intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên - xã hội lớp 1

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

57
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm này tập trung vào các vấn đề: những tác động tích cực và một số hạn chế cần tránh khi sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại; thực hiện giáo án điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở tiểu học. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên - xã hội lớp 1

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN TRƯỜNG TH ĐẶNG TRẦN CÔN ________________ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN TỰ NHIÊN XàHỘI LỚP 1 Môn : Tự nhiên xã hội Giáo viên : Nguyễn Thị Hải Ninh Lớp : 1A6 Cấp : Tiểu học Năm học: 2018 ­ 2019
  2. MỤC LỤC Phần Nội dung Trang ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Lý do chọn đề tài. 1 2 Phạm vi đề tài. 2 NỘI DUNG 1 Cơ sở lý luận 4 2 Cơ sở thực tiễn 5 3 Nội dung 5 4 Kết quả 18 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1 Kết luận 19 2 Khuyến nghị 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
  3. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay, nhân loại đã phát minh và  chứng kiến sự tiến triển thần kỳ của công nghệ thông tin (CNTT). Những thành  tựu của CNTT đã góp phần rất quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển  nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin mang tính chất toàn cầu. Ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học và công nghệ thông tin, truyền thông  cũng như những yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo  nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá, hướng tới nền  kinh tế tri thức của nước ta đã được thể hiện trong những quan điểm của Đảng  và Nhà nước qua các văn kiện như Chỉ thị 58­CT/TW ngày 17/10/2000, Nghị  quyết 07/2000 ngày 05/6/2000 của Chính phủ, Chỉ thị 29/2001/CT ngày  30/7/2001 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Công nghệ thông tin cũng thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới trong  giáo dục, tạo ra công nghệ giáo dục với nhiều thành tựu rực rỡ, bao gồm:      Công nghệ dạy và học: CNTT làm thay đổi nội dung, hình thức và phương  pháp dạy học một cách phong phú. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp  cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải  quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức  dạy học như dạy theo lớp, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới  trong môi trường công nghệ thông tin. Mối giao lưu giữa người và máy đã trở  thành tương tác hai chiều với các phương tiện đa truyền thông như âm thanh,  hình ảnh, video,.. mà đỉnh cao là bài giảng E­learning (học trực tuyến qua  mạng Internet). Công nghệ quản lý giáo dục: làm thay đổi phương thức điều hành và quản  lý giáo dục, hỗ trợ công cuộc cải cách hành chính để quản lý các hoạt động  giáo dục và đào tạo hiệu quả hơn. Sự phát triển vượt bậc của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những  thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Đối với lĩnh vực giáo dục  đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung,  phương pháp giảng dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện tiến tới  "xã hội học tập". Mặt khác, ngành giáo dục đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển  của ngành công nghệ thông tin thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho  công nghệ thông tin. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu :"Đẩy mạnh ứng  dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cập học, ngành   4 /21
  4. học theo hướng dẫn. Học công nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc  lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học các môn." Nên việc đưa ứng dụng  công nghệ thông tin vào trường học là một việc làm cần thiết và đúng đắn.  Trong công tác giảng dạy, công nghệ thông tin giúp cho bài học sinh động hơn,  nhờ đó mà học sinh có hứng thú học tập hơn, tiếp thu bài tốt hơn. Như chúng ta đã biết, học sinh tiểu học còn nhỏ nên quá trình nhận thức  thường gắn với những hình ảnh, hoạt động cụ thể. Bởi vậy, các phương tiện  trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy đặc biệt là các phương tiện  trực quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Trong những  tiết học có đồ dùng trực quan đẹp, rõ nét học sinh sẽ chú ý đến bài giảng hơn và  kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn. Chính vì vậy việc đổi mới  phương pháp dạy học với sự trợ giúp của công nghệ thông tin vào tất cả các  môn học đặc biệt là các môn có sử dụng nhiều tranh ảnh đã mang đến cho giờ  dạy và học một không khí mới. Mỗi môn học mang một sắc thái riêng, môn Tự  nhiên ­ xã hội cũng vậy. Tuy bản chất là cung cấp những kiến thức Tự nhiên ­  xã hội có xung quanh chúng ta song trong sách giáo khoa lớp 1 không đưa ra kiến  thức đóng khung có sẵn mà là một hệ thống các hình ảnh bên cạnh các lệnh yêu  cầu học sinh thực hiện. Học sinh muốn chiếm lĩnh tri thức không thể khác là  thực hiện tốt các lệnh trong sách giáo khoa. Vậy một giờ học Tự nhiên ­ xã hội  ở lớp 1 được tiến hành ra sao? Cho dù tất cả các giáo viên có tích cực đổi mới phương pháp đến đâu thì  một giờ học Tự nhiên ­ xã hội vẫn diễn ra tẻ nhạt trầm lắng với các hoạt  động khó, khổ cho học sinh. Với nhiều tranh, ảnh đẹp giàu màu sắc, các em  được lôi cuốn vào xem một cách hồn nhiên nhưng nếu đưa ra yêu cầu quan sát  tập chung để đưa ra một vấn đề trọng tâm nhằm đạt được mục tiêu bài học thì  các em dễ nản. Nhưng cũng vẫn các bức tranh, ảnh đẹp giàu màu sắc đó với  sự trợ giúp của công nghệ thông tin ta đưa lên màn hình lớn bằng các hiệu ứng  thì sẽ thu hút được các em vào bài học hơn, giờ học sẽ có hiệu quả hơn. Hay  nói cách khác với công nghệ thông tin, người thầy có thể chế tạo ra những  món ăn hấp dẫn và bổ dưỡng, tức là giờ học lý thú mà nếu chỉ sử dụng bảng  đen phấn trắng thì khó mà thực hiện được. Với các phương tiện dạy học hiện  đại như máy tính, máy chiếu và một số phần mềm tiện ích như Power Point,  Violet, bài giảng E­learning ... người thầy có thể làm cho học trò quan tâm hơn  đến môn học mà không phải ép buộc chúng. Chính vì vậy việc: “Ứng dụng  công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên ­ xã hội lớp 1.” là cần thiết. 2. Phạm vi đề tài. 2.1. Mục đích nghiên cứu  5 /21
  5.      Xuất phát từ tình hình dạy học thực tế ở lớp và qua việc dự giờ các tiết dạy  của đồng nghiệp, qua việc góp ý xây dựng các tiết dạy thao giảng, chuyên đề,  hội giảng giáo viên dạy giỏi cấp Trường, cấp Quận của giáo viên. Thông qua  công tác thanh tra hay giám khảo của Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp. Tôi đã  đúc kết được một số kinh nghiệm cho bản thân trong việc ứng dụng CNTT  trong dạy học. Vì vậy, nội dung sáng kiến kinh nghiệm này tập trung vào các  vấn đề: những tác động tích cực và một số hạn chế cần tránh khi sử dụng các  phương tiện dạy học hiện đại; thực hiện giáo án điện tử và ứng dụng công  nghệ thông tin vào dạy học ở tiểu học. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ­Việc “Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tự nhiên ­ xã  hội lớp 1.” ­Đối tượng: Các tiết dạy có sử dụng Giáo án điện tử tại trường Tiểu  học Đặng Trần Côn. ­Thời gian: Năm học 2018 – 2019.  6 /21
  6. NỘI DUNG 1) Cơ sở lý luận      Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương  pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận  kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết  vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học  như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới  trong môi trường công nghệ thông tin và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm  việc tự lực với máy tính, với Internet, dạy học theo hình thức lớp học phân tán  qua mạng dạy học qua cầu truyền hình. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới  phương pháp dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm  là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu  trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và  thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực  sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm”  sang “lấy học sinh làm trung tâm”sẽ trở nên dễ dàng hơn.       Công nghệ phần mềm phát triển mạnh, trong đó các phần mềm giáo dục cũng  đạt được những thành tựu đáng kể như: một số phần mềm tiện ích như Power  Point, Violet … , E ­ learning và các phần mềm đóng gói, tiện ích khác. Do sự  phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà mọi người đều có trong  tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm dạy học  nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh trung bình,  thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường  học tập. Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay của  giáo viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy tính  điện tử mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động  hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp  truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội  dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự  chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có  nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động  nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của công  nghệ thông tin và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm  việc, cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của  con người.       Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy 
  7. học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một  môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy  đọc, trò chép” như kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo điều  kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn  luyện của bản thân mình. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1 Thuận lợi:      Trường Tiểu học Tiểu học Đặng Trần Côn trong những năm học gần đây đã  triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy và học.      Trong những năm vừa qua nhà trường đã mua máy chiếu Projector, máy vi  tính và nối mạng Internet.      Mặt khác trên giáo án điện tử giáo viên dễ dàng bổ sung, sửa chữa thay đổi  cấu trúc bài dạy một cách linh hoạt; phƣơng tiện đòi hỏi không nhiều chỉ cần  một máy tính, một máy chiếu và màn ảnh rộng, quan trọng là khâu soạn giáo án. 2.2. Khó khăn      Khó khăn nhất với một số giáo viên nhiều tuổi trình độ tin học còn hạn chế  nên việc thiết kế giáo án điện tử rất vất vả và mất nhiều thời gian. Chính vì  vậy một số giáo viên tỏ ra ngại và không hứng thú với việc soạn và giảng bằng  giáo án điện tử.      Việc thiết kế giáo án điện tử do chưa có nhiều kinh nghiệm nên việc chọn  màu sắc, phông chữ, hay chọn hiệu ứng đôi khi chưa phù hợp. Giờ học còn phụ  thuộc vào nguồn điện, phòng học, ánh sáng, phương tiện. 3. Nội dung 3.1 Thực trạng khi thiết kế giáo án điện tử     Để phát triển con người toàn diện góp phần hình thành năng lực phẩm chất  tư duy cho học sinh thì việc dạy học tốt các môn học là một yêu cầu không thể  thiếu. Ngƣời giáo viên không những dạy tốt các môn Toán, Tiếng Việt hình  thành tri thức cho học sinh mà còn phải dạy tốt tất cả các môn học khác nhau để  phát triển một con người toàn diện. Từ năm 2000 song song với việc thay sách  giáo khoa mới thì Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu các giáo viên tiểu học  đổi mới phương pháp dạy học.      Hoà cùng với công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học trên toàn ngành, môn Tự nhiên ­ xã hội cũng có những bước  chuyển mình, từng bước vận dụng thay đổi linh hoạt các phương pháp dạy học  có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nhằm tích cực hoá các hoạt động của học  sinh, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh  hội tri thức. Như chúng ta đã biết môn Tự nhiên xã hội là môn học cung cấp,  tranh bị cho học sinh những kiến thức ban đầu, cơ bản về tự nhiên và xã hội 
  8. trong cuộc sống hàng ngày xảy ra xung quanh các em. Vì thế học sinh đã có vốn  sống, vốn hiểu biết ban đầu về tự nhiên xã hội. Mặt khác sách giáo khoa Tự  nhiên ­ xã hội lớp 1 không đưa ra kiến thức đóng khung có sẵn mà là một hệ  thống các hình ảnh bên cạnh các lệnh yêu cầu học sinh thực hiện. Học sinh  muốn chiếm lĩnh tri thức không thể khác là thực hiện tốt các lệnh trong sách  giáo khoa. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để học tốt môn tự nhiên xã hội  nhưng đồng thời nó cũng chính là điểm gây trễ nải trong việc học tập môn này.      Đối với môn Tự nhiên và xã hội việc thiết kế nội dung bài học bằng nhiều  tranh ảnh đã giúp cho giáo viên thiết kế giáo án diện tử gặp nhiều thuận lợi hơn  các môn học khác. Mỗi một bài học khi ta đưa các tranh, ảnh lên màn hình lớn  và sử dụng các hiệu ứng sẽ giúp cho học sinh chú ý hơn.      Ví dụ khi dạy bài "Cây hoa" ta đưa hình ảnh trong sách giáo khoa và làm hiệu  ứng thêm một số loại hoa sẽ giúp cho bài học sinh động, học sinh hiểu và nắm  bài nhanh hơn. Hay như dạy các bài về quả, hoa, thân cây, động vật…thì ngoài  các hình ảnh trong bài học ta có thể đưa thêm các hình ảnh khác có liên quan  đến bài học giúp cho nội dung bài học phong phú hơn.      Qua đó ta có thể nói việc dạy bằng giáo án điện tử đã giúp cho giáo viên đỡ  vất vả hơn nhiều. Thay bằng thao tác hướng dẫn, các thao tác gắn đồ dùng lên  bảng, giáo viên chỉ cần kích chuột lên là có. Dạy bằng giáo án điện tử còn tránh  được tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học.  Mặt khác khi sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể thiết kế như sách giáo  khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, mất thời gian mà hình ảnh nhỏ lại không  rõ nét như khi đưa lên màn hình lớn.      Bên cạnh việc sử dụng phần mềm Power Point trong quá trình thiết kế giáo  án điện tử, tôi còn sử dụng phần mềm Violet, Flash vào phần luyện tập củng  có, hay trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trò chơi có thể diễn  ra ở đầu, giữa hoặc cuối tiết học. Trò chơi có thể giải quyết được một phần  hay toàn bộ nội dung bài học. Mặt khác còn giúp cho học sinh phản xạ nhanh từ  đó phát triển tư duy.      Việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn tự nhiên xã hội  có nhiều cái lợi cho cả giáo viên và học sinh. Nhưng bên cạnh đó cũng không ít  giáo viên gặp nhiều khó khăn khi thiết kế giáo án điện tử. Vậy vấn đề đặt ra là  phải soạn giáo án như thế nào cho phù hợp thì mới mang lại hiệu quả mong  muốn. 3.2 Cách thiết kế và những yêu cầu cần thiết khi soạn giáo án điện tử.      Đối với môn Tự nhiên ­ xã hôi mỗi bài học là một hệ thống các hình ảnh bên  cạnh các lệnh yêu cầu học sinh thực hiện. Bởi vậy khi soạn giảng một tiết dạy  bằng giáo án điện tử tôi thường thực hiện các bước sau:
  9. Bước 1: Soạn giáo án ở chương trình Power Point. Khi soạn ở giáo án ở chương trình Power Point chúng ta cần soạn đủ các  bước lên lớp, đặc biệt chú ý các bước sau: ­ Kiểm tra bài cũ. ­ Dạy bài mới: Giới thiệu bài, khởi động. Tổ chức các hoạt động dạy học: + Hoạt động 1: Quan sát hình thành khái niệm kiến thức + Hoạt động 2: Khai thác vốn sống thực tế ­ Liên hệ hình thành kĩ năng thái độ. + Trò chơi học tập hoặc làm phiếu bài tập theo yeu cầu. => Đây là bước quan trọng nhất trong quá trình soạn giáo án. ­ Củng cố kiến thức. ­ Hướng dẫn về nhà.      Hiện nay đã có nhiều giáo viên tiểu học soạn giáo án trên chương trình Word,  điều đó rất thuận lợi cho quá trình soạn giáo án điện tử. Bước 2: Lựa chọn kiến thức khi trình chiếu.      Đây là bước rất quan trọng, nhiều giáo viên đặc biệt là những giáo viên mới  bắt đầu soạn giảng với Power Point còn lúng túng ở bước này. Để thực hiện tốt  người giáo viên phải nắm được kiến thức trọng tâm của bài giảng, không tham  kiến thức, không tham chình chiếu, chỉ đưa trình chiếu những kiến thức, nội  dung học sinh cần ghi nhớ, không đưa phần trình chiếu thuyết giảng của giáo  viên. Nếu kiến thức đưa ra trình chiếu không đƣợc lựa chọn dễ bị đẩy vào hai  tình huống. ­ Kiến thức đưa nhiều học sinh khó theo dõi. ­ Kiến thức đưa quá sơ sài, học sinh không nắm được bài.      Vì thế người giáo viên cần biết chắt lọc và tinh giảm kiến thức cần trình bày  trên các Slide, đảm bảo nội dung cô đọng nhưng vẫn đầy đủ ý. Bước 3: Lựa chọn tư liệu đưa vào giáo án. Các tư liệu được lựa chọn đưa vào giáo án thường là: a) Hình ảnh: ­ Hình ảnh trong sách giáo khoa nhằm giúp các em chiếm lĩnh kiến thức. ­ Hình ảnh bên ngoài sách giáo khoa có liên quan đến bài học nhằm giúp  học sinh khai thác vốn sống ­ liên hệ hình thành kĩ năng. ­ Các đoạn phim, vi deo clip.
  10. Ngoài ra còn rất nhiều những hình ảnh khác nữa. b) Các đoạn phim: Đoạn phim quay về làng quê và đô thị, trái đất....  Các clip: khă năng kì diệu của lá cây; năm, tháng , ngày... c) Âm thanh: Các bài hát được sử dụng trong phần mở bài hay kết bài giúp  cho bài học phong phú hơn.      Có thể nói tư liệu để phục vụ cho mối bài giảng nhiều, giáo viên có thể tìm  và sưu tầm ở nhiều nguồn khác nhau trên Internet. để có một hệ thống tư liệu  phong phú, giáo viên phải có ý thức cập nhật thường xuyên. Tuy nhiên chúng ta  cũng không nên quá lạm dụng mà phải biết chắt lọc, lựa chọn những tư liệu  đắt nhất, hiệu quả nhất có tác dụng tốt hơn với học sinh nếu không sẽ làm  loãng bài giảng, học sinh mải xem hình ảnh mà quên mất bài giảng.
  11. Bước 4: Thiết kế các Slide của giáo án. a) Lựa chọn số lượng Slide cho mỗi bài giảng.      Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy thường một giờ dạy Tự nhiên xã  hội không nên sử dụng quá 15 ­ 18 trang. - Kiểm tra bài cũ: 1 Slide - Giới thiệu bài mới: 1 Slide - Bài mới: 12 ­ 13 Slide - Củng cố kiến thức: 1 ­ 2 Slide - Hướng dẫn về nhà: 1 Slide. b) Xây dựng bố cục mỗi Slide Tuỳ theo từng nội dung bài mà chúng ta xây dựng bố cục cho linh hoạt. c) Chọn phông nền, kiểu chữ, và cỡ chữ.      Đây cũng là bước quan trọng vì nếu Slide phối hợp màu sắc không chuẩn,  thiếu các nguyên tắc cơ bản về độ sáng, tối độ đậm, nhạt, độ tượng phản  khiến các Slide không đạt tới sự hài hoà cần thiết dẫn tới gây ức chế cho học  sinh. Hoặc các Slide chứa quá nhiều chữ , hình ảnh, kích cỡ nhỏ, người xem  không thấy hoặc phải căng mắt ra gây mệt mỏi.      Nên thống nhất kiểu chữ, cỡ chữ , màu chữ ở những đề mục, nội dung có  cùng một vị trí, vai trò, nhiệm vụ...      Với những nội dung mang ý khái quát hoặc có mục đích chốt lại nội dung,  kiến thức được in đậm với màu chữ, kiểu chữ khác hẳn với những màu chữ,  kiểu chữ đã chọn ở trên, học sinh dễ khắc sâu kiến thức.      Chọn phông nền nên chọn màu hài hoà nhưng phải làm nổi bật màu chữ đã  sử dụng ở Slide. Không nên chọn màu nền quá tối như màu đen, ghi, nâu, xám... hoặc màu quá chói như màu đỏ, tím, cam... Cũng không nên chọn mỗi Slide một  màu nền khác nhau điều đó cũng kéo theo màu chữ cũng phải thay đổi khiến cho  học sinh khó theo dõi, khó nhớ kiến thức... Vì vậy màu nền nên thống nhất ở tất  cả các Slide của một bài giảng. d) Chọn cách trình chiếu.      Nên chọn kiểu đưa kiến thức, hình ảnh xuất hiện một cách nhẹ nhàng, tự  nhiên không nên lạm dụng các hiệu ứng các chuyển động khiến kiểu kiến thức  xuất hiện một cách cầu kì. Các dòng chữ nên xuất hiện với tốc độ vừa phải,  không nên quá chậm mất nhiều thời gian cũng không nên lật quá nhanh các slide  gây cho học sinh cảm giác không kịp tiếp thu. Tôi thường chọn những kiểu  chuyện động box, plus, expand... Tuy nhiên cũng không nên sử dụng quá nhiều  chuyển động trong một Slide, học sinh mất tập trung, chỉ chờ xem dòng chữ tiết  theo sẽ xuất hiện kiểu nào. Bước 5: Lên lớp
  12.      Đây là bước quan trọng, nhiều giáo viên chuẩn bị giáo án tốt nhưng giờ dạy  không thành công chính là ở bước này.      Trong quá trình giảng dạy không được phụ thuộc vào thiết bị và công nghệ  làm mất khả năng linh hoạt, không bao giờ được coi việc chuẩn bị nội dung của  mình là cố định cứ để thế mà bất kì tình huống trên lớp đòi hỏi phải điều chỉnh  thay đổi. Cần làm chủ được công nghệ, không nên ngại việc bổ sung, sửa chữa  bài giảng ngay tại lớp bởi vì mỗi bài giảng luôn luôn có nhiều tình huống bất  ngờ xuất hiện, nếu làm chủ được công nghệ thông tin ta sẽ dễ dàng thay đổi ,  điều chỉnh giáo án mà không hề ảnh hưởng đến trình chiếu, học sinh không biết  được giáo viên đã dừng lại để sửa chữa như thế nào. Thiết bị hiện đại cho phép  giáo viên dễ dàng làm được điều đó.      Khi sử dụng giáo án điện tử vẫn phải kết hợp linh hoạt với các phương pháp  dạy học khác tuyệt đối không thực hiện bài giảng kiểu diễn giải ­ trình chiếu ­  diễn giải ­ trình chiếu. Để tránh được điều đó giáo viên phải xây dựng được  một hệ thống câu hỏi hay, phù hợp giúp cho học sinh nắm bài tốt. Mặt khác  cũng giúp cho giáo viên tránh được lối suy diễn máy móc, giữ đúng vai trò, chức  năng tổ chức, hướng dẫn định hướng chứ không áp đặt một chiều, Học sinh  được đặt đúng vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận kiến thức.      Tóm lại giáo án Power Point chỉ là công cụ hỗ trợ cho việc dạy học và giúp  cho bài giảng hay hơn, sinh động hơn và nó không thể nào thay thế được người  thầy trên bục giảng. Hiệu quả của một tiết dạy vẫn tập trung vào vai trò người  thầy. Ví dụ: Bài: GIA ĐÌNH Trong bài này tôi thiết kế trên 9 slide, sau đây là một số slide chính trong bài: + Ở slide thứ nhất tôi thiết kế cho học sinh khởi động, thảo luận theo nhóm đôi  để đưa học sinh đi vào kiến thức của bài.
  13. Sau khi học sinh thảo luận và báo cáo kết quả mình vừa thảo luận. Giáo viên  đưa ra tranh minh họa của hoạt động 1 trên slide thứ 2. Trên slide thứ 3 tôi yêu cầu học sinh thảo luận theo 4 nhóm theo lệnh yêu cầu. Sau đó ở slide thứ 4 tôi làm hiệu ứng cho gia đình bạn Lan hiện trước cùng với  4 câu hỏi cho học sinh thảo luận. Một học sinh đứng dậy đọc các câu hỏi đó.  Tiếp theo tôi làm hiệu ứng biến mất và đồng thời cho hiệu ứng bay ra để gia  đình bạn Lan và câu hỏi cũng hiện ra trên slide 4. Ở phần này học sinh cũng  đứng dậy đọc câu hỏi. Sau khi học sinh quan sát và đọc câu hỏi tôi đưa phiếu  giao việc ghi câu hỏi về các nhóm để các em thảo luận trong vòng 10 phút. Các 
  14. nhóm lên báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình. Trên slide thứ 5 tôi làm hiệu ứng cho hiện lần lượt kết quả của các câu hỏi sau  khi các em lên báo cáo để nhằm khắc sâu kiến thức cho các em.
  15.      Ở slide thứ 6 tôi đưa ra câu hỏi sau đó làm hiệu ứng để “Thảo luận nhóm  đôi” biến mất và thay vào đó là phần “Đại diện nhóm trình bày trước lớp” hiện  ra để học sinh nhận biết được thế nào là gia đình.
  16. Trên slide thứ 7 này là kết luận của hoạt động 2.
  17. Slide thứ 8 tôi yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm 4 (học sinh chuẩn  bị sẵn ảnh của gia đình mình) Slide thứ 9 nêu kết luận của hoạt động 3.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2