intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Dạy Lí luận văn học ở lớp 10 chương trình cơ bản

Chia sẻ: Lê Thị Diễm Hương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

366
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kiến thức bài Lí luận văn học ở các khối lớp nói chung và lớp đầu cấp là vô cùng cần thiết cho môn học, thậm chí được ví như những chiếc chìa khóa giúp học sinh mở được kho tàng văn học vốn vô cùng đa dạng, phong phú thông qua việc mã hóa tác phẩm văn học. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến “ Dạy Lí luận văn học ở lớp 10 chương trình cơ bản”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Dạy Lí luận văn học ở lớp 10 chương trình cơ bản

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở LỚP 10 CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN
  2. I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Là một giáo viên, hẳn không ai trong chúng ta không mong muốn một ngày nào đó những lớp học sinh thân yêu gặt hái thành công trong học tập, đặc biệt là đối với các giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường Phổ thông. Bởi lẽ, trong một thời đại mà tất cả các môn khoa học xã hội đều đang mất dần chỗ đứng, vì nhiều lí do có cả khách quan và chủ quan, học sinh còn ít em quan tâm yêu thích, đó là niềm khích lệ vô cùng lớn lao cho người dạy. Làm thế nào để học sinh đạt kết qủa cao nhất trong môn Ngữ văn? Một câu hỏi lớn vốn là sự trở trăn của những nhà giáo dục có tâm huyết. Có một thực tế là học sinh khi viết văn nghị luận đi tìm vẻ đẹp văn chương của các tác phẩm cụ thể thường có thói quen gần như cố hữu là phân tích rất sâu những vấn đề thuộc về nội dung tư tưởng mà quên đi những giá trị nghệ thuật. Dường như, tận sâu thẳm tiềm thức của các em, vẫn tuyệt đối hóa nội dung. Mặt khác, qua việc điều tra một số học sinh lớp 11 về thực trạng học Lí luận văn học ở lớp 10, chúng tôi nhận thấy phần lớn các em đã quên, thậm chí có em không còn chút ấn tượng nào về những gì đã được học, dù rằng thời gian học những bài này đều ở cuối năm học lớp 10. Khi có kết quả này, chúng tôi không khỏi có những băn khoăn. Thực tế cho thấy trong các kì thi chọn học sinh giỏi các cấp, những bài điểm tốt thường là những bài mang tính lí luận cao. Bài viết đã phát hiện được vấn đề, cảm nhận sâu sắc, diễn đạt trôi chảy, giàu cảm xúc. Thành quả ấy, phần lớn do các em được thâu nhận và biết vận dụng kiến thức lí luận vào quá trình làm bài. Sự thăng hoa trong cảm xúc, sự trưởng thành trong suy nghĩ, sự đủ đầy trong kiến thức là các tố chất quyết định sự thành công trong bài viết của các em. Bất cứ giáo viên nào cũng biết các điều kiện cần và đủ ấy. Thế nhưng không phải ai ai cũng có định hướng đúng để giảng dạy hiệu quả. Nhất là đối với các bài Lí luận văn học của chương trình lớp 10 - những bài học cung cấp
  3. nhiều kiến thức quan trọng trong việc tiếp cận tác phẩm từ các phương diện cấu thành của nó. Qua thực tiễn giảng dạy, chúng tôi nhận thấy kiến thức bài Lí luận văn học ở các khối lớp nói chung và lớp đầu cấp là vô cùng cần thiết cho môn học, thậm chí được ví như những chiếc chìa khóa giúp học sinh mở được kho tàng văn học vốn vô cùng đa dạng, phong phú thông qua việc mã hóa tác phẩm văn học. Một câu hỏi được đặt ra: Phải chăng những cuộc thi có quy mô lớn như thi chọn học sinh giỏi quốc gia luôn là và chỉ là sân chơi trí tuệ của học sinh trường chuyên, lớp năng khiếu, nơi các em được thầy cô đầu tư thỏa đáng, tích cực? Đứng trước câu hỏi mà câu trả lời đã quá rõ ràng, chúng tôi đã trăn trở, suy nghĩ rất nhiều về một hướng đi có hiệu quả hơn trong dạy học Lí luận văn học ở cấp học Phổ thông nói chung và các bài Lí luận văn học ở lớp 10 nói riêng để cả giáo viên và học sinh không phải e ngại nhiều khi gặp những vấn đề lí luận trong chương trình học. Đây chỉ là những ý kiến ban đầu của một giáo viên còn non trẻ trong nghề, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp nhiệt tình của quý thầy cô đồng nghiệp để việc giảng dạy phần Lí luận văn học nói riêng và phân môn Văn học nói chung đạt hiệu quả cao hơn. II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI PHẦN 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận 1.1. Lí luận văn học ở trường Đại học - Lí luận văn học là một bộ môn chính trong khoa nghiên cứu văn học. Lấy đối tượng chủ yếu là phương diện cấu trúc của văn học, Lí luận văn học có nhiệm vụ rất quan trọng. Một mặt, Lí luận văn học xem xét văn học trong sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể trong thực tiễn của con người. Ở đây sẽ bắt gặp một số khái niệm như nguồn gốc, đối tượng, tính hiện thực, tính chân thực của tác phẩm, tính hình tượng và các chức năng của văn
  4. học…Mặt khác Lí luận văn học cũng xem xét tác phẩm trong cấu trúc nội tại của nó, đó cũng là mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. Xét từ khía cạnh sinh thành, Lí luận văn học cũng nghiên cứu tiến trình của văn học. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Lí luận văn học không đi sâu mô tả và giải thích quá trình phát triển lịch sử của các giai đoạn, các trào lưu như văn học sử, mà chủ yếu xem xét các phương pháp sáng tác chính yếu, những nguyên tắc tư tưởng – nghệ thuật… Ngoài ra, Lí luận văn học còn có tính chất là phương pháp luận nghiên cứu văn học. - Việc giảng dạy và học tập Lí luận văn học ở trường Đại học là vô cùng cần thiết. Nó cung cấp cho người học những vấn đề khái quát về bản chất, chức năng cùng quy luật phát triển của văn học nói chung, tác phẩm cũng như một số phương pháp sáng tác chính yếu. Trên cơ sở đó, người học có thể bước đầu vận dụng được phương pháp nghiên cứu những hiện tượng văn học, nhất là việc phân tích một tác phẩm cụ thể. 1.2. Lí luận văn học ở trường THPT - Lí luận văn học là một bộ phận của phân môn Văn học, nhưng lại có tầm quan trọng rất lớn đối với cả bộ môn và có quan hệ mật thiết với phân môn Văn học. Những kiến thức Lí luận văn học sẽ giúp giáo viên trang bị cho học sinh những công cụ và phương tiện cơ bản để từng bước hình thành năng lực văn. - Qua Lí luận văn học, học sinh có thể cảm thụ thẩm mỹ một cách có ý thức từ các phương diện của tác phẩm văn học như: ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu… Đó cũng là con đường khắc phục có hiệu quả hội chứng “xã hội học dung tục” trong dạy học văn. Lí luận văn học cũng giúp học sinh nâng cao năng lực tư duy. Đó là khả năng phát hiện vấn đề, đặt vấn đề trước một đối tượng, một hiện tượng nào đó của đời sống hiện thực hay đời sống văn học, khoa học. Ngoài ra, Lí luận văn học còn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực diễn đạt. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1 Về chương trình Lí luận văn học ở cấp THPT
  5. Theo phân phối chương trình môn Ngữ văn THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, thực hiện chuẩn hóa từ năm học 2005 – 2006, phần Lí luận văn học của toàn cấp gồm 10 tiết, trong đó có 5 bài tất cả, được phân bổ đều từ lớp 10 – 12. Ở lớp 10 có 2 bài được dạy trong 2 tiết là: Văn bản văn học, Nội dung và hình thức của văn bản văn học. Ở lớp 11 có 1 bài được dạy trong 4 tiết là: Một số thể loại văn học (Thơ, truyện, kịch, văn nghị luận). Ở lớp 12 có 2 bài được dạy trong 4 tiết là: Quá trình văn học và phong cách văn học, Giá trị văn học và tiếp nhận văn học. Như vậy, xét một cách khách quan, dù rằng kiến thức LLVH được đánh giá là vô cùng quan trọng và cần thiết cho bộ môn, là “đèn chiếu sáng” cho học sinh, nhưng lại có vị trí vô cùng khiêm tốn trong chương trình học của cả cấp. Điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. 2.2 Thực trạng giảng dạy Lí luận văn học của giáo viên Nhằm tìm hiểu thực trạng dạy học Lí luận văn học trong nhà trường THPT hiện nay, làm cơ sở thực tiễn cho chuyên đề, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng hình thức phỏng vấn một số giáo viên Ngữ Văn ở nhiều trường THPT. Bước đầu đã thu nhận được một số vấn đề sau: Thứ nhất, bên cạnh nhiều thầy cô ý thức được tầm quan trọng của phần Lí luận văn học của chương trình nên đã có cách giảng dạy hợp lí, hiệu quả, thì một số giáo viên chưa thực sự chú trọng vào phần Lí luận văn học, vì một số lí do như sau: - Phân phối chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo dành cho bài học Lí luận văn học quá ít, mặt khác còn bố trí bài học hoặc ở cuối học kì hoặc ở cuối năm học. Thông thường khi học đến những bài học đó, học sinh đã hoàn tất kì thi học kì. Vấn đề này tạo ra một chuỗi hệ quả là không thi thì không cần phải dạy kĩ, không cần phải học kĩ. - Ở các trường THPT không phải là trường chuyên, trường trọng điểm chất lượng cao, xa trung tâm Tỉnh, hay các trường không có lớp ban C, mục đích đầu tiên và cũng quan trọng nhất là làm sao học sinh thi đậu Tú tài, cao hơn một chút là Đại học. Xuất phát từ mục đích đó giáo viên cân nhắc nên dạy vấn đề nào sâu và vấn đề gì nên lướt. Bao giờ giáo viên cũng lựa chọn những nội
  6. dung khó có thể đưa vào thi cử đại trà hay ít xuất hiện trong chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo để dạy lướt. Do luôn được sắp xếp chương trình ở cuối học kì, cuối năm học nên số phận của các bài học về Lí luận văn học rất dễ nằm trong ý định đó của giáo viên. - Còn quan niệm giờ dạy Văn học chủ yếu dạy Đọc - hiểu văn bản. Lí thuyết văn học thuộc về lí luận cao siêu là địa phận của giáo dục Đại học. Vì vậy, giáo viên thường chăm chút rất nhiều vào các bài học Đọc - hiểu văn bản. Điều này góp phần lớn trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên sẽ toàn diện hơn nếu giáo viên một mặt bồi dưỡng xúc cảm thẩm mỹ cho học sinh, mặt khác nâng cao nhận thức, phát huy năng lực độc lập suy nghĩ ở học sinh bằng những thao tác tư duy khái quát, trừu tượng. Hoặc nếu không muốn nói học sinh khi viết bài sẽ thiên về chủ nghĩa duy cảm. Thứ hai, giáo viên vẫn chưa đầu tư thỏa đáng trong tất cả các khâu của một giờ dạy Lí luận văn học: từ chuẩn bị, soạn giảng đến lên lớp, kiểm tra đánh giá. Tất cả đều diễn ra tuy đúng trình tự nhưng khiên cưỡng, hời hợt. Một điều quan trọng nữa là giáo viên cũng chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp giảng dạy, chẳng hạn ứng dụng công nghệ thông tin vào giờ dạy Lí luận văn học. Vì mọi người cho rằng rất khó để ứng dụng vào bài học. Nếu có, chỉ là cách để thay thế thao tác ghi bảng. Như vậy, vận dụng không khéo sẽ lợi bất cập hại. 2.3. Thực trạng học Lí luận văn học của học sinh Chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng cách phát phiếu điều tra trắc nghiệm cho 100 học sinh 2 lớp 11A1 và 11A2 trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh. Đây là 2 lớp mặt bằng, học môn Ngữ Văn theo chương trình cơ bản. 2.3.1. Khảo sát chất lượng học tập bài Lí luận văn học của học sinh Sử dụng các câu hỏi: “Em hiểu Lí luận văn học là gì?”, “Em đã học những bài Lí luận văn học nào ở lớp 10?” và “Theo em, thế nào là văn bản văn học?”, chúng tôi nhận thấy chỉ có 3% số học sinh được khảo sát hiểu thấu đáo về Lí luận văn học, 28% số học sinh được khảo sát trả lời chính xác năm
  7. lớp 10 đã học bài Lí luận văn học nào, 17% số học sinh được khảo sát nhớ những kiến thức Lí luận văn học đã học. 2.3.2. Nhận thức của học sinh về tri thức Lí luận văn học Trả lời câu hỏi “Kiến thức Lí luận văn học đem lại cho em những lợi ích gì?”, 64% số học sinh được khảo sát nắm rõ tầm quan trọng của Lí luận văn học. 2.3.3. Thái độ và tinh thần học tập đối với bài Lí luận văn học của HS Với câu hỏi : “Trong qúa trình học Lí luận văn học, em cảm thấy như thế nào?”, chúng tôi nhận thấy 33% học sinh cảm thấy hứng thú, 22% học sinh cảm thấy nhàm chán, 59% học sinh cảm thấy khó hiểu, 52% học sinh cảm thấy mơ hồ. 2.3.4. Khảo sát khả năng vận dụng kiến thức lí luận vào bài tập thực hành Sử dụng câu hỏi: “Theo em, văn bản “Đại cáo bình Ngô” có phải là văn bản văn học không? Vì sao?”, 17% học sinh được khảo sát biết dùng kiến thức lí luận để phân tích. Nhận xét Qua khảo sát, điều tra, ta thấy thực trạng học Lí luận văn học ở học sinh có một số đặc điểm như sau: - Với sự thay đổi bảng giá trị trong xã hội hiện nay, Văn học cùng nhiều sản phẩm tinh thần khác dường như ngày càng trở nên chông chênh, không đủ sức chống đỡ trước những làn sóng của chủ nghĩa duy lợi. Số đông học sinh hiện nay có thiên hướng thi vào Đại học các khối tự nhiên để sau khi ra trường dễ kiếm việc và làm ra nhiều tiền. Với bộ phận này, môn Văn không được các em đón nhận hào hứng. Thậm chí có học sinh không ngại ngần bày tỏ một cách thẳng thắn với bạn bè, thầy cô rằng “thí” môn Văn để đầu tư vào các môn thi đã chọn. Trước tình hình đó, các giờ Ngữ Văn trở nên vô vị, nhạt nhẽo vì học sinh ngồi đó đón nhận kiến thức nhưng không có sự quan tâm, yêu thích. Như vậy, phần Lí luận văn học cũng không thể tạo được những cú lội ngược dòng.
  8. - Số còn lại rất ít dự thi vào hai khối C, D thì học có tốt hơn, nhưng lại có tư tưởng thực dụng: chỉ cần đậu Đại học. Với mục đích này, học sinh chỉ cần nắm kiến thức trọng tâm và diễn đạt tương đối trôi chảy. Những vấn đề đó, phần Đọc - hiểu văn bản và Làm văn có thể giải quyết được. Mặt khác, trong các kì thi học kì, tú tài, Đại học, hiếm có đề bài thiên về lí luận. Vậy nên, cái gì không thi thì không cần học kĩ. Xét cho cùng, số học sinh này thực sự chưa ý thức được tầm quan trọng của phần Lí luận văn học mang lại. - Tuy nhiên, đưa ra những thực trạng trên không phải là đổ lỗi cho hoàn cảnh để từ đó bỏ qua luôn hoặc làm chiếu lệ những bài học khó. Bởi bên cạnh số đông học sinh học lệch, học tủ, vẫn tồn tại khá nhiều học sinh tích cực, có nhu cầu tiếp nhận nhiều kiến thức lí luận. Nhưng số học sinh này cũng rơi vào hai trường hợp. Một là, học sinh ý thức được tầm quan trọng của Lí luận văn học trong quá trình nhận thức, tư duy và diễn đạt văn chương, nhưng bản thân lại không thể tiếp thu chúng một cách tốt nhất. Nguyên nhân do các em hạn chế về năng lực. Vả lại, Lí luận văn học cũng không phải là những vấn đề đơn giản. Kiến thức lí luận thường hết sức khô khan, trừu tượng và có độ khó nhất định. Thực tế, không phải ai ai cũng có tư duy lí luận tốt. Hai là, học sinh học cực tốt Lí luận văn học. Đối tượng này phải kể đến học sinh các lớp năng khiếu, lớp chuyên. Ở chương trình học Nâng cao, các em được tiếp xúc với khá nhiều kiến thức lí luận. Những kiến thức này hoặc tồn tại ở các chuyên đề riêng biệt, hoặc rải rác ở phần Tri thức đọc hiểu. Mặt khác, khi giảng dạy ở lớp chuyên, lớp chọn, lớp năng khiếu, giáo viên không ai bảo ai, hết sức tập trung vào việc bồi dưỡng vào những kiến thức lí luận. Như vậy, học sinh ở các lớp này rõ ràng có ưu thế và được cấp vốn kiến thức dồi dào hơn rất nhiều so với học sinh theo học ban cơ bản và không chuyên. Thêm vào đó, áp lực phải đạt giải cao trong các kì thi Olympic, học sinh giỏi quốc gia, cũng đòi hỏi học sinh cố gắng hết sức. Đây cũng là dịp tốt nhất để Lí luận văn học có cơ hội gia nhập vào túi khôn của học sinh, đồng thời đo lường hiệu quả trong giảng dạy và định hướng của giáo viên. Phân tích thực trạng dạy và học phần LLVH ở học sinh lớp 11, chúng tôi không có ý vạch lá tìm sâu. Bởi lẽ khách quan nhìn nhận giáo viên ngày
  9. nay đã nỗ lực rất nhiều trong sự đổi mới phương pháp dạy học. Và thực tế, ngành giáo dục cũng đã từng bước gặt hái thành công. Việc đánh giá lại một phần nhỏ sự thật trong giảng dạy của giáo viên để từ đó thiết lập một hướng tiếp cận căn cơ hơn có thể phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là điều cần thiết. Đặc biệt, nắm bắt thực trạng học Lí luận văn học ở học sinh lớp 11 để người dạy thấy rõ hơn trọng trách của bản thân trong quá trình dạy Lí luận văn học ở năm đầu cấp. Đó cũng là phương cách khắc phục hội chứng xem xét văn bản văn học ở một góc độ duy nhất là nội dung tư tưởng. PHẦN II TỔ CHỨC MỘT GIỜ DẠY HỌC LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở LỚP 10 Mặc dù trong chương trình lớp 10, chỉ có 2 tiết dạy về Lí luận văn học, nhưng cũng là một thử thách lớn đối với giáo viên. Là một bộ phận của phân môn Văn, dạy bài Lí luận văn học cũng phải nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn Văn; tuân thủ và vận dụng những nguyên tắc, phương pháp chung trong dạy học Văn. Tuy nhiên, bài Lí luận văn học có những đặc điểm riêng đòi hỏi khi dạy người giáo viên phải cân nhắc. Để dạy tốt, điều cần thiết đối với mỗi giáo viên là phải nắm được nguyên tắc dạy học Lí luận văn học và có những biện pháp, cách thức phù hợp. 1. Những nguyên tắc cơ bản khi dạy LLVH 1.1. Đảm bảo đặc trưng phân môn trong quá trình dạy học Trong bộ môn Văn học thì phân môn Lí luận văn học thực sự khó hơn cả vì nó đòi hỏi người học phải có một trình độ tư duy và kiến thức nền tảng nhất định. Đứng trước điều kiện này, cả người dạy và người học đều gặp những thách thức. Xét riêng về phía giáo viên, để truyền thụ những kiến thức lí luận cụ thể, lại khá phong phú, trong sự khống chế của thời lượng, giáo viên cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Dù kiến thức lí luận khó, nhiều nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của nó vẫn là cách tiếp cận và phân tích tác phẩm văn học.
  10. - Do tính chất đặc điểm là một môn lí thuyết, Lí luận văn học là những tri thức trừu tượng, khái quát, vì vậy dạy học Lí luận văn học không thể tách rời thành đơn vị kiến thức đơn lẻ, độc lập mà phải xuất phát từ tác gia, tác phẩm, lịch sử văn học, qua đó cung cấp kiến thức cơ bản. Từ những yêu cầu này, ta nhận thấy kiến thức lí luận sẽ được hình thành từ hai nguồn: thứ nhất là từ các tiết dạy theo phân phối chương trình, thứ hai là lời giảng giải của giáo viên qua các tiết Đọc văn. Với thực tiễn giờ dạy Đọc văn khá rộng rãi, người giáo viên với sự thông minh, khéo léo của mình chắc chắn sẽ có những giải pháp tốt nhất để có thể cung cấp những kiến thức lí luận vừa đầy đủ vừa phong phú, sâu sắc. Ở đây, cần phân biệt với nguyên tắc tích hợp. Bởi lẽ quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở lí luận xuất phát từ đặc trưng của phân môn: Lí luận phải gắn liền với thực tiễn. Trong các giờ đọc văn, nếu có sự bổ sung, minh họa bằng các kiến thức lí luận, học sinh sẽ có cơ hội tiếp cận với những khái niệm vốn nằm im lặng trong những mệnh đề: đề tài, chủ đề, hình tượng nghệ thuật… Tuy nhiên cũng cần lưu ý tới hiện tượng về các quan điểm lí luận khác nhau, người giáo viên phải nắm lấy những vấn đề chuẩn xác, tránh sa vào các vấn đề còn tranh cãi. Có đặc điểm của một môn học lí thuyết, giáo viên không thể dạy Lí luận văn học suông được mà đòi hỏi phải có sự thực hành trong đó. Đây là nguyên tắc đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với môn học lí thuyết. Với những bài tập mang tính sáng tạo, bắt buộc học sinh khi làm phải có kiến thức tổng hợp sẽ là thước đo hiệu quả nhất về mức độ thành công trong quá trình dạy và học Lí luận văn học của cả giáo viên và học sinh. 1.2. Thực hiện tích hợp linh hoạt với Đọc văn và Làm văn Tích hợp là một xu hướng của đổi mới dạy học. Không chỉ riêng ở môn Ngữ văn, mà ở tất cả các môn học khác, việc tích hợp phù hợp, khoa học sẽ mang lại nhiều lợi ích lớn trong dạy và học. Vấn đề này không cần phải tranh cãi. Xét ở phân môn Văn, với sự góp mặt của các bộ phận như: Đọc hiểu văn bản, Văn học sử, Lí luận văn học, người giáo viên cần biết giải quyết mối quan hệ nội tại giữa các bộ phận bằng cách tích hợp. Lấy văn bản văn học làm
  11. trung tâm, điều quan trọng giáo viên phải làm được là định hướng cho học sinh những con đường có thể tiếp cận với văn bản được. Nói vậy cũng có nghĩa dạy Lí luận văn học không thể tách rời phần phân tích văn bản và ngược lại. Thực hiện tích hợp giữa Lí luận văn học và phân tích tác phẩm một mặt làm cho bài viết của học sinh trở nên sắc sảo hơn, hấp dẫn hơn, mặt khác cũng tránh cho học sinh rơi vào trường hợp bị giáo viên nhận xét là bài viết sơ sài, thiếu sự thuyết phục. Để việc tích hợp không mang tính chất khiên cưỡng, áp đặt, bản thân giáo viên phải có ý thức tích hợp, đồng thời phải nắm bắt thời điểm nào, chọn nội dung gì, tích hợp ra sao, chứ không phải tích hợp một cách tùy tiện, cơ học. Giáo viên có thể lựa chọn cách tích hợp ngang, dọc hoặc kết hợp cả hai cách. Tuy nhiên, khi quyết định cách tích hợp nào, giáo viên cũng cần chú ý đến chủ đề chung giữa hai đối tượng tác phẩm và vấn đề Lí luận văn học. Không thể tích hợp nếu hai đối tượng này không có điểm đồng quy hay tiếp xúc với nhau. Tích hợp ngang là sự tích hợp diễn ra thường xuyên đối với từng bài học và nội dung tích hợp quan trọng có thể tìm thấy kết quả ngay trong tiết học đó. Khi tiến hành tích hợp ngang, giáo viên cần xác định ý trọng tâm và đan xen lồng ghép vấn đề lí luận. Trong trường hợp này, nếu không xác định được vấn đề trọng tâm và lồng ghép nội dung lí luận, giáo viên sẽ rơi vào trạng thái khoe khoang kiến thức không cần thiết. Bởi lẽ, ở mỗi tác phẩm đều có ít hay nhiều vấn đề, trong đó không phải vấn đề nào cũng chính, cũng quan trọng. Tích hợp dọc là sự tích hợp thường diễn ra ở các đề bài, nhất là các dạng đề tổng hợp, sử dụng trong thi học sinh giỏi. Với tích hợp dọc, giáo viên phải đặt ra vấn đề lí luận trước, sau đó dùng tác phẩm văn học làm sáng tỏ các chủ đề đó. Trong quá trình phân tích đó, có các ý cần được khái quát theo nguyên tắc tích hợp ngang. Khi ấy ta đã có sự kết hợp hai cách thức tích hợp cả ngang và dọc. Thường thực hiện tích hợp dọc giữa Lí luận văn học với phân môn Làm văn.
  12. Có một thực tế là không phải ở bất cứ bài học nào về tác phẩm cũng lồng lí luận vào mà chỉ chọn những ý trọng tâm. Nếu tích hợp không đúng lúc, đúng ý sẽ làm bài dạy trở nên nặng nề, thậm chí mang tính lối mòn. Thế nhưng, điều đó cũng không có nghĩa là thỉnh thoảng mới tích hợp cho có, cho phù hợp với sự đổi mới trong phương pháp dạy học. Ngược lại, giáo viên phải tiến hành thường xuyên việc tích hợp này. Có như vậy, học sinh mới có thói quen cảm nhận văn học không chỉ bằng cảm tính mà còn là nhận thức lí tính. Những nỗ lực của giáo viên trong qúa trình dạy phải tỉ lệ thuận với sự cố gắng của người học trong quá trình học. Có vậy, mới có thể nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là trong giảng dạy môn Ngữ văn. Việc nắm được nguyên tắc trong giảng dạy phân môn sẽ phần nào giúp giáo viên vượt qua các khó khăn, rào cản trong chuyên môn và tâm lí. 2. Những biện pháp, cách thức có thể vận dụng khi dạy bài Lí luận văn học ở lớp 10 2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà trước khi lên lớp Để có thể tiếp thu tốt nhất kiến thức bài học mới, học sinh phải xem bài mới ở nhà. Điều này càng trở nên thiết thực hơn khi học sinh học phần Lí luận văn học. Bởi lẽ ở phân môn Văn, Lí luận văn học là kiến thức nền tảng, căn bản. Mặt khác, Lí luận văn học rất trừu tượng, khó hiểu. Thời gian thực hiện cho một đơn vị kiến thức không nhiều, chỉ có một tiết ít ỏi. Đảm bảo được yêu cầu cần đạt về nội dung và sự hiểu biết, vận dụng của học sinh là việc khó của giáo viên. Vì vậy trước mỗi bài học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh học bài bằng hệ thống câu hỏi hợp lí, vừa sức, khoa học và đưa danh sách bài đọc tham khảo. Hệ thống câu hỏi giáo viên có thể lấy từ phần hướng dẫn học bài hoặc căn cứ vào tình hình thực tiễn, đặt ra câu hỏi hoặc vấn đề thảo luận phù hợp. 2.2. Lấy dẫn chứng tiêu biểu trong chương trình học để làm sáng rõ vấn đề Lí luận văn học có tính chất của một môn lí thuyết. Vì vậy để những kiến thức đó không qúa xơ cứng và khô khan, khó hiểu, xa lạ với học sinh, giáo viên cần đưa ví dụ vào để tiết học thêm sinh động, cuốn hút. Hãy để học
  13. sinh tự lĩnh hội nội dung của vấn đề thông qua việc phân tích ví dụ. Giáo viên chỉ nên định hướng, gợi dẫn. 2.3. Xác định kiến thức trọng tâm Ở cấp Đại học, Lí luận văn học là môn học quan trọng không chỉ đối với sinh viên ngành Ngữ văn mà cả các ngành có liên quan đến văn hóa nghệ thuật. Môn này cũng là một trong hai môn thi tốt nghiệp. Điều này càng nói lên tầm quan trọng của nó. Ở cấp THPT nói chung và lớp 10 nói riêng, Lí luận văn học dù vẫn giữ nguyên tính chất quan trọng của nó nhưng quy mô, vị trí, nội dung bị thu hẹp. Đến nỗi, cả người dạy và học Lí luận văn học đều có chung cảm nhận đang cưỡi ngựa xem hoa. Vấn đề lí luận đặt ra trong chương trình không phải ít nhưng thời gian có hạn, vậy người giáo viên cần làm gì để học sinh vẫn tiếp thu và vận dụng được vào trong bài viết của mình? Thực sự giáo viên nên tính đến tình trạng tiếp thu không đều của học sinh, việc trình bày trên lớp các vấn đề lí luận phải thật khúc chiết, mạch lạc, tránh rườm rà, rắc rối. Cần xác định kiến thức trọng tâm và tập trung vào nội dung đó. Thà để hiểu học sinh hiểu sâu, hiểu đúng một số vấn đề cơ bản còn hơn là cái gì cũng biết mà biết không đến nơi đến chốn. 2.4. Chọn thời điểm thích hợp để dạy bài Lí luận văn học Ngoài chuyện tích hợp thường xuyên trong các bài đọc hiểu văn bản, giáo viên nên chủ động chọn thời điểm thích hợp để dạy các bài lí luận văn học. Theo phân phối chương trình hiện nay, phần lớn các bài Lí luận văn học thường ở cuối học kì và cuối năm học. Tất nhiên, cách sắp xếp vị trí này cũng chứa đựng nhiều ẩn ý của các nhà biên soạn sách. Nhưng bên cạnh cái được, điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lí và hiệu quả dạy, học các bài học này. Liệu có nên chăng tổ chức cho học sinh học các bài lí luận vào những thời điểm thích hợp hơn? Chẳng hạn, vào giữa các học kì. Lúc này, các em đã có một vốn kiến thức cần thiết, đủ để phân tích dẫn chứng. Đồng thời, trong quá trình vận dụng, còn những thiếu sót gì nơi tiếp nhận và vận dụng của học sinh, giáo viên sẽ kịp thời chỉnh đốn. Theo chúng tôi, không nên để vào cuối năm, khi mọi việc gần như đã xong xuôi. Lúc đó học sinh sẽ tiếp nhận thụ
  14. động, uể oải vì bài học chỉ mang tính chất tổng hợp hoặc khái quát lại những gì đã học ở đọc hiểu văn bản. Trong trường hợp đó, Lí luận văn học cũng không thể phát huy được tính chất là công cụ hay “đèn chiếu sáng” cho học sinh. 2.5. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm Hoạt động nhóm là một hình thức, phương pháp, biện pháp dạy học tích cực. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra sâu sắc như hiện nay, kĩ năng hợp tác, hoạt động nhóm đòi hỏi phải được hình thành trong môi trường học đường. Môn Ngữ văn, trong tình hình này, không thể nằm ngoài quy luật vận động. Có điều ở phần Lí luận văn học, có áp dụng được hình thức hoạt động nhóm không? Được, thậm chí rất thích hợp với các bài lí luận ở khối 10. Có hai lí do để chọn hoạt động nhóm trong bài học này: - Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc dạy học môn lí thuyết, không thể tách rời giữa lí thuyết và thực hành. Lí luận văn học ở lớp 10 tập trung chủ yếu ở các tầng nghĩa, nội dung và hình thức của văn bản văn học. Vì vậy, giáo viên cần có bài tập vận dụng bên cạnh những vấn đề lí thuyết. Việc làm bài tập có sự vận dụng từ thấp lên cao sẽ bước đầu hình thành thói quen tốt trong tiếp cận văn bản văn học với đầy đủ các phương diện cấu thành của nó. Tuy nhiên, dạng bài tập vận dụng cao có độ khó nhất định, trong điều kiện thời gian hạn hẹp, trình độ học sinh không đồng đều, giáo viên cần thiết tổ chức ngoại khóa theo nhóm. - Thứ hai, hoạt động nhóm là một khái niệm rộng, trong dạy học Ngữ văn, riêng ở bài Lí luận văn học, có thể tổ chức nhiều hình thức cụ thể như: Thảo luận theo nhóm, giải thích cắt nghĩa theo nhóm, luyện tập theo nhóm, hay ngoại khóa theo nhóm… Các vấn đề lí luận không đơn giản, không dễ tiếp thu, việc tạo tình huống có vấn đề để học sinh giải quyết là nên làm. Để thực sự có kết quả trong hoạt động nhóm, giáo viên cần xác định được mục đích rõ ràng, đặt ra được tình huống có vấn đề hoặc một vấn đề trọng tâm với độ khó cao của bài học đòi hỏi phải có sự hợp sức của một nhóm học sinh. Đây cũng là nguyên tắc chung khi tiến hành hoạt động nhóm.
  15. 2.6. Sử dụng công nghệ thông tin Các phương tiện giảng dạy hiện đại như overhead, projector không thể là điều xa lạ đối với người dạy lí luận. Tuy nhiên hiện nay vẫn tồn tại một số giáo viên hơi e ngại sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, nhất là đối với các bài Lí luận văn học. Thực ra, ở một số bài học, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, sẽ trở nên hấp dẫn hơn rất nhiều hoặc qua việc sử dụng công nghệ thông tin, đây cũng là một thủ thuật của người giáo viên khi đối diện với vấn đề thời gian. Các bài học về Lí luận văn học ở lớp 10 có thể sử dụng công nghệ thông tin để trong hai tiết ngắn ngủi truyền đạt một lượng thông tin quá lớn như hiện tại. 2.7. Hình thức kiểm tra đánh giá đa dạng, phong phú Kiểm tra, đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của qúa trình dạy học, là thước đo hiệu quả dạy học. Có thể nói học để thi là tình trạng phổ biến hiện nay. Đề ra kiểu gì, học sinh sẽ tìm cách học theo kiểu ấy. Muốn khuyến khích học sinh phát biểu theo dòng cảm xúc thực đồng thời có cơ sở lí luận vững chắc, không có cách nào khác phải có dạng đề tương ứng. Tất nhiên không thể đưa ra những đề bài thuần chất lí luận, làm thế không khác đánh đố học sinh. Ra đề phù hợp là việc làm cần thiết mà mỗi giáo viên phải nghĩ đến và có sự đầu tư cao. Theo tinh thần đổi mới, việc kiểm tra, đánh giá không thể chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là xem học sinh có hiểu bài hay không mà quan trọng là khả năng vận dụng lí thuyết vào bài thực hành và qua đó giáo viên có thể phân loại được học sinh. Muốn vậy, đề bài phải đa dạng về hình thức. Sau khi học xong bài “Văn bản văn học”, “Nội dung và hình thức của văn bản văn học”, giáo viên có thể đưa ra các đề bài nghị luận theo hướng mở, như đi tìm vẻ đẹp văn chương của một tác phẩm cụ thể nào đó. Giáo viên có thể chọn những sáng tác vượt thời gian không có trong chương trình học để kích thích óc sáng tạo, cảm nhận thẩm mỹ của người học. Qua đó, giáo viên đo đếm mức độ thẩm thấu nghệ thuật của học sinh. Đương nhiên là bài tập mới không được quá sức với các em. Những biện pháp, cách thức nêu trên không phải là mới. Quan trọng là mang lại hiệu quả cho bài dạy thì chúng ta nên sử dụng. Và có lẽ còn nhiều vấn
  16. đề xoay quanh cách dạy tốt bài Lí luận văn học. Chúng tôi tin rằng mỗi thầy cô trong quá trình dạy cũng sẽ có cho riêng mình những kinh nghiệm quý báu. PHẦN 3 MỘT SỐ GỢI Ý TRONG THIẾT KẾ GIÁO ÁN, BÀI TẬP VÀ ĐỀ BÀI VỀ LÍ LUẬN VĂN HỌC 1. Một số gợi ý trong thiết kế giáo án Ở lớp 10 có một bài về văn bản văn học, được học trong 2 tiết. Mỗi tiết là một đơn vị kiến thức. Các nội dung chính được học lần lượt là: tiêu chí phân định, cấu trúc, nội dung, hình thức, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của văn bản văn học. Giáo viên tùy vào điều kiện thực tế từng địa phương, đặc điểm của học sinh mà lựa chọn phương pháp dạy hiệu quả. Ở đây chúng tôi chỉ gợi ý một số vấn đề xoay quanh bài dạy như: hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài và đọc tài liệu, các thao tác khi lên lớp và hướng dẫn học bài ở nhà. Sau đó, chúng tôi sẽ thiết kế một tiết học cụ thể 1.1. Mục tiêu cần đạt Giúp học sinh - Nắm các tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học theo quan niệm ngày nay. - Nắm các tầng của cấu trúc VBVH và mối quan hệ giữa các tầng đó. - Nắm các khái niệm về nội dung, hình thức và mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của VBVH. - Vận dụng những hiểu biết nói trên để tìm hiểu VBVH. 1.2. Phương pháp thực hiện 1.2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà - Đọc SGK bài “Văn bản văn học”, “Nội dung và hình thức của Văn bản văn học” và trả lời các câu hỏi phần Hướng dẫn học bài trong SGK - Tìm đọc một số tài liệu tham khảo, như: + Lí luận văn học. Phương Lựu (chủ biên). NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006
  17. + Một số tác phẩm thơ văn đã học. 1.2.2. Hướng dẫn học sinh đọc tài liệu - Đọc và ghi lại những kiến thức cần thiết liên quan đến bài học. Ở các tài liệu Lí luận văn học, đọc tập trung vào các chương viết về: + Văn học - nghệ thuật ngôn từ. + Bạn đọc - chủ thể tiếp nhận văn học. + Tác phẩm như một chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học. + Đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm văn học. - Đọc kĩ các bài “Văn bản văn học”, “Nội dung và hình thức của Văn bản văn học” trong SGK Ngữ văn 10. 1.3. Lên lớp - Có thể kết hợp nhiều biện pháp, cách thức như đã nêu ở mục 2, phần II. Tuy nhiên, ở mỗi tiết học, tùy theo kiến thức mà quyết định biện pháp, cách thức phù hợp. - Khi dạy, giáo viên cần phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. 1.4. Thiết kế giáo án cụ thể Tiết 1: Văn bản văn học A. Mức độ cần đạt - Nắm được các tiêu chí chủ yếu của một VBVH theo quan niệm ngày nay - Nắm được cấu trúc của VBVH với tầng ngôn từ, hình tượng, hàm nghĩa - Vận dụng những hiểu biết nói trên để tìm hiểu tác phẩm văn học. B. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng 1. Kiến thức - Các tiêu chí chủ yếu của một văn bản văn học - Cấu trúc của VBVH với các tầng: ngôn từ, hình tượng, hàm nghĩa 2. Kĩ năng - Phân tích TPVH theo đặc trưng thể loại - Cảm thụ tác phẩm có chiều sâu C. Nội dung lên lớp
  18. Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt Hoạt động 1: Tìm hiểu các tiêu chí I. Tiêu chí chủ yếu của văn bản văn của VBVH học GV cho HS quan sát một vài văn bản Ngày nay một văn bản được coi là sau VBVH khi: VB1: Bài ca dao “Thân em…tay ai” - Phản ánh và khám phá cuộc sống, VB2: Truyện An Dương Vương và bồi dưỡng tư tưởng và tâm hồn, thỏa Mị Châu – Trọng Thủy. mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người. VB3: Chiến thắng Mtao Mxây - Ngôn từ có nhiều tìm tòi sáng tạo, GV hỏi: Các VB trên phản ánh có tính hình tượng, có hàm nghĩa sâu những vấn đề nào? Em có nhận xét sắc. gì về những vấn đề đó? Để thể hiện - Được viết theo một thể loại nhất những vấn đề trên, yếu tố hình thức định với những quy ước thẩm mỹ nào quyết định? Dù các VB đều riêng: truyện, thơ, kịch... được xây dựng bằng yếu tố ngôn từ nhưng giữa các VB vẫn có sự khác nhau như thế nào? HS trả lời lần lượt từng câu hỏi. GV nhận xét, định hướng, trên cơ sở đó GV chốt lại các tiêu chí chủ yếu của VBVH. II. Cấu trúc của văn bản văn học Hoạt động 2: Tìm hiểu cấu trúc 1. Tầng ngôn từ- Từ ngữ âm đến VBVH ngữ nghĩa GV cho HS xét VD sau - Tìm hiểu tầng ngôn từ là tìm hiểu về “Thân em vừa trắng lại vừa tròn cả ngữ âm và ngữ nghĩa. Bảy nổi ba chìm với nước non - Tầng ngôn từ là bước thứ nhất cần Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn phải vượt qua để đi vào chiều sâu của Mà em vẫn giữ tấm lòng son” văn bản. ( Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương) 2. Tầng hình tượng GV hỏi: Để hiểu VB trên, em sẽ chú - Hình tượng được sáng tạo trong văn
  19. ý những từ ngữ chủ chốt nào? bản nhờ những chi tiết, cốt truyện, Trong VB trên, tác giả đã dùng nhân vật, hoàn cảnh, tâm trạng... những hình ảnh nào cùng những - Qua hình tượng, tác giả gửi gắm tính chất ra sao để nói lên ý của tình ý với cuộc đời. mình? Em có nhận xét gì về hình 3. Tầng hàm nghĩa tượng đó? Kết hợp hình tượng cùng - Hàm nghĩa là ý nghĩa ẩn kín, ý những từ ngữ chủ chốt, em hiểu gì nghĩa tiềm tàng về tâm sự của nhà thơ? - Có tìm ra hàm nghĩa mới hiểu ý tình HS làm việc theo nhóm. Sau đó cử sâu sắc của nhà văn. đại diện trình bày. GV nhận xét, định III. Từ văn bản đến tác phẩm văn hướng và đưa ra các kết luận quan học trọng về các tầng nghĩa của cấu trúc - Nhà văn sáng tác ra VBVH nhưng VBVH. ban đầu nó chỉ là một tập giấy có chữ, Hoạt động 3: Nhận biết quá trình văn chưa có sự tác động đến xã hội bản trở thành TPVH - Chỉ khi đến với người đọc, các giá GV hỏi: Khi nào một VB trở thành trị văn học vốn tiềm ẩn trong văn bản VBVH? sẽ được người đọc tiếp nhận. HS thảo luận theo nhóm - Với sự trải nghiệm của người đọc, GV nhận xét và định hướng tác phẩm sẽ tác động đến con người và cuộc đời. IV. Luyện tập Hoạt động 4: Kiểm tra và đánh giá Chia lớp thành 2 nhóm thảo luận. Nhóm 1 làm bài tập 1/trang 121 SGK, nhóm 2 làm bài tập 3/trang 123 SGK. Sau đó lần lượt các nhóm trình bày. GV nhận xét và chốt ý.
  20. Tiết 2: Nội dung và hình thức của Văn bản văn học A. Mức độ cần đạt - Nắm được các khái niệm về nội dung và hình thức của VBVH, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của VBVH. - Vận dụng những hiểu biết nói trên để tìm hiểu tác phẩm văn học. B. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng 1. Kiến thức - Các khái niệm về nội dung và hình thức của VBVH - Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của VBVH. 2. Kĩ năng - Phân tích TPVH theo đặc trưng thể loại - Cảm thụ tác phẩm có chiều sâu C. Nội dung lên lớp Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt Hoạt động 1: Tìm hiểu về các khái niệm của I. Các khái niệm của nội dung và nội dung và hình thức hình thức trong văn bản văn học Hs đọc phần I - SGK. 1. Các khái niệm của nội dung GV hỏi: Đề tài là gì? Phân tích qua ví dụ cụ a. Đề tài thể. - Là lĩnh vực đời sống được nhà văn HS trả lời cá nhân. GV nhận xét và định nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình hướng. giá và thể hiện trong văn bản. - Truyện Kiều: có đề tài là cuộc đời bất hạnh - Đề tài có thể rộng hay hẹp (một của người tài hoa, người phụ nữ. con người hay cả xã hội…) - Lục Vân Tiên: lấy đề tài là người trung nghĩa. - Tắt đèn: có đề tài là cuộc sống bi thảm của người nông dân Việt Nam trước CMTT... GV nói thêm: Các nhà văn thường lựa chọn đề tài mình hiểu biết sâu sắc và có cảm hứng mãnh liệt.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2