cần chấm, chữa bài cho học sinh thật kĩ để giúp học sinh thấy được  những thiếu sót của mình, tự    rút kinh nghiệm sữa chữa, nên tạo không khí  thoải mái, tranh luận khi sửa bài. Ví dụ: Khi chữa bài giáo viên kẻ  sẵn bảng thành 2 phần để  ghi những  từ, ý, hình  ảnh còn nhầm lẫn, phần còn lại cho học sinh sửa sai theo ý của   mình chẳng hạn: ­Thân hình cô thong thả à sửa: thân hình cô thon thả. ­Mắt cô tròn xoe như 2 viên bi  à sửa:  mắt cô ánh lên những tia  sáng ấm áp,tươi vui (hoặc đôi  mắt đen lay láy của cô luôn ấm  áp và sự trìu mến, vui tươi..)          Giáo viên để   cho học sinh giải thích rõ tại sao sai để  rút kinh nghiệm.  chẳng hạn: từ  thong thả dùng để  chỉ dáng đi. Còn thon thả nói về  vóc dáng;  cụm từ tròn xoe như 2 viên bi chỉ dùng để tả đôi mắt em bé.
  13. {13} Nói tóm lại: phân môn Tập đọc củng cố, nâng cao kĩ năng đọc cho học  sinh, mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học  sinh…điều này sẽ được các em thể hiện qua bài viết trong phân môn Chính tả,   Tập làm văn, Luyện từ và câu (viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu). Đây cũng là  cơ sở bồi dưỡng văn cảm thụ cho học sinh khá, giỏi. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp các em nhanh hiểu và cảm thụ nội dung bài  tập đọc. Biết viết đúng yêu cầu trong phân môn chính tả; biết phân tích ngữ  liệu một cách logic trong phân môn luyện từ  và câu; biết suy luận từ  những   nhận xét để rút ra nội dung cần ghi nhớ trong bài học. Việc học tích hợp các phân môn tập đọc; chính tả; luyện từ và câu; tập  làm văn sẽ giúp cho học sinh học tốt các môn học khác, đồng thời làm cho  ngôn ngữ Tiếng Việt của học sinh ngày càng phong phú và trong sáng hơn. Trong   những   năm   liền,   tôi   đã   vận   dụng   phương   pháp   này   vào   trong  giảng dạy, có nhiều học sinh tiến bộ rõ rệt. Cụ thể như sau: * Năm học 2018– 2019 tổng số học sinh của lớp là 28 ­ Hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học trở  lên: 28/28 (tỉ  lệ  100%) ­ Hoàn thành tốt các yêu cầu của nội dung môn học: 16/28 (tỉ lệ 92,85 %) * Năm học 2019 – 2020 tổng số học sinh của lớp là 33 * Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm:  ­ Hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học: 10/33 (tỉ lệ 30,3 %)          ­ Hoàn thành tốt các yêu cầu của nội dung môn học: 22/33 (tỉ lệ 66,7%)         ­ Chưa hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học: 01/33 (tỉ lệ 3,03%) * Kết quả khảo sát chất lượng Cuối Học kì 1:  ­ Hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học: 16/33 (tỉ lệ 48,5 %)          ­ Hoàn thành tốt các yêu cầu của nội dung môn học: 17/33 (tỉ lệ 51,5%)         ­ Chưa hoàn thành các yêu cầu của nội dung môn học: 0/33 (tỉ lệ 0%)  3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài  Muốn việc giảng dạy của thầy và việc học của trò được nâng cao, việc  nghiên cứu tìm tòi là nhiệm vụ  vô cùng quan trọng. Thông qua giảng dạy và  
  14. hướng dẫn học sinh khi dạy tích hợp các phân môn tập đọc, chính tả, luyện từ  và câu, tập làm văn tôi đã rút ra bài học cho bản thân mình là: ­ Giáo viên phải tâm huyết với nghề: Yêu nghề  mến trẻ, luôn học hỏi,  trao đổi kinh nghiệm cho bản thân thông qua trao đổi với đồng nghiệp. Luôn  tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo, áp dụng những phương pháp dạy học có chất  lượng hiệu quả. Giáo viên thường xuyên học hỏi, trau dồi kiến thức, đọc sách  báo để ngày càng làm phong phú thêm vốn kiến thức của mình. Mỗi giáo viên  thực sự có năng lực và tâm huyết cho mọi người học. ­ Giáo viên nắm chắc được yêu cầu phân môn đang dạy theo từng bài  học, theo từng nội dung. Giáo viên phải vững về kiến thức, kĩ năng thực hành  tiếng Việt, có vốn sống, vốn cảm xúc phong phú. ­ Chuẩn bị  chu đáo, hướng dẫn học sinh suy nghĩ, quan sát nêu được  những ý kiến sát thực với bài học. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải  khơi dậy niềm say mê hứng thú của học sinh đối với  môn học Tiếng Việt. ­ Giáo viên chủ  động, sáng tạo, khéo léo trong việc áp dụng phương  pháp dạy học theo từng nội dung, động viên kịp thời những phát hiện sáng tạo  của học sinh ­ GV­ HS có mối quan hệ  gần gũi nhưng nghiêm túc, tạo tâm lý thoải  mái, cử chỉ thân thiện trong quá trình dạy học. ­ Tiến hành luyện tập thường xuyên dưới nhiều hình thức. Phân chia đối  tượng học sinh, có kế hoạch bồi dưỡng và phát huy tính tích cực của HS. ­ Gắn chặt kiến thức học vào thực tế cuộc sống, tạo cho các em gần gũi  thiên nhiên để có vốn sống phong phú. Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với   học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc làm, có tâm hồn trong sáng lành mạnh là  tấm gương sáng để học sinh noi theo.  Luôn phối hợp với gia đình, nhà trường để  tạo điều kiện tốt nhất cho  các em tham gia học tập. Qua nhiều năm giảng dạy lớp 5 tôi đã rút ra một số  kinh nghiệm trên.  Tôi thấy sau khi áp dụng các giải pháp trên, đa số  học sinh biết vận dụng  những kiến thức đã học để  trả  lời đúng yêu cầu câu hỏi; làm bài viết đúng  trọng tâm; tiết học diễn ra trong không khí sinh động, học sinh tiếp thu kiến  thức một cách dễ dàng trong tâm trạng thoải mái. Thông qua bài học tôi đã bồi  dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ  gìn sự trong sáng giàu 
  15. {15} đẹp của tiếng Việt; góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam. 3.2. Kiến nghị, đề xuất   Nhà trường cần tổ  chức các câu lạc bộ, đặc biệt là câu lạc bộ  năng  khiếu Tiếng Việt cho học sinh từ khối 2 đến khối 5 để năng cao chất lượng  học môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học. Tuyên truyền, động viên phụ  huynh , giáo dục học sinh thấy được tầm  quan trọng môn Tiếng Việt trong nhà trường, không xem nhẹ môn Tiếng Việt. Trên đây là một số  kết quả    mà bản thân tôi đã  đạt   được, tôi muốn  được trình bày với bạn bè đồng nghiệp. Song ý kiến của tôi  cũng không tránh  khỏi  những thiếu sót nhất định. Tôi mong được sự  góp ý  của bạn bè, đồng  nghiệp để sáng kiến của tôi  được bổ sung đầy đủ  hơn.  Tôi xin trân trọng cảm ơn./.                                                           
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0