intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Sáu giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Vạn Thọ 1

Chia sẻ: Canhvatxanhbaola | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

16
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích tổng quát của đề tài là tìm các giải pháp thật chi tiết và phù hợp để bồi dưỡng cho học sinh tham gia Olympic môn Toán nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và góp phần đạt hiệu quả tham gia Olympic môn học nói riêng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về mức độ nắm và vận dụng kiến thức của từng học sinh là vô cùng quan trọng, từ đó đề ra các biện pháp, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh thì hiệu quả giảng dạy sẽ cao hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Sáu giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Vạn Thọ 1

  1. A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đất nước ta cũng đang tích cực hội nhập sâu rộng với thế giới, để có thể hội nhập thành công với toàn thế giới thì quan trọng nhất vẫn là phát triển nền giáo dục Việt Nam một cách vững mạnh, toàn diện. Vì vậy, trong tất cả các chính sách phát triển của đất nước, Đảng và nhà nước ta luôn dành sự quan tâm cho thế hệ trẻ, đặc biệt là tầng lớp trẻ em - “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”- Đây là câu khẩu hiệu mà mỗi thầy cô giáo đều đã thấm nhuần trong quá trình giáo dục học sinh một cách toàn diện ở tất cả các mặt : đức, trí, thể, mĩ. Riêng về mặt học tập, đặc biệt là môn Toán thì càng cần phải quan tâm, chú trọng nhiều. Môn Toán ở tiểu học bước đầu hình thành khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng của học sinh. Môn Toán là chìa khóa mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết cho người lao động thời hiện đại, nó góp phần giáo dục con người phát triển toàn diện hơn. Nếu học sinh yếu toán cũng là đồng nghĩa với việc các em phát triển chưa trọn vẹn, ảnh hưởng đến tương lai của chính bản thân các em và cả xã hội. Ngay từ cấp tiểu học chúng ta cần tạo nền tảng vững chắc cho các em, bằng cách là bồi dưỡng tư duy cho các em một cách có hệ thống và kế hoạch ngay từ đầu năm học. Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 là một trường thuộc vùng nông thôn, dân cư thưa thớt, kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao nên đa số phụ huynh học sinh của trường lơ là, thiếu quan tâm đến việc học tập của con em mình. Từ đó chất lượng học tập của học sinh thường ở mức độ thấp để có được đội ngũ học sinh tham gia olympic môn học quả thật rất hiếm. và kết quả là qua nhiều năm tham gia Thi học sinh giỏi hoặc olympic môn học chưa có học sinh đạt giải dù các thầy cô giáo cũng rất cố gắng để bồi dưỡng. Olympic môn học là sân chơi trí tuệ, bổ ích và là cơ hội giao lưu học hỏi cho học sinh lớp 5 của các trường tiểu học trong huyện, mỗi năm tổ chức một lần. Cuộc thi tạo hứng thú cho các em trong học tập, rèn luyện, bồi dưỡng lòng tự tin và có hướng phấn đấu trong tương lai. Từ những vấn đề nêu trên, tôi nghĩ rằng phải đầu tư nhiều hơn cho việc bồi dưỡng cho các em về biện pháp học tập môn Toán, giúp các em có đủ khả năng hiểu được vấn đề một cách chắc chắn, biết phân tích đề bài một cách rõ ràng chính xác, giải quyết vấn đề hợp lí để đi đến việc giải bài toán đạt kết quả như mong muốn. Được nhà trường phân công bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn Toán 2 năm học qua, tôi nhận thấy các em chưa thật sự nắm được vấn đề một cách vững chắc, thiếu sáng tạo, linh hoạt trong một số tình huống nhất định, chỉ biết vận dụng theo lối mòn sẵn có, cho nên sẽ khó đạt được thành tích tốt trong cuộc thi. Vì vậy phải có kế hoạch và các giải pháp thật cụ thể và chi tiết ngay từ đầu năm học. Đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài: “Sáu giải pháp nâng cao hiệu -1-
  2. quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Vạn Thọ 1”. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Mục đích tổng quát của đề tài là tìm các giải pháp thật chi tiết và phù hợp để bồi dưỡng cho học sinh tham gia Olympic môn Toán nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và góp phần đạt hiệu quả tham gia Olympic môn học nói riêng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về mức độ nắm và vận dụng kiến thức của từng học sinh là vô cùng quan trọng, từ đó đề ra các biện pháp, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh thì hiệu quả giảng dạy sẽ cao hơn. Mục đích cụ thể là: - Giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức toán đã học, giúp học sinh biết cách phát hiện và giải quyết vấn đề theo con đường nhanh nhất, hợp lý nhất. - Rèn luyện cho học sinh kỹ năng tính toán, kỹ năng giải toán, đặc biệt là kỹ năng vận dụng một cách linh hoạt các kiến thức toán học đã học để giải quyết các vấn đề có tính phức tạp hơn. - Phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực khái quát hóa, trừu tượng hóa, trí tưởng tượng không gian,.. Phát huy tính linh hoạt, độc lập và sáng tạo, trí tuệ của học sinh; góp phần phát hiện tài năng toán học cho các bậc học tiếp theo. - Tạo niềm tin và động lực giúp học sinh học tốt môn Toán cũng như các môn học khác ở tiều học. Học sinh sẽ thêm yêu thích môn Toán, góp phần giáo dục những đức tính và phẩm chất cần thiết của người lao động mới, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu thực tiễn của học sinh lớp 5A, Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 khi tham gia Olympic môn Toán cấp huyện 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Sáu giải pháp nâng cao chất lượng tham gia Olympic môn Toán cấp huyện. 4. Giả thuyết nghiên cứu Sử dụng sáu giải pháp (được nhắc đến trong đề tài) này sẽ nâng cao hiệu quả tham gia Olympic môn Toán cấp huyện cho học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Vạn Thọ 1. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng tham gia Olympic môn học cấp huyện. 5.2. Nghiên cứu thực tiễn – thực trạng của học sinh lớp 5A và Trường tiểu học Vạn Thọ 1 khi tham gia Olympic môn học cấp huyện, chú ý những nguyên nhân dẫn đến học sinh tham gia chưa hiệu quả trước đó. -2-
  3. 5.3. Đề xuất những giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng tham gia Olympic môn học cấp huyện, qua đó tổng kết kinh nghiệm. 6. Phạm vi và giới hạn đề tài - Lĩnh vực nghiên cứu: Môn Toán - Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 5A tham gia Olympic môn Toán cấp huyện Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 - Thời gian nghiên cứu: + Thời gian bắt đầu: 11/2018 + Thời gian kết thúc: 9/2019 7. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp quan sát - Mục đích: Giáo viên quan sát học sinh trong các giờ học Toán để nắm bắt được các mảng kiến thức học sinh còn yêú, thái độ của học sinh khi học. - Cách thức: Giáo viên quan sát, theo dõi, nhận xét, đánh giá về cách trình bày, cách trả lời câu hỏi, cách làm việc nhóm... của học sinh trong quá trình học để nhận biết sự thay đổi về thái độ, hứng thú học tập của học sinh trước và sau thời gian áp dụng biện pháp của đề tài vào tiết dạy. b. Phương pháp vấn đáp - Mục đích: Giáo viên nắm được các chuẩn kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã đạt và chưa đạt; Hiểu về tâm tư, hoàn cảnh và sở thích của các em. - Cách thức: Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, tìm và trả lời về những điều học sinh nắm được và chưa nắm được để từ đó giáo viên có hệ thống các nội dung cần bồi dưỡng cho học sinh. Hoặc hiểu về tính cách, sở thích của học sinh hơn. c. Phương pháp điều tra - Mục đích: Giáo viên nắm được hoàn cảnh gia đình, sở thích của học sinh. - Cách thức: Giáo viên gặp gỡ phụ huynh trao đổi, hỏi thăm tình hình gia đình, thái độ của học sinh khi học ở nhà; trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp trước về tình hình học tập và thái độ của học sinh. d. Phương pháp đọc tài liệu - Mục đích: Giáo viên nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, các giải pháp bồi dưỡng học sinh đã thực hiện có hiệu quả và chưa hiệu quả, hệ thống hóa các mảng kiến thức, kĩ năng cần rèn cho học sinh. - Cách thức: Giáo viên tham khảo các tài liệu về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học, các đề tài nghiên cứu có liên quan trước đó, các dạng bài tập toán cần thực hiện ... -3-
  4. d. Nghiên cứu sản phẩm: - Mục đích: thực nghiệm và kiểm nghiệm kết quả để khẳng định tính hiệu quả của giải pháp. - Cách thức: Ghi chép tình hình thực nghiệm, kiểm nghiệm các kết quả, hệ thống các giải pháp thành công. B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu 1. Cơ sở khoa học “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. (Văn kiện Đại hội Đảng lần IX ) Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đaị hóa đất nước Đảng và nhà nước ta không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Phát triển giáo dục là nền tảng, là quốc sách hàng đầu tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội. Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức cho học sinh là một trong những mục tiêu giáo dục và đào tạo của Bộ giáo dục. Trong đó việc bồi dường, đào tạo học sinh giỏi là vấn đề hết sức cần thiết, bởi vì chỉ có những nhân tài mới nhanh chóng tiếp thu thành tựu khoa học mới của nhân loại, phát minh ra sáng kiến để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ cao cả của toàn xã hội, song trách nhiệm trực tiếp là của những người làm công tác giáo dục. Bởi vậy trong tài liệu tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương II, Bộ giáo dục và đào tạo chỉ rõ “…trường tiểu học và mỗi giáo viên tiểu học đều có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi”. Bậc tiểu học là bậc học nền tảng, bồi dưỡng học sinh hoàn thành tốt ở tiểu học là nền móng cho chiến lược đào tạo người tài của đất nước. Để có được các thành quả về giáo dục học sinh nói chung hay những thành tích cao của học sinh hoàn thành tốt nói riêng, ngay từ cấp tiểu học các nhà trường phải có sự quan tâm, chú ý từ các buổi học hằng ngày của các khối lớp và ở tất cả các môn học trong nhà trường. Việc giáo dục học sinh hằng ngày trên lớp có chất lượng chính là tạo một nền móng vững chắc cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài. Mặt khác nội dung, phương pháp giáo dục đại trà và bồi dưỡng học sinh hoàn thành tốt cũng như hình thức tổ chức phải phong phú và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh mới đem lại hiệu quả trong giáo dục. Sự hình thành và phát triển năng khiếu, tài năng của con người chịu sự tác động của các yếu tố di truyền, môi trường tự nhiên và xã hội, vĩ mô cũng như vi -4-
  5. mô của gia đình, nhà trường, xã hội của dân tộc, quốc gia và thời đại trong suốt quá trình sinh thành phát triển của cả đời người nói chung của những con người có năng khiếu, tài năng nói riêng. Con người nói chung và người tài năng nói riêng hình thành phát triển trưởng thành, cống hiến cho xã hội trải qua 3 giai đoạn chính. Giai đoạn 1: Giai đoạn bắt đầu từ lúc bào thai hình thành, phát triển và kết thúc lúc đứa trẻ chào đời. Đây là giai đoạn hình thành các tổ chức cấu trúc tế bào, gắn bó chặt chẽ với hình thành và phát triển của thai nhi, cũng như việc nảy sinh (hoặc thui chột các mầm mống ban đầu của tài năng ở mỗi con người). Trong giai đoạn này vai trò di truyền, vật chất tinh thần, những hiểu biết về điều kiện sống làm việc của người bố và nhất là của người mẹ… có ảnh hưởng quyết định tới việc phát triển thai nhi đặc biệt là phát triển trí tuệ và tình cảm sau này của đứa trẻ. Giai đoạn 2: Giai đoạn bắt đầu lúc đứa trẻ ra đời cho đến khi trưởng thành. Đây chính là giai đoạn cơ bản nhất để năng khiếu, tài năng hình thành, phát triển trong cuộc đời của mỗi con người. Trong giai đoạn này, mầm mống ban đầu do di truyền để lại và do tác động của môi trường sẽ được bộc lộ, phát triển ở độ tuổi học phổ thông mầm mống năng khiếu định hình, trẻ em trở thành học sinh năng khiếu. Trong giai đoạn này vai trò của môi trường tự nhiên và nhất là vai trò của môi trường xã hội (vai trò của giáo dục ở gia đình, ở trường học - đặc biệt là vai trò của thầy giáo giỏi), nơi đứa trẻ ăn, ở, sinh sống, học tập, giao tiếp… hàng ngày có tác động cực kỳ quan trọng đến sự phát triển hoặc làm thui chột năng khiếu của trẻ. Giai đoạn 3: Giai đoạn mà môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn tới việc cống hiến tài năng của mỗi con người. Đây là giai đoạn mà tài năng đã được xác lập, được thể hiện, được sử dụng trong thực tiễn mang lại các kết quả, các cống hiến cụ thể của xã hội. Trong giai đoạn này vai trò của môi trường vĩ mô như: đường lối, chủ trương cơ chế, chế độ, chính sách, cách tổ chức, quản lý, chỉ đạo… các mặt kinh tế - xã hội của nhà nước, của quốc gia và có khi của cả một trào lưu một xu thế phát triển của thời đại… có tác động và có ảnh hưởng lớn tới việc phát hiện các tài năng cũng như tới việc phát triển sức sáng tạo và sự cống hiến tài năng của céng đồng cũng như của mỗi con người. Ba giai đoạn trên đây, kế tiếp tạo nên điều kiện cho nhau phát triển. Vì vậy trong mỗi giai đoạn cần có chủ trương, phương hướng, biện pháp và tác động đúng, kịp thời để năng lực của từng người phát triển nảy nở, đặc biệt trong giai đoạn hai, môi trường nhà trường có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và bồi dưỡng năng khiếu. Giai đoạn thứ hai phù hợp với học sinh tiểu học nếu như gia đình, nhà trường và xã hội biết chăm lo học sinh ngay ở giai đoạn này thì sẽ -5-
  6. có tác dụng kích thích sự phát triển của các tài năng, tạo tiền đề cho các tài năng, làm cơ sở cho các bậc học cao hơn. Như vậy sự hình thành và phát triển năng khiếu, tài năng của con người chịu sự tác động của các yếu tố di truyền (Tư chất và năng khiếu) môi trường tự nhiên và xã hội, vĩ mô cũng như vi mô của gia đình, nhà trường, xã hội của dân tộc, quốc gia và thời đại trong suốt quá trình sinh thành phát triển của cả đời người nói chung của những con người có năng khiếu, tài năng nói riêng. Dựa trên nền tảng đó chúng ta đề cập tới vấn đề chiến lược của Đảng và Nhà nước ta đối với việc bồi dưỡng, đào tạo nhân tài cho đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá nói chung và công việc của người quản lý cïng nh÷ng ng­êi trùc tiÕp lµm c«ng t¸c gi¶ng d¹y nói riêng trên lĩnh vực phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh năng khiếu, tài năng cho quê hương đất nước là vô cùng quan trọng. Trong chương trình các môn học ở bậc tiểu học, bên cạnh môn Tiếng Việt thì môn Toán chiếm số giờ học rất lớn. Việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán đặc biệt là phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi toán là vô cùng quan trọng và thiết thực. 2. Cơ sở thực tiễn Việc tổ chức thi Olympic môn học nhằm động viên khích lệ học sinh học tốt và giáo viên dạy giỏi, góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất lượng dạy và học, chất lượng của việc quản lý chỉ đạo của các cấp quản lý giáo dục, đồng thời phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong quá trình dạy học thì việc chú ý tới sự phát triển của từng học sinh luôn là yêu cầu cơ bản. Bởi vậy việc bồi dưỡng học sinh giỏi bao giờ cũng là nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên và cán bộ quản lý. Trường tiểu học là nơi đầu tiên học sinh tham gia vào viêc học với tư cách là hoạt động chủ đạo. Nhờ có các nội dung giáo dục toàn diện mà các em có điều kiện bộc lộ năng khiếu tài năng. Nếu cha mẹ, bạn bè và thầy cô cảm nhận, phát hiện, nâng đỡ bồi dưỡng mầm mống năng khiếu kích thích niềm say mê học tâp thì biểu hiện của năng khiếu sẽ ngày càng rõ hơn. Năng khiếu được bồi dưỡng sớm sẽ định hướng phát triển và dần định hình trở thành học sinh năng khiếu, ngược lại năng khiếu của các em không được phát hiện hay không được quan tâm bồi dưỡng thì năng khiếu của các em mất dần, mầm mống năng khiếu tuy có nhưng sẽ bị mai một, thui chột đi. Tổ chức bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn Toán ở tiểu học là phát huy hết khả năng phát triển tiềm tàng của trẻ, là tạo nguồn học sinh giỏi cho -6-
  7. các cấp học tiếp theo, thực hiện chiến lược “bồi dưỡng nhân tài cho đất nước”. Mặt khác tổ chức bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn học là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá sự phát triển của một nhà trường. Mỗi học sinh giỏi không những là niềm tự hào của cha mẹ, thầy cô mà còn là niềm tự hào của cả cộng đồng. Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu I. Đặc điểm tình hình Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 là một trường thuộc vùng nông thôn, dân cư thưa thớt, kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao nên đa số phụ huynh học sinh của trường lơ là, thiếu quan tâm đến việc học tập của con em mình. Từ đó chất lượng học tập của học sinh thường ở mức độ thấp để có được đội ngũ học sinh tham gia Olympic môn học quả thật rất hiếm. Và kết quả là qua nhiều năm tham gia giao lưu học sinh giỏi hoặc Olympic môn học cấp huyện chưa có học sinh đạt giải dù các thầy cô giáo cũng rất cố gắng để bồi dưỡng. Cụ thể việc bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn học của tôi gặp những thuận lợi và khó khăn như sau: a)Thuận lợi: + Được sự quan tâm chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường. + Kế hoạch bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn học được thực hiện ngay đâù năm học. + Một số học sinh có tư duy học Toán tốt. + Việc bồi dưỡng học sinh Giỏi (Học sinh xếp loại Hoàn thành tốt môn học) không chỉ thực hiện ở lớp 5 mà thực hiện lồng ghép trong các tiết học ở tất cả các khối lớp. a) Khó khăn: + Sự quan tâm của phụ huynh học sinh còn hạn chế. + Về phía học sinh theo yêu cầu thì mỗi học sinh tham gia Olympic môn học phải có năng lực, phẩm chất xếp loại Tốt, môn học và hoạt động giáo dục xếp loại Hoàn thành tốt mà thông thường thì học sinh hay giỏi không đều các môn, có em giỏi môn Toán thì môn Tiếng Việt hoặc Tiếng Anh còn hạn chế..với lại số lượng học sinh khối 5 quá ít (35 em) nên để tìm được 6 học sinh tham gia Olympic môn Toán không hề dễ. + Mặt khác, sự thiếu hụt kiến thức từ những năm trước do các em mau quên chưa bổ khuyết kịp thời tạo ra lổ hổng kiến thức khiến các em không theo kịp chương trình nâng cao, sinh ra chán nản và ngại học. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu -7-
  8. Năm học 2018-2019, Trường Tiểu học vạn Thọ 1 có 1 lớp 5 và tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn học với tổng số học sinh là 35 em. Sau khi khai giảng năm học mới, tôi tiến hành ngay vào việc tìm hiểu tình hình học tập của lớp, qua tìm hiểu tôi nhận thấy một số vấn đề sau: - Gia đình các học sinh đa phần là nông dân, kinh tế gia đình còn khó khăn nên ít quan tâm đến việc học tập của con em. - Nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức đã học ở các lớp dưới và tiếp thu kiến thức mới còn chậm, một số học sinh khác tiếp thu kiến thức tốt nhưng chưa linh hoạt, sáng tạo trong giải toán, chưa vận dụng được kiến thức đã học vào việc giải các bài tập có liên quan. - Các năm qua, khi bồi dưỡng học sinh tham gia olympic môn Toán, giáo viên chỉ dựa vào sách giáo khoa, sách tham khảo, chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể và chi tiết. Với thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Toán vào tuần 8 của chương trình để nắm chắc hơn trình độ tiếp thu và nắm kiến thức của từng em. KIỂM TRA Môn Toán lớp 5 – Ngày thi : 30 / 10 / 2018 Thời gian làm bài : 40 phút (Không kể thời gian giao đề) A. Trắc nghiệm: Hãy khoanh tròn vào chữ cái đặt trước kết quả đúng của các câu sau : Câu 1: Số bé nhất trong các số 0,6; 0,32; 0,047; 0,205 là: A. 0,32 B. 0,6 C. 0,205 D. 0,047 Câu 2: Số tự nhiên nào sau đây không nằm giữa 1,75 và 4,05 ? A. 3 B. 5 C. 2 D. 4 Câu 3: Dãy số thập phân nào được viết theo thứ tự từ bé đến lớn : A. 2,9; 4,03; 5,1 B. 4,03; 5,1; 2,9 C. 5,1; 4,03; 2,9 D. 5,1; 2,9; 4,03 2 Câu 4: của 3 tấn là: 5 A. 12kg B. 120 kg C. 1200 kg D. 12000 kg Câu 5: Số thích hợp để viết vào chỗ chấm của 5km 89m = …......m. là : A. 5890 B. 5098 C. 5089 D. 5809 Câu 6: Một căn phòng hình chữ nhật có chiều dài là 6m, chiều rộng bằng -8-
  9. 2 chiều dài Diện tích căn phòng đó là: 3 A .24 cm2 B . 24 m2 C . 24 cm D . 24 m Câu 7 : Một hình vuông có chu vi bằng 28 dm, cạnh hình vuông là: A. 7 dm B. 10 dm C. 7 dm 2 D. 4 dm B. Tự luận: Câu 8: Tính : 5 2 2 8 3 5 2 a)  b) 4  c)  d) : 7 3 5 9 7 6 5 Câu 9 : Tìm x 11 2 2 x- = : 5 5 3 Câu 10 : Hiện nay mẹ hơn con 30 tuổi, biết rằng cách đây 4 năm tuổi con bằng 1 tuổi mẹ. Tính số tuổi hiện nay của mỗi người. 6 Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh lớp 5A là 35 em. ĐIỂM MÔN TOÁN Điểm 10 Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5 Điểm
  10. ưu thế hơn để khi bồi dưỡng học sinh sẽ phát huy hết được khả năng vốn có của mình tránh được trường hợp học sinh có năng khiếu học Toán lại được chọn vào đội tuyển thi môn Tiếng Việt và ngược lại. Ngoài việc khảo sát tôi còn theo dõi các biểu hiện của học sinh ở từng môn học. Khi thực hiện nhiệm vụ học tập, những học sinh có năng khiếu học Toán sẽ thường có một số biểu hiện sau: - Có óc quan sát tinh tế, nhanh chóng phát hiện vấn đề, phát hiện ra những điểm “nút” làm cho việc giải quyết vấn đề phát triển theo chiều hướng hợp lý hơn, độc đáo hơn. Khi giáo viên đưa ra moọt bài toán hoặc một tình huống toán học, đối với học sinh giỏi toán, các em sẽ quan sát và nhanh chóng phát hiện ra chỗ “mấu chốt” hay “thắt nút” của bài toán; đồng thời đề xuất cách “mở nút” 7 9 hợp lý nhất. Chẳng hạn: So sánh hai phân số và . Nếu học sinh bình 8 8 thường các em sẽ nghĩ ngay tới việc quy đồng nhưng với học sinh giỏi toán, các em sẽ dựa vào điểm “nút” của bài toán là phần bù của hai phân số này so với 1 1 1 1 1 7 9 là và . Do > nên < . 8 9 8 9 8 8 - Thích tìm tòi khám phá bài toán theo nhiều cách khác nhau. - Có khả năng xác lập sự phụ thuộc của các đối tượng theo hai hướng xuôi và ngược. Ví dụ 1: Tính diện tích mảnh vườn hình thang biết đáy lớn là 26m, đáy bé là 18m và chiều cao là 15m Học sinh dễ dàng thực hiện bài toán này bằng công thức đã học. Ví dụ 2: Một đám đất hình thang có diện tích 330m2. Tính đáy bé của hình thang, biết đáy bé kém đáy lớn là 8m và chiều cao là 15 m Học sinh giỏi toán sẽ nhanh chóng suy luận theo hướng ngược lại: Trước tiên tìm tổng của hai đáy sau đó lấy tổng trừ 8 rồi chia 2 thì sẽ tìm được độ dài của đáy bé. - Có khả năng chuyển đổi nhanh chóng từ thao tác tư duy này sang thao tác tư duy khác: Để hình thành một kiến thức toán học nào đó, ở tiểu học, con đường mà giáo viên thường áp dụng là con đường “quy nạp”, tức là hướng dẫn học sinh đi từ những trường hợp cụ thể để rút ra kết luận tổng quát. Với những học sinh giỏi toán, các em sẽ nhanh chóng phát hiện ra dấu hiện đặc trưng để từ đó có thể xét trường hợp tương tự, trường hợp đặc biệt, cụ thể để dự đoán cái trừu tượng, khái quát. - Có khả năng thay đổi phương thức hành động để giải quyết vấn đề một cách phù hợp với những thay đổi của các điều kiện đặt ra: Biểu hiện này thể hiện khả năng phản ứng nhanh nhạy của học sinh trước những thay đổi điều kiện mà giáo viên đưa ra. Chẳng hạn, sau khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán nào đó, giáo viên đưa ra bài toán mới đã thay đổi điều kiện. Một học sinh có biểu -10-
  11. hiện giỏi toán thường nhanh chóng phát hiện ra thay đổi đó và biết rằng cách giải cũ không còn phù hợp nữa, cần phải tìm cách giải mới. Ví dụ: Sau khi nắm được công thức tính diện tích hình chữ nhật, nếu cho trước chiều dài và chiều rộng thì học sinh thì học sinh sẽ nhanh chóng tìm được diện tích. Bây giờ giáo viên đưa ra bài toán mới: “Cho hình chữ nhật ABCD có chiều rộng bằng 15cm, chiều dài gấp đôi chiêù rộng. Tính diện tích HCN.” Với học sinh bình thường khi lần đầu tiên gặp bài toán này các em thường tỏ ra lúng túng, nhưng với học sinh giỏi toán các em sẽ nhanh chóng phát hiện ra vấn đề để giải bài toán này trước tiên phải tính chiều dài của hình chữ nhật, sau đó áp dụng quy tắc đã biết. - Có thái độ hoài nghi khoa học, có óc tò mò, thích khám phá, không thõa mãn dừng lại ở việc làm theo mẫu có sẵn. Đứng trước một vấn đề thường đặt các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào?... Sau khảo sát và tìm hiểu, tôi quyết định chọn 6 học sinh sau vào đội tuyển tham gia Olympic môn Toán: DANH SÁCH HỌC SINH THAM GIA OLYMPIC TOÁN CẤP HUYỆN STT Họ và tên Điểm khảo sát lần đầu Ghi chú 1 Nguyễn Cao Minh 9 2 Lê Thanh Trí 10 3 Võ Tấn Huy 8 4 Huỳnh Trọng Hiếu 9 5 Bùi Minh Hải 10 6 Huỳnh Minh Quốc 7 2. Gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh Phụ huynh học sinh là một mắc xích quan trọng trong quá trình học tập nói chung và bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn Toán nói riêng. Bởi một người thầy giỏi, tâm huyết, lựa chọn phương pháp bồi dưỡng đúng, một học sinh có tư duy toán học tốt, ngoan hiền vẫn chưa đủ, phải có một phụ huynh luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện cho con học tập. Vì vậy, tôi đã liên hệ phụ huynh để nắm được hoàn cảnh gia đình, tâm tư nguyện vọng của phụ huynh cũng như thống nhất và hướng dẫn phụ huynh cách hướng dẫn, tạo điều kiện cho học sinh ôn luyện – học tập ở nhà. 3. Biên soạn nội dung bồi dưỡng Để soạn tài liệu bồi dưỡng cho các em, trước tiên tôi nghiên cứu ở Sách giáo khoa (lớp 4 - lớp 5) về các dạng bài tập và cũng tự suy nghĩ về yêu cầu hệ -11-
  12. thống các mảng kiến thức trong từng chương, từng nhóm bài được trình bày qua các dạng bài luyện tập trong Sách giáo khoa. Ngoài ra, bản thân còn tham khảo thêm nhiều tài liệu khác, cũng như những bộ đề thi Học sinh Giỏi hoặc Olympic môn học của những năm trước đây. Với những tài liệu tham khảo này, tôi phải chọn lọc những bài tập thích hợp với các em. Không phải chọn những bài tập quá khó, vì với những bài tập quá khó không giúp ích gì được cho các em, mà trái lại làm cho các em ngán ngại thêm hơn. Tôi soạn tài liệu để bồi dưỡng cho các em, theo phương châm: “Biết đến đâu học đến đấy. Học đến đâu hiểu đến đấy”, không thể bắt ép các em dồn vào đầu óc mình những điều mà mình không hiểu được gì cả. Thà rằng chậm, từng bước tạo cho các em có được những hành trang kiến thức thật sự của mình và biết được trong gói hành trang đó có được những gì, nắm được tác dụng của từng loại hành trang có được. Tôi nghĩ như thế những kiến thức các em có được sẽ luôn ở bên mình trong suốt cuộc hành trình vươn tới tương lai. 4. Ôn tập những kiến thức cơ bản cho học sinh Để bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho các em, điều trước tiên các em phải nắm được những kiến thức cơ bản đã học. Thật ra, có một số em vào học bồi dưỡng mà kiến thức cơ bản, thậm chí tôi cho là sơ đẳng các em còn không nhớ được. Ví dụ như: Tìm thành phần chưa biết của phép tính (tìm X), nêu quy tắc tìm số Trung bình cộng của nhiều số,… các em cũng không phát biểu được. Có em hiểu được vấn đề nhưng nói chẳng thành câu. Cho nên, trong thời gian các em học ở những tuần đầu, tôi cố gắng tái hiện lại cho các em những điều gì đã học được ở lớp 4. Có thể nói giống như dạy lại những bài luyện tập ở lớp 4, nên ở từng mảng kiến thức tôi vừa ôn tập lại cho các em, đến khi các em nhớ lại chính xác vấn đề, tôi lại có một số bài tập nâng dần một cách nhẹ nhàng, đủ sức để các em hiểu được vấn dề một cách mạch lạc, vững chắc. Ví dụ: Ôn tập về phép nhân. Các em có hiểu phép nhân chính là phép cộng các số hạng bằng nhau không? Trên cơ sở này, tôi cho các em thực hiện phép so sánh giá trị 3 biểu thức như: (6 +6+6+6+6) + (6+6+6) + (6+6) 6  5+63+6  2 6  (5 + 3 + 2) ... Từ đó, các em sẽ hiểu phép cộng các số hạng bằng nhau chính là phép nhân và hướng các em đến dạng bài tập một số nhân với một tổng (hiệu). -12-
  13. Ngoài việc tái hiện cho các em các kiến thức cơ bản đã được học ở lớp 4 và đồng hành cùng các em với chương trình lớp 5 đang học ở lớp. Tôi mở rộng thêm nhiều dạng bài tập khác để các em được làm quen. Ngoài những dạng toán điển hình, tôi còn tham khảo, nghiên cứu và suy nghĩ thêm nhiều dạng đề bài khác và từng loại bài tôi nâng dần vừa sức với các em. Chẳng hạn, về số tự nhiên, tôi hướng dẫn các em rõ thêm về cấu tạo thập phân của số (phân tích số thành tổng tròn trăm, tròn chục và đơn vị), biết thành lập số bằng những chữ số cho trước (Viết số có 3 chữ số khác nhau với các chữ số: 1; 2; 3 hay Với 3 chữ số: 0; 1; 2, em hãy viết các số có 3 chữ số khác nhau …v…v…). Dạng khác, khi ta thêm vào bên phải một số tự nhiên, 1-2 chữ số nào đó thì số tự nhiên đó nó sẽ thay đổi như thế nào? Hay khi thêm vào bên trái số tự nhiên có 2 chữ số một chữ số nào đó thì số tự nhiên đó biến đổi ra sao?… Để nâng dần mức độ từ dễ đến khó, tôi xin điển hình về dạng bài tính nhanh, như sau: - Đối với biểu thức có nhiều phép cộng, các em chú ý đến tổng các cặp số tròn chục, tròn trăm. 24 + 47 + 76 + 53 = (24 + 76) + (47 + 53) = 100 + 100 = 200 - Biểu thức có cả cộng lẫn trừ, ta hiểu theo ý nghĩa: cộng là thêm vào, trừ là bớt ra, để chúng ta có thể sắp xếp một các hợp lí. 799 + 435 - 299 - 335 = (799 - 299) + (435 - 335) = 500 + 100 = 600 hoặc: 11 – 12 + 13 – 14 + 15 = 11 +(15 -14) + (13 - 12) = 11 + 1 + 1 = 13 ) - Biểu thức toàn là phép nhân, chú ý những cặp số có tích tròn chục, tròn trăm, tròn nghìn. Cung cấp cho các em những cặp số, như: 2  5=10; 50 2=100; 20 5=100; 25 4=100; 125 8=1000. Ngoài ra, các em cần chú ý thêm nếu chỉ cần có 01 thừa số bằng 0 thì tích sẽ bằng 0, …. Ví dụ: 125  4  8  25 = (125  8)  (25  4) = 1000  100 = 100 000 hay nâng thêm mực độ khó hơn, yêu cầu các em biết phân tích một thừa số thành 2 thừa số thích hợp, như bài: 25  50  8 = 25  50  4  2 = (25  4)  ( 50  2) = 100  100 = 10000 - Biểu thức là một phép chia, có số bị chia và số chia phức tạp. Các em lưu ý 2 trường hợp sau: Nếu số bị chia bằng 0 thì thương sẽ bằng 0. (218  2 - 436) : (2345  5  103) = (436 - 436) : (2345  5  103) = 0 : (2345  5  103) = 0 -13-
  14. Nếu số bị chia bằng số chia thì thương bằng 1. (18  4 + 6) : (18  5 – 12) = (18  4 + 6) : (18  4 + 18 -12) = (18  4 + 6) : (18  4 + 6) = 1 - Cách tính tổng dãy số cách đều. ………………………………………… Ngoài ra, tôi còn soạn thêm cho các em một số dạng bài tập ít gặp trong chương trình Sách Giáo Khoa, có nội dung yêu cầu các em biết suy luận một cách logic để giải nhằm phát triển tư duy cho các em trong giải toán. Chẳng hạn như: Tìm 3 số có tích là 3600. Biết tích của số thứ nhất và số thứ hai là 240 và tích của số thứ hai và số thứ ba là 180. Ở bài này các em biết lấy tích chung chia cho tích của số thứ nhất và số thứ hai để tìm được số thứ ba (3600 : 240 = 15), dần các em sẽ tìm được các số còn lại. Bài này có nhiều cách để các em thực hiện. Hoặc: Trong lọ có 4 viên bi màu xanh và 7 viên bi màu đỏ. Hỏi phải lấy ra ít nhất bao nhiêu viên bi để có đủ cả hai màu xanh và đỏ? Bài này hơi khó, ít gặp không yêu cầu các em phải giải bài trọn vẹn chỉ cho các em trong thảo luận nhóm để nêu ra được kết quả và giải thích bằng văn miệng là phải lấy ít nhất là 8 viên bi. Các em có tranh luận để đưa ra đúng kết quả, như thế đã kích thích để phát triển tư duy ở các em … 5. Xây dựng các bước để giải toán Trước khi đi vào giải bài tập toán, tôi tập cho các em có được thói quen thực hiện theo từng bước cụ thể để tìm hiểu đề bài thật chính xác rồi giải bài tập một cách có hiệu quả. Tôi yêu cầu các em phải thực hiện qua các bước như sau: - Đọc kĩ đề bài (2 – 3 lần) - Phân tích đề bài tìm cách giải. - Tóm tắt đề toán (nếu cần). - Giải bài toán - Trình bày bài giải. - Kiểm tra kết quả. Qua quá trình bồi dưỡng, tôi thường theo dõi cách trình bày của các em để có hướng nhắc nhở, giúp các em khắc phục được những hạn chế mà thể hiện bài làm một cách rõ ràng, sạch sẽ, đúng quy định. Đọc kĩ đề bài (2 – 3 lần) -Tìm xem đề bài cho biết gì? Chúng có quan hệ với nhau như thế nào? -14-
  15. - Bài toán hỏi gì? (Quan trọng) Phân tích đề bài tìm cách giải - Dựa vào câu hỏi của bài toán, đi tìm những điều cần thiết để tính. - Căn cứ vào những điều đã cho để tìm cách giải. - Dự đoán bài toán thuộc dạng bài toán gì? Tóm tắt đề toán (nếu cần) Ở bước này, nếu thuộc những dạng toán điển hình (tìm 2 số khi biết: Tổng và Tỉ, Hiệu và Tỉ, Tổng và Hiệu) khi xác định được đầy đủ 2 yếu tố thì bắt buộc các em phải biết tóm tắt đề bài bằng sơ đồ đoạn thẳng. Còn thuộc những dạng khác, tùy từng bài, nếu có thấy cần thiết phải tóm tắt thì tóm tắt hoặc những bài hình học, khi cần thiết phải biết vẽ hình cho rõ ràng chính xác để những dữ kiện có liên quan được thể hiện một cách rõ hơn thì phải vẽ hình. Giải bài toán (nháp) Bước này tập cho các em rèn tính cẩn thận khi làm bài. Sau khi tìm hiểu đề bài và đã thấy được hướng giải bài tập, các em liền ghi suy nghĩ của mình ra nháp, kể cả việc thực hiện các phép tính (cộng, trừ, nhân, chia) và xem lại thật chính xác trước khi ghi vào bài giải chính thức. Trình bày bài giải Việc trình bày bài làm tuy các em đã được các thầy cô chủ nhiệm đã hướng dẫn ở từng năm một trong quá trình học tập nhưng mỗi em có một tính nết riêng. Có em kĩ lưỡng, có em cẩu thả, có em thì quá tiết kiệm giấy,… nên mỗi em có thể có một biểu hiện riêng trong cách trình bày bài làm của mình. Qua quá trình bồi dưỡng, tôi thường theo dõi cách trình bày của các em để có hướng nhắc nhở, giúp các em khắc phục được những hạn chế mà thể hiện bài làm một cách rõ ràng, sạch sẽ, đúng quy định. Tuy là môn Toán nhưng tôi vẫn luôn để ý và sửa chữa các em về những lỗi chính tả thường gặp khi trình bày bài giải một bài toán. Kiểm tra kết quả Tôi nghĩ, đây là một bước rất cần thiết để các em tự kiểm tra và đánh giá lại kết quả bài làm của mình. Với các em bước kiểm tra kết quả bài làm, thường thì các em ít quan tâm đến. Cho nên việc làm bài sai mà không hay, không biết là chuyện thường gặp ở các em. Qua nhận định này, tôi luôn xây dựng cho các em một thói quen không thể thiếu là biết kiểm tra lại kết quả khi đã giải xong bài tập. Giúp các em xác định được bước đầu kết quả bài giải của mình có đúng hay chưa? Khi cần thiết, các em biết kiểm tra lại quá trình giải bài của mình, để chỉnh sửa lại cho chính xác, phù hợp với yêu cầu bài toán. 6. Bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh Việc bồi dưỡng học sinh tham gia Olympic môn Toán thực chất là bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh qua môn Toán. Đó chính là: -15-
  16. - Bồi dưỡng cho học sinh hứng thú và nhu cầu học toán để sao cho học sinh coi việc học toán và làm toán như là niềm vui, là nhu cầu của chính bản thân mình. - Rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào giải toán, nhất là các bài toán có nội dung thực tế. - Rèn luyện cho học sinh cách phân tích các yếu tố của bài toán để tìm ra cách giải độc đáo, sáng tạo đối với bài toán đó. Ví dụ: Trong các số 57 234, 64 620, 5 270, 77 285 số nào chia hết cho cả 2,3,5,9 Đối với bài toán này, học sinh sẽ giải theo cách đơn giản đó là tìm lần lượt những số chia hết cho 2,3,5,9 từ những số vừa tìm được để chọn ra số chia hết cho cả 2,3,5,9. Tuy nhiên với nhóm học sinh này tôi hướng dẫn học sinh tìm mối liên hệ giữa các yếu tố của bài toán để đưa ra cách giải nhanh và gọn hơn: + Dấu hiệu chia hết cho cả 2 và 5 là gì? ( Số chia hết cho cả 2 và 5 có tận cùng là số 0.) + Dấu hiệu chia hết cho cả 3 và 9 là gì? ( Số chia hết cho cả 3 và 9 có tổng các chữ số chia hết cho 9.) Vậy số chia hết cho cả 2,3,5,9 là số có đặc điểm gì? ( có tận cùng là 0 và tổng các chữ số là số chia hết cho 9 đó chính là số 64 620) - Hướng dẫn học sinh phân tích, khai thác nội dung bài toán dưới nhiều khía cạnh khác nhau để từ đó đưa ra nhiều cách giải cho một bài toán. Một trong những biểu hiện thường thấy của tư duy sáng tạo ở học sinh đó là có khả năng tìm tòi, khám phá và tìm được nhiều cách giải khác nhau đối vơí bài toán đã cho. Mỗi bài toán có thể có nhiều hướng giải quyết, vì vậy trong dạy học toán để hình thành và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh phân tích, khai thác nội dung bài học dưới nhiều khía cạnh khác nhau để tìm ra các phương pháp giải khác nhau Ví dụ 1: Một mảnh vườn hình chữ nhật có tổng độ dài hai cạnh gấp 5 lần hiệu độ dài của hai cạnh đó. Biết diện tích mảnh vườn này là 600 m 2. Tính chu vi mảnh vườn đó. Cách 1: (Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng) Cho Hiệu hai cạnh là 1 đoạn thẳng thì tổng hai cạnh là 5 đoạn thẳng như 2 thế Tỉ số chiều rộng và chiều dài là 3 Khi đó mảnh vườn được chia thành 6 hình vuông bằng nhau, mỗi hình vuông có diện tích là 100m2, nên cạnh hình vuông là 10m. Do đó : Chiều rộng mảnh vườn là: 10x2 = 20 (m) Chiều dài mảnh vườn là: 10 x 3 = 30 (m) Chu vi mảnh vườn là: (20 + 30) x 2 = 100 (m) -16-
  17. Đáp số: 100m Cách 2: (Phương pháp thêm bớt diện tích) 2 Do tỉ số chiều rộng và chiều dài của mảnh vườn là 3 Ta chia mảnh vườn thành 2 phần bằng nhau, mỗi phần có diện tích 300m2. Ta thêm một phần như thế vào mảnh vườn. Mảnh vườn trở thành hinhf vuông có diện tích 900 m2. Do đó cạnh hình vuông (chính là chiều dài mảnh vườn) sẽ là 30m, suy ra chiều rộng mảnh vườn là 20m Chu vi mảnh vườn là: (20 + 30) x 2 = 100 (m) Đáp số: 100m 2 Ví dụ 2: Một cửa hàng có 324 mét vải. Ngày đầu bán được số vải, ngày 9 1 thứ hai bán được thêm số vải. Hỏi cửa hàng đó còn lại bao nhiêu mét vải? 3 Các em đã biết tính giá trị phân số của một số, các em có thể tính: Cách 1: (Thường gặp) Giải 2 Số mét vải ngày đầu bán được là: 324  = 72 (m) 9 1 Số mét vải bán ngày thứ hai là: 324  = 108 (m) 3 Tổng số vải bán cả 2 ngày là: 72 + 108 = 180 (m) Số mét vải của cửa hàng còn lại là: 324 - 180 = 144 (m) Đáp số: 144 mét. Và các em cũng đã học các phép tính về phân số, hướng dẫn các em suy nghĩ, vận dụng các phép tính về phân số tìm cách giải khác, chẳng hạn như: Cách 2: Giải 2 1 5 Phân số chỉ số vải bán được cả 2 ngày là:   (số vải) 9 3 9 9 5 4 Phân số chỉ số vải còn lại là:   (số vải) 9 9 9 4 Số mét vải cửa hàng còn lại là: 324  = 144 (mét) 9 Đáp số: 144 mét -17-
  18. Ví dụ 3: Sơ kết học kì 1, 180 học sinh khối lớp sáu được xếp thành bốn loại: giỏi, khá, trung bình, yếu. So với học sinh cả khối, số học sinh xếp loại giỏi bằng 1 4 9 , loại khá bằng , loại trung bình bằng . 10 10 20 a-.Tính số học sinh được xếp loại giỏi. b-.Tỉ số phần trăm của mỗi loại so với số học sinh cả khối? Cách 1: Giải 1 Số học sinh được xếp loại giỏi là: 180  = 18 (học sinh) 10 4 Số học sinh được xếp loại khá là: 180  = 72 (học sinh) 10 9 Số học sinh được xếp loại Trung bình là: 180  = 81 (học sinh) 20 Số học sinh xếp loại Yếu là : 180 - (18 + 72 + 81) = 9 (học sinh). Tỉ số phần trăm của học sinh giỏi 18 : 180 = 0,1 = 10% Tỉ số phần trăm của học sinh giỏi 72 : 180 = 0,4 = 40% Tỉ số phần trăm của học sinh giỏi 81 : 180 = 0,45 = 45% Tỉ số phần trăm của học sinh giỏi 9 : 180 = 0,05 = 5% Đáp số: a) 18 học sinh b) Giỏi 10% ; Khá 40% ; TB 45% ; Yếu 5% Nhưng với đề bài này, tôi gợi ý cho học sinh tính tỉ số phần trăm bằng cách khác, vì vậy các em biết tính tỉ số phần trăm mỗi loại như sau: Cách 2: 1 10 Tỉ số phần trăm của loại giỏi là:   10% (nhân tử, mẫu với 10) 10 100 4 40 Tỉ số phần trăm của loại khá là:   40% (tương tự) 10 100 9 45 Tỉ số phần trăm của loại trung bình là:   45% (nhân tử, mẫu với 5) 20 100 Tỉ số phần trăm của loại yếu là: 100% - (10% + 40% + 45%) = 5% Đáp số: a) 18 học sinh b) Giỏi 10% ; Khá 40% ; TB 45% ; Yếu 5% Qua ví dụ 3 này, giáo viên giúp cho học sinh hiểu thêm Tỉ số phần trăm chính là tỉ số của 2 số nhưng chúng được viết dưới dạng tỉ số có mẫu số bằng -18-
  19. 100, bằng cách biến đổi như ta đã học. (Thành phân số thập phân có mẫu số bằng 100) Qua 3 ví dụ trên tôi cho các em so sánh 2 cách giải và cho biết cách giải nào nhanh và gọn hơn? Các em sẽ thích thú hơn, tư duy sáng tạo hơn qua nhiều cách giải như thế. Chương 4: Hiệu quả sáng kiến 1. Hiệu quả của sáng kiến Chất lượng học tập môn Toán của học sinh lớp 5A được nâng cao, có học sinh đạt giải khi tham gia Olympic môn Toán cấp huyện. 2. Tổ chức thu thập minh chứng đánh giá hiệu quả, tác dụng của sáng kiến Sau một thời gian tích cực nghiên cứu và thực nghiệm đề tài theo các giải pháp nêu như trên đến tháng 3 năm 2018 học sinh đã tham gia Olympic môn học cấp huyện tuy không đạt kết quả cao nhưng là ngoài sức mong đợi của bản thân tôi và tập thể giáo viên, cán bộ quản lý nhà trường. Bởi chọn lựa được một đội tuyển 12 học sinh tham gia Olympic môn học trong tổng số 35 em mà có giải quả thật rất hiếm và cũng đã rất lâu Trường Tiểu học Vạn Thọ 1 chúng tôi mới có học sinh đạt giải trong một cuộc thi kiến thức như thế này. Ngoài 2 học sinh đạt giải Khuyến khích môn Tiếng Việt, 1 giải Khuyến khích tiếp sức đồng đội môn tiếng Anh thì có 1 học sinh đạt giải Nhì môn Toán – Đó là em Huỳnh Trọng Hiếu. GIẤY KHEN CỦA EM HUỲNH TRỌNG HIẾU -19-
  20. (Thầy Nguyễn Từng phát giấy khen cho Hiếu và các bạn đạt giải Nhì môn Toán) (Hiếu và hai bạn cùng lớp chụp hình kỉ niệm tại Lễ tổng kết Olympic môn học cấp huyện) -20-
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2