intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT DTNT qua công tác chủ nhiệm

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:39

119
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Xuất phát từ thực trạng ngoài xã hội và tình hình thực tế của nhà trường, mục tiêu mà tôi đặt ra là sau quá trình thực hiện, học sinh có sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời những hiểu biết và hoạt động sau khi thực nghiệm sẽ là kiến thức bổ ích hỗ trợ cho các em trong quá trình học tập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT DTNT qua công tác chủ nhiệm

  1. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài 1.1. Ngay từ những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, nhiệm vụ trọng tâm  của toàn dân ta là đẩy mạnh sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  nước. Chúng ta biết rằng, công nghiệp hóa và hiện đại hóa không phải là mục  đích tự thân, mà là một phương thức có tính phổ  biến để  thực hiện mục tiêu   của mỗi quốc gia. Sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa  ở  nước ta tiến  triển trước bối cảnh xu thế toàn cầu hóa về nhiều mặt đang gia tăng. Xu thế  đó là khách quan, chúng ta không thể  tách mình ra khỏi dòng chảy toàn cầu  hóa, mà phải chuẩn bị cho mình đầy đủ những năng lực nội sinh cần thiết để  chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Muốn vậy, trước hết vừa phải giữ được  bản sắc văn hóa dân tộc, vừa phải tiếp thu được những tinh hoa của văn hóa  nhân loại. Vì thế, Báo cáo chính trị  của Ban Chấp hành Trung  ương Đảng  Cộng sản Việt Nam khóa VIII trình trước Đại hội IX đã nhấn mạnh việc xây  dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự nghiệp Giáo dục và  Đào tạo có vai trò rất lớn trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Đó  là chiếc cầu nối giữa quá khứ ­ hiện tại ­ tương lai, góp phần tạo nên những  giá trị bền vững vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại. 1.2. Trường THPT DTNT N’Trang Lơng là một ngôi trường chuyên  biệt được thành lập ngay từ  khi tách tỉnh năm 2004, có trọng trách đào tạo  nguồn cán bộ  người dân tộc thiểu số cho tỉnh Đắk Nông. Ngôi trường là nơi   hội tụ của con em 15 dân tộc khác nhau trong toàn tỉnh, mỗi dân tộc mang một  bản sắc văn hóa khác nhau. Các em hội tụ về đây không chỉ để thực hiện khát   vọng con chữ, tìm cánh cửa lập thân lập nghiệp, góp phần xây dựng quê   hương mà quan trọng hơn, trong suốt ba năm chung sống, cùng ăn ở, học tập  chính là cơ  hội để  các em rèn luyện kỹ  năng sống, bồi đắp những hiểu biết   không chỉ  về  dân tộc mình mà còn hiểu thêm về  văn hóa của nhiều dân tộc   Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 1
  2. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm khác nhau. Đây chính là nguồn tri thức vô giá không có trường lớp nào có thể  đào tạo được mà chỉ có quá trình chung sống, san sẻ mới có cơ  hội tiếp cận.   Cho nên, đối với một giáo viên giảng dạy ở trường nội trú không chỉ đóng vai  trò là một người thầy giáo dục nhân cách và tri thức mà còn là người cha,   người mẹ thứ hai của các em, là chỗ  dựa tinh thần để  các em có thể  chia sẻ  những tâm tư, tình cảm khi phải sống xa gia đình. Đối với một giáo viên chủ  nhiệm còn đặc biệt quan trọng hơn nữa, là những người thầy đặc biệt, bởi  họ  không những phải làm nhiệm vụ  dạy dỗ  học trò như  các giáo viên khác,   mà còn phải gánh trên vai bao trách nhiệm nặng nề  khác, đóng vai trò làm  chiếc cầu nối giữa nhà trường với học sinh và gia đình học sinh, giữa các giáo  viên bộ môn với học sinh…Giáo viên chủ nhiệm không chỉ  là người thầy mà  trong nhiều tình huống còn phải là người cha, người mẹ, người bạn, chỗ dựa   tinh thần của các em.  1.3.   Trong   giáo   dục   đạo   đức   cho   học   sinh,   việc   giáo   dục   đạo   đức  truyền thống của dân tộc là rất quan trọng. Những giá trị  và chuẩn mực đạo  đức truyền thống của dân tộc Việt Nam đã được lưu giữ, truyền lại cho các  thế hệ và không ngừng được phát huy qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ  nước. Để  bảo tồn văn hóa, con người lấy việc giáo dục văn hóa làm quan  trọng. Con người sử  dụng trường học như một phương tiện hiệu quả trong   giáo dục văn hóa nhằm bảo tồn và phát triển văn hóa. Vì vậy,  ở  bất cứ  nơi   đâu, nhà trường đều có nhiệm vụ  giáo dục văn hóa cho học sinh. Mỗi học   sinh trường PTDTNT (phổ thông dân tộc nội trú) là đại biểu văn hóa của một  vùng quê, một dân tộc. Trường PTDTNT tạo điều kiện để học sinh được tiếp  xúc và thể nghiệm các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình để mạch  chảy văn hóa không ngừng được nuôi dưỡng và lớn mạnh. Trường PTDTNT   tổ chức các hoạt động tìm hiểu, thể hiện, giao lưu văn hóa để học sinh được  trao đổi học tập và cùng tham gia vào việc bảo tồn, phát triển các giá trị  văn  hóa dân tộc. Nhờ được tiếp xúc thường xuyên với các hoạt động văn hóa mà   Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 2
  3. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm học sinh trường PTDTNT vẫn là người con của dân tộc, đồng thời là người  hiểu biết và tôn trọng bản sắc văn hóa của các dân tộc anh em. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài Giáo dục bản sắc văn hóa   dân tộc cho học sinh THPT DTNT qua công tác chủ nhiệm làm đề tài nghiên  cứu. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ 2.1. Mục tiêu: Xuất phát từ thực trạng ngoài xã hội và tình hình thực tế  của nhà trường, mục tiêu mà tôi đặt ra là sau quá trình thực hiện, học sinh có   sự  chuyển biến tích cực trong nhận thức, ý thức giữ  gìn và phát huy bản sắc  văn   hóa   dân   tộc.   Đồng   thời   những   hiểu   biết   và   hoạt   động   sau   khi   thực  nghiệm sẽ là kiến thức bổ ích hỗ trợ cho các em trong quá trình học tập.   2.2. Nhiệm vụ: ­ Nghiên cứu, tìm hiểu sâu rộng về bản sắc văn hóa dân tộc của nhiều dân  tộc khác nhau, tập trung vào các dân tộc hiện có học sinh đang theo học trong nhà  trường. ­ Tích cực thâm nhập thực tế, tìm hiểu qua các lễ  hội tại địa phương,   qua tiếp xúc với phụ huynh học sinh… ­ Xây dựng chương trình, kế  hoạch cụ  thể, chú ý khâu theo dõi, đánh   giá khả năng, mức độ thực hiện của học sinh. ­ Đề ra được những giải pháp, cách thức cụ thể, có tính khả thi cao 3. Đối tượng nghiên cứu Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi tập trung vào đề tài Giáo dục bản   sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT DTNT qua công tác chủ  nhiệm   được rút ra từ quá trình làm công tác chủ nhiệm của bản thân. 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Do đặc thù của nhà trường và từ thực tiễn công tác, tôi tập trung khảo   sát thực trạng vấn đề  đó là thái độ, ý thức của học sinh đối với những giá trị  Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 3
  4. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm văn hóa dân tộc và đã mạnh dạn đề  xuất cách thức, giải pháp thực hiện để  giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trường PTDTNT một cách  hiệu quả. 5. Phương pháp nghiên cứu  ­ Điều tra, áp dụng thực tế ­ Phân tích, tổng hợp PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận   1.1. Khái quát chung về bản sắc văn hóa dân tộc     1.1.1. Trong phần cu ối t ập  Nhật ký trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã viết: “Vì lẽ  sinh tồn cũng như  mục đích của cuộc sống, loài người mới   sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ  viết, đạo đức, pháp luật, kho học,   tôn giáo văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,   mặc,  ở và các phương thức sử  dụng. Toàn bộ  những phát minh và sáng tạo   đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng   biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng những   nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sinh tồn”.   Khái niệm "văn hoá" theo Từ  điển Tiếng Việt, có các nghĩa:  ­ Toàn thể  những thành tựu của loài người trong sản xuất, xã hội và  tinh thần: "văn hoá xã hội chủ  nghĩa". Sự  hiểu biết về  sự  vật hay về  cách  xử thế tích lũy bằng việc học tập có hệ thống hoặc thấm nhuần đạo đức và   phép tắc lịch sự. Khái niệm "văn hoá" được hiểu như  trên để  phân biệt với  khái niệm văn hiến.  ­ Chỉ văn vật, “văn minh” Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 4
  5. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm  ­ Chỉ giai đoạn phát triển của xã hội loài người... có trình độ tổ chức và  sinh hoạt cao.  Như vậy, khái quát lại, văn hóa là sự hợp nhất giá trị sáng tạo của con  người trải qua nhiều thế hệ, bao gồm nhiều lĩnh vực, đa dạng về sản phẩm.  Sản phẩm văn hóa tồn tại theo hình thức vật chất hay phi vật chất. Sản phẩm   văn hóa không ngừng được con người sáng tạo, lưu giữ, vận dụng và phát  triển. Văn hóa dân tộc bao gồm giá trị  văn hóa của cộng đồng dân tộc sáng  tạo trong suốt quá trình lịch sử  hình thành và phát triển của dân tộc đó. Tùy  tình hình vận động và phát triển của mỗi dân tộc mà quy mô và bề  dày sáng  tạo văn hóa của từng dân tộc có khác nhau. Văn hóa dân tộc được bảo tồn và  phát triển có nghĩa là một dân tộc được tồn vong.   1.1.2. Thuật ngữ “bản sắc” nhấn mạnh cái riêng tạo thành phẩm cách,  tài năng. Cũng cần phân biệt, từ “đặc biệt” chỉ sự khác xa mức thường, “đặc   điểm” chỉ  những nét riêng biệt, “đặc trưng” chỉ  dấu hiệu đặc biệt nổi trội.   “Bản sắc văn hoá” là những đặc điểm riêng biệt, có giá trị  cao, gồm những   giá trị vật chất và tinh thần được tích luỹ  và phát triển trong tiến trình đi lên   của một dân tộc, nó quy định vị trí riêng biệt về mặt xã hội của một dân tộc.   Những giá trị đó có thể có ở mọi dân tộc, song ở dân tộc có bản sắc văn hoá   được biểu hiện đậm nét, sâu sắc và đặc biệt hơn. Hệ thống cấu trúc bản sắc  văn hoá dân tộc: Theo Giáo sư  Phạm Hoàng Gia, một nhà nghiên cứu về văn   hóa cho rằng:  hạt nhân của bản sắc dân tộc gồm: lối sống; tâm thức – lối  ứng xử; ngôn ngữ.  Ở góc độ giá trị tinh thần xã hội, bản sắc văn hoá được thể hiện ở lối   sống, cách ứng xử, cách thể hiện ở nếp sinh hoạt, ngôn ngữ, giao tiếp… một   cách đặc biệt, khó có thể trộn lẫn. Chẳng hạn, đối với người Nhật Bản, họ  có thái độ  niềm nở, lịch sự, cẩn thận, chu đáo, ý thức chấp hành, ý chí theo  đuổi đến cùng mục tiêu công việc… là những nét biểu hiện rõ nét đến mức   bất cứ ai đến Nhật Bản đều thừa nhận đó là “bản sắc văn hoá Nhật Bản”. Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 5
  6. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm  1.2. Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc chung sống với giá trị  văn  hóa dân tộc rất đa dạng và đặc sắc. Các dân tộc đều có nền văn hóa riêng   được khẳng định bằng những giá trị  sáng tạo giàu có và bản sắc. Trong quá  trình phát triển, văn hóa Việt Nam đã phát triển bằng “biến động” và “hấp   thụ” hết sức phong phú để nó là chính nó, thậm chí sâu sắc hơn, đa dạng hơn.   Do kết tinh những điều kiện tự  nhiên, lịch sử  và mối quan hệ  giao lưu mà   ngoài đặc trưng riêng của từng dân tộc thì các nền văn hóa còn hình thành đặc   trưng theo vùng. Việt Nam có thể chia thành 6 vùng văn hóa, gồm: vùng Đông  Bắc, vùng Tây Bắc, vùng Tây Bắc, vùng châu thổ  Bắc Bộ, vùng Trung Bộ,  vùng Tây Nguyên, vùng Nam Bộ. Mỗi vùng văn hóa có những đặc điểm chung   và riêng. Việc phân chia 6 vùng văn hóa là tương đối, ngày nay trong bối cảnh   hội nhập kinh tế và giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, giá trị văn hóa của mỗi   tộc người đều chịu những tác động tích cực và tiêu cực. Văn hóa dân tộc đã có  những yếu tố được làm giàu, phát triển, nhưng cũng có một số yếu tố bị biến   dạng, hòa tan, mất bản sắc. Chính điều này đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải   bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu   số. 2. Cơ sở thực tiễn   2.1. Xuất phát từ mục tiêu xây dựng con người Việt Nam thời đại mới Chủ trương xây dựng con người văn hóa luôn được Đảng, Nhà nước coi   trọng, tiếp tục kế thừa những nội dung của Nghị  quyết TW 5 khóa VIII, Nghị  quyết Trung ương 9 đã chỉ rõ: “So với những thành tựu trong lĩnh vực chính trị,   kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa   tương xứng, chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và xây dựng   môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo   đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng… Môi trường   văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai trái với thuần phong mỹ   tục, tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng” . Và đây cũng là một trong  Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 6
  7. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm những nguyên nhân của “kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả  sức cạnh tranh thấp”. Nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước  trong khu vực và thế giới chưa được đẩy lùi mà còn có chiều hướng gia tăng. Từ  thực tiễn nêu trên đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị  khi triển khai thực hiện phải quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa   xây dựng kinh tế  với phát triển văn hóa, phải xây dựng và thực hiện đồng bộ  chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa, đảm bảo cho  văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy các hoạt động kinh tế,  tạo điều kiện nhiều hơn cho sự  nghiệp phát triển văn hóa. Việc xây dựng các   mục tiêu giải pháp kinh tế phải gắn với các mục tiêu giải pháp văn hóa, chăm lo   con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng văn minh  thương nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn hóa sinh thái… Chương trình xây dựng và phát triển văn hóa phải vì mục tiêu phát triển   toàn diện con người, hoàn thiện nhân cách con người, với nhiệm vụ trọng tâm   là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính   cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Các hoạt động của hệ thống giáo dục ­ đào tạo, của hệ thống thiết chế  văn hoá, khoa học phải hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế  giới quan khoa học, gắn giáo dục, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con  người, quyền và nghĩa vụ công dân, bồi dưỡng tri thức, nâng cao trí lực và kỹ  năng sống, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại  hoá, của nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa và hội nhập   quốc tế, của kinh tế  tri thức và xã hội học tập, của sự  nghiệp xây dựng và   bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Phải thực sự coi trọng giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng lối sống cao đẹp:   “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, lối sống có ý thức tự  tôn, tự  trọng, tự  chủ; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; ý thức  bảo vệ môi trường, lối sống kết hợp hài hoà tính tích cực cá nhân và tích cực   Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 7
  8. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm xã hội, đề cao trách nhiệm của cá nhân với bản thân, với gia đình và xã hội;  biết khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái thiện, cái đẹp, cái cao thượng và nhân  rộng các giá trị nhân văn cao đẹp. Coi trọng phát triển văn học nghệ thuật và  phát huy vai trò của văn học, nghệ  thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình  cảm, nhân cách của con người. Tăng cường giáo dục nghệ  thuật, nâng cao  năng lực cảm thụ  thẩm mỹ  cho nhân dân, đặc biệt cho lớp trẻ. Bảo đảm  quyền hưởng thụ  và sáng tạo văn hoá của mỗi người dân và của cả  cộng   đồng. Thực sự coi trọng giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao thể lực, tầm  vóc con người Việt Nam. Do đó, các lĩnh vực văn hóa như: Giáo dục ­ đào tạo, khoa học ­ công  nghệ, văn học, nghệ thuật, báo chí truyền thông, di sản văn hóa, thể chế, thiết  chế văn hóa, văn hóa tôn giáo, giao lưu văn hóa và tất cả các thành tố của môi  trường văn hóa (gia đình, các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện, đơn vị  lực lượng vũ trang, các bản làng, phường, xã…) trong chương trình hoạt động  của mình phải hướng tới hiện thực hóa mục tiêu chung: Xây dựng nền văn  hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng đến Chân – Thiện –  Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học để văn hóa  thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; là sức mạnh nội  sinh quan trọng, bảo đảm sự  phát triển bền vững và bảo vệ  vững chắc Tổ  quốc, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. 2.2. Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của ngành giáo dục Từ  chủ  trương, đường lối của Đảng, ngành giáo dục cũng vận dụng  các giá trị văn hóa là mục tiêu quan trọng, trong Luật giáo dục đã khẳng định:  “Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu  tinh hoa văn hóa nhân loại” (Điều 5, Chương 1, Luật GD sửa đổi bổ sung năm  2009). Bên cạnh đó chính sách trọng tâm đã và đang thực hiện là phong trào thi  đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong Chỉ  thị  số  40/2008/CT­BGĐT ngày 22/7/2008 đã nêu rõ: “Mỗi trường đều nhận chăm   Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 8
  9. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm sóc một di tích lịch sử, văn hóa hoặc di tích cách mạng  ở  dịa phương, góp   phần làm cho di tích ngày càng sạch đẹp hơn, hấp dẫn hơn; tuyên truyền,   giới thiệu các công trình, di tích của địa phương với bạn bè. Mỗi trường có   kế  hoạch và tổ  chức giáo dục truyền thống VHDT và tinh thần cách mạng   một cách hiệu quả cho tất cả học sinh; phối hợp với chính quyền, đoàn thanh   niên và nhân dân địa phương và phát huy giá trị  của các di tích lịch sử, văn   hóa và cách mạng cho cuộc sống của cộng đồng ở địa phương và khách…”. 2.3. Xuất phát từ tình hình thực tiễn của nhà trường   2.3.1. Là một tỉnh phía Nam Tây Nguyên, Đắk Nông như  một bản  trường ca huyền bí giữa núi rừng đại ngàn, nơi thượng nguồn của dòng sông   Đồng Nai thơ  mộng được bao bọc bởi những cánh rừng nguyên sinh, những  thác nước còn mang vẻ hoang sơ, hùng vĩ, và những đồi càfe, cao su ngút ngàn   trải dài từ Bắc chí Nam. Đất lành thì chim đậu, mặc dù là một tỉnh mới được   thành lập 12 năm nay nhưng Đắk Nông là nơi hội tụ của hơn 20 dân tộc khác   nhau trên cả nước, trong đó hai dân tộc bản địa là Mạ, MNông chiếm đa số.   Trên cơ sở đó, ngay khi thành lập tỉnh trường PTDTNT tỉnh cũng được thành  lập, mục đích đào tạo nguồn cán bộ người dân tộc thiểu số cho tỉnh nhà. Năm đầu thành lập, nhà trường có 120 em học sinh chia thành 4 lớp,   cho đến nay, quy mô nhà trường đã khang trang bề  thế  về  cả  số  lượng và  chất lượng với hơn 400 em học sinh, các em là con em của các dân tộc trên  toàn tỉnh từ buôn làng xa xôi, hẻo lánh đến trung tâm huyện, thị. Ngôi trường   trở  thành ngôi nhà chung của con em 15 dân tộc khác nhau, các em đến đây  không chỉ học tập mà cùng chung sống với nhau suốt 3 năm học.  Là một ngôi trường chuyên biệt với đặc thù là đào tạo học sinh người   dân tộc thiểu số, cho nên, trường THPT DTNT N’Trang Lơng luôn nhận được   sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước, các cơ quan ban ngành, các tổ chức  xã hội từ TW tới địa phương. Đã nhiều lần nhà trường được đón các vị  lãnh  đạo cấp cao của Đảng, nhà nước tới thăm trường như  Phó Chủ  tịch nước   Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page 9
  10. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm Nguyễn Thị Doan, nguyên PCT nước Trương Mĩ Hoa, Phó Bí thư thường trực  TW Đảng Đinh Thế Huynh. Trong mỗi lần thăm trường, lãnh đạo Đảng, nhà  nước đều nhấn mạnh: nhà trường không chỉ  tập trung giáo dục văn hóa mà  còn phải coi trọng giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho các thế hệ học sinh. 2.3.2. Trước thực trạng đáng buồn mà chúng ta phải thẳng thắn nhìn  nhận đó là sự  mai một, lai tạp các giá trị  văn hóa truyền thống, đặc biệt là  trong giới trẻ hiện nay, các em đang đánh mất dần những thuần phong mĩ tục,   chạy theo lối sống lai căng, đua đòi, hưởng thụ, thờ ơ trước những giá trị văn   hóa của dân tộc. Thực trạng này cũng đang diễn ra tại ngôi trường mà tôi  đang giảng dạy. Trong hơn 10 năm gắn bó với biết bao thế  hệ  học sinh, tôi  nhận thấy càng thế  hệ  sau sự  hiểu biết về  các giá trị  văn hóa dân tộc càng  giảm sút. Các em không sử dụng thậm chí là không biết ngôn ngữ  của chính  dân tộc mình, nhất là học sinh dân tộc phía Bắc (Thái, Tày, Nùng…); không  biết hoặc biết rất mơ  hồ  về  phong tục tập quán của dân tộc mình như: lễ  hội, các làn điệu dân ca, nghi thức trong ma chay, cưới hỏi…; ngay cả trong  cuộc sống hàng ngày, các em cũng rất ít, gần như  không mặc, trang phục  truyền thống của dân tộc mình. Từ  quá trình dạy dỗ, gắn bó với các em qua công tác giảng dạy, đặc   biệt là chủ  nhiệm, tôi nắm được sơ  bộ  về  nguyên nhân dẫn đến hiện trạng   trên: Thứ  nhất, xuất phát từ  nếp nghĩ của bản thân, các em luôn tự  ti, mặc   cảm bản thân là người dân tộc thiểu số, không văn minh, không đẹp nên  không muốn mặc trang phục dân tộc và sử dụng tiếng mẹ đẻ vì không muốn  mọi người xung quanh gọi là “người dân tộc”. Bên cạnh đó, trang phục dân  tộc thường vướng víu, bất tiện, không hợp mốt lại phải rất tốn công sức,   tiền bạc mới có được một bộ (nhất là trang phục thổ cẩm, váy áo của người   Mông…). Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  10
  11. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm Thứ hai, trong quá trình chung sống với nhiều dân tộc khác nhau nên ảnh  hưởng cách sống, cách nghĩ của nhau, đặc biệt là gia đình của chính các em cũng   không coi trọng việc giáo dục con em mình giữ gìn và phát huy những bản sắc  dân tộc. Thứ  ba, là những  ảnh hưởng, tác động quá lớn của lối sống hiện đại  đặc biệt là công nghệ  thông tin, sự  cám dỗ, hấp dẫn của mạng xã hội, trò  chơi điện tử, phim ảnh không lành mạnh. Thứ  tư,  là môi trường giáo dục nhà trường chưa đồng bộ  trong việc   giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh, giáo viên chủ  yếu tập trung  vào chuyên môn và cũng không chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu các phong tục  tập quán, bản sắc văn hóa của các dân tộc để  giáo dục học sinh; trong công  tác chủ nhiệm thường chỉ chú trọng khâu quản lý, nhắc nhở học sinh học tập,   duy trì nề nếp thực hiện kế hoạch, nội quy của nhà trường… chứ  không coi   trọng công tác giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh. 3. Giải pháp, cách thức giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học   sinh THPT qua công tác chủ nhiệm    Trong môi trường giáo dục nhà trường, giáo viên chủ  nhiệm là đối  tượng gần gũi nhất với học sinh, là người trực tiếp quản lý, điều hành các  hoạt động của lớp học. Hơn 12 năm công tác thì có tới 9 năm làm công tác  chủ  nhiệm, từ  thực tiễn áp dụng của bản thân, tôi mạnh dạn chia sẻ  những   giải pháp và cách thức trong giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh,   cụ thể như sau:   3.1. Chú trọng giáo dục ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa   dân tộc cho học sinh Sự  mai một các giá trị  văn hóa, bản sắc dân tộc cũng xuất phát từ  ý  thức của mỗi con người, cho nên làm công tác chủ nhiệm, giáo viên phải chú  trọng việc giáo dục ý thức cho học sinh. Trước hết, cần giúp các em hiểu giá  Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  11
  12. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm trị  của mỗi dân tộc, ý nghĩa của các giá trị  truyền thống, nét đẹp văn hóa  truyền thống; giáo dục các em phải luôn tự tôn, tự hào về những bản sắc rất   riêng của dân tộc mình; phân biệt rõ cho các em hiểu thế  nào là sự  tiếp thu  học hỏi để làm phong phú văn hóa và thích nghi với cuộc sống, thế nào là sự  lai căng, pha tạp không cần thiết. Việc giáo dục ý thức cho các em không  được hời hợt, có lệ  mà phải thường xuyên, từ  từ. Đối với giáo viên trường   DTNT thuận lợi hơn, bởi không chỉ qua các tiết sinh hoạt hay 15 phút đầu giờ  mà còn gặp gỡ  các em qua các buổi chiều, tối tự  học. Chúng ta không tuyên  truyền bằng lý thuyết suông mà cần phải khéo léo đề ra quy định hoặc nhắc   nhở  các em thực hiện, chẳng hạn đề  ra quy định thứ  2 với thứ  7 trong tuần   các em phải mặc trang phục dân tộc, muốn vậy bản thân giáo viên chủ nhiệm  cũng phải làm mẫu, cũng phải mặc áo dài đến trường. Đồng thời, giúp học  sinh thấy được trang phục truyền thống của mỗi dân tộc không phải ngẫu  nhiên xuất hiện và tồn tại mà được tạo ra dần trong suốt quá trình hình thành,   tồn tại và phát triển qua chiều dài lịch sử  dựng nước và giữ  nước. Nó là thứ  văn hóa " tinh túy" được chắt lọc trong quá trình ứng xử của con người, trong   quan hệ  tương tác với môi trường tự  nhiên và môi trường xã hội, giữa con  người với con người trong cùng môi trường sống. Việc giáo dục giúp học  sinh biết được nguyên nhân, ý nghĩa, sự  tồn tại trang phục truyền thống của  dân tộc mình và các dân tộc khác. Từ  đó, học sinh mới hiểu rõ nhờ  có trang  phục truyền thống và các yếu tố văn hóa khác mà các dân tộc mới đủ sức tồn   tại trong cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam, đủ sức vượt qua các cuộc  đồng hóa của nền văn hóa ngoại lai, đủ bản lĩnh chiến thắng giặc ngoại xâm  để  giữ  vững nền độc lập tự  chủ  của dân tộc. Đồng thời, giáo dục còn giúp   cho học sinh hiểu một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa nói chung, trang  phục truyền thống của dân tộc mình nói riêng thì sớm muộn và tất yếu cũng  sẽ bị dân tộc khác đồng hóa.Việc giữ gìn và bảo tồn trang phục truyền thống   Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  12
  13. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm có tầm quan trọng đối với việc nhận thức về sự tồn tại của chính cộng đồng  đó trong lịch sử. Bên cạnh đó, giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở  các em phải biết  trân quý những bản sắc của dân tộc mình như  thường xuyên sử  dụng tiếng  mẹ  đẻ, tìm hiểu các phong tục tập quán lâu đời, lễ  hội của dân tộc mình… không chỉ trên lớp học mà qua các buổi gặp gỡ, trò chuyện với các em ở kí túc  xá. 3.2. Xây dựng kế hoạch cụ thể, hướng dẫn, tổ chức các hoạt động   nhằm giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh Muốn thực hiện được điều này bản thân giáo viên chủ  nhiệm phải có  sự  hiểu biết sâu rộng về  bản sắc văn hóa và các phong tục tập quán của  nhiều dân tộc khác nhau, nhất là các dân tộc bản địa như Mạ, M Nông và một   số dân tộc phổ biến như Tày, Thái, Mường, H Mông…Do vậy, để có thể giáo   dục được học sinh một cách hiệu quả, GVCN phải tự  nghiên cứu, tìm hiểu   qua sách báo, Internet, thậm chí là từ chính học sinh mình đang giảng dạy. Trước khi bắt tay vào hướng dẫn học sinh, GVCN cần xây dựng kế  hoạch ngay từ  đầu năm học, tốt nhất là dựa vào kế  hoạch của nhà trường,   các chủ điểm hoạt động của Đoàn thanh niên, chọn thời điểm, chủ điểm phù   hợp và có thể mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất, thông báo và hướng dẫn  học sinh thực hiện các hoạt động. Chẳng hạn, trong năm học, tôi tập thường   tập trung thực hiện ba chủ điểm nhau sau: * Chủ điểm 20/11: Sang sông, nhớ ơn nguồn cội Tháng 11 là tháng trọng tâm và thường diễn ra nhiều hoạt động thi đua  sôi nổi chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Bên cạnh việc thường xuyên đôn  đốc, khích lệ các em thi đua trong học tập, rèn luyện, GVCN nên xây dựng các  hoạt động, nhất là các tiết mục văn nghệ vừa tạo sự ấn tượng, vừa để thông  qua đó giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh, tại chủ  điểm này, tôi hướng  Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  13
  14. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm dẫn lớp thực hiện hai tiết mục tham gia Hội thi Văn nghệ do Đoàn trường tổ  chức: ­ Thi trình diễn trang phục dân tộc (yêu cầu lớp chuẩn bị 10 loại trang   phục   của   10   dân   tộc   khác   nhau:   Kinh,   MNông,   HMông,   Thái,   Tày,   Nùng,  Mường, Ê đê, Dao, Cao Lan), các em đã chuẩn bị rất tốt vì khi nhập học nhà   trường luôn yêu cầu mỗi học sinh phải có ít nhất một bộ  trang phục truyền   thống dân tộc. Trong quá trình trình diễn sẽ có một em thuyết trình ngắn gọn  về đặc điểm của mỗi loại trang phục (phần này học sinh chuẩn bị từ trước). ­ Tiết mục hát – múa Mông Cô giáo vùng cao, vừa để  ca ngợi, tri ân  thầy cô, vừa phô diễn được bản sắc của dân tộc Mông qua lời ca, điệu múa. * Chủ điểm thứ hai vào dịp Tết Nguyên Đán: Thi tìm hiểu bản sắc   văn hóa dân gian Đây là hoạt động nội bộ của lớp nhưng được tổ chức bài bản, có đánh giá,  trao giải, ban giám khảo gồm có 5 người: Giáo viên chủ nhiệm, đại diện một phụ  huynh học sinh ở gần nhất, một giáo viên trong BCH Đoàn trường và 2 học sinh   khá, giỏi thuộc 2 dân tộc khác nhau của khối 12. Đầu tiên tôi chia lớp thành 4   nhóm, mỗi nhóm thực hiện một nhiệm vụ với thời gian tìm hiểu và hoàn thành là  2 tuần.  ­ Nhóm 1. Sưu tầm 5 truyện dân gian, thể  hiện 3 làn điệu dân ca của  các dân tộc thiểu số  và nêu ý nghĩa của mỗi câu chuyện, nội dung, ý nghĩa   của mỗi làn điệu dân ca. ­ Nhóm 2. Thuyết minh về một phong tục tập quán , một đặc sản của   dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên mà em ấn tượng nhất. ­ Nhóm 3. Thuyết minh về một số phong tục truyền thống ho ặc l ễ hội   dân gian trong dịp Tết của các dân tộc miền núi phía Bắc. Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  14
  15. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm ­ Nhóm 4. Trong vai trò là một hướng dẫn viên du lịch em hãy giới thiệu cho   khách tham quan về một nghề thủ công truyền thống và sản phẩm của nghề thủ  công ấy. Điểm thuận lợi là trước khi nghỉ  Tết âm lịch các em đã hoàn thành  chương trình học kỳ I, chương trình thời điểm này cũng tương đối nhẹ nhàng,  hơn nữa đối với học sinh nội trú thời gian nhiều hơn, không phải học thêm  hay làm công việc gia đình nên các em có thể  thực hiện được các hoạt động  ngoại khóa tốt hơn. Thời điểm tổ chức tôi thực hiện vào buổi chiều kết hợp   với liên hoan cuối năm trước khi các em về nghỉ Tết. Sau hai tuần, cả  4 nhóm đều hoàn thành rất tốt nhiệm vụ, các nhóm   đều thể hiện sự đầu tư công phu về cả phần nghe và phần nhìn bằng những  minh họa, sản phẩm cụ thể, ấn tượng. ­ Nhóm 1 sưu tầm được 5 truyện dân cụ  thể  là: Tạo Nhá Sáy, Chàng  Bả  Khó (Thái), Bơ­ là Chua phụ  vợ, Người chồng bội bạc(H’mông), Tưởng  chết mà giàu sang, ác độc (Tày),  Sự tích dòng sông K Rông Ana (Ê đê) và các  em trình bày được 3 làn điệu dân ca: hát Then (Tày), hát Sli (Nùng), một đoạn  trong bài hát ru bằng làn điệu pá yong của dân tộc MNông. ­ Nhóm 2 thuyết minh về lễ hội đâm trâu và đặc sản là món cơm lam   quen thuộc của đồng bào Tây Nguyên, trong quá trình thuyết minh các em  không chỉ sưu tầm hình ảnh mà còn tự tay làm sản phẩm để minh họa. Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  15
  16. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm Toàn cảnh Lễ hội đâm trâu của người Tây Nguyên ­ Nhóm 3 thuyết minh về  tục đón giao thừa Pong­chay và tục đi lấy  nước suối vào sáng mùng 1 của người Thái và Lễ hội Lồng Tồng của người  Tày. Toàn cảnh Lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) của người Tày Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  16
  17. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm Học sinh mặc trang phục của người Tày để thuyết minh về lễ hội Lồng Tồng Nhóm 4 giới thiệu về nghề dệt thổ cẩm và sản phẩm là bộ  váy áo thổ  cẩm của người M Nông. Trang phục của người M Nông và người Mạ ở Đắk Nông Dựa trên mức độ  đầu tư, sự  chuẩn bị  công phu về  bài viết, hình  ảnh,   sản phẩm; khả  năng thuyết trình của mỗi nhóm, Ban giám khảo đã đánh giá  và xếp hạng: Nhất – Nhì – Ba – khuyến khích và trao thưởng cho mỗi đội  (nguồn này trích từ quỹ lớp). Nhìn chung, trong quá trình thực hiện các em rất hào hứng và có ý thức  hợp tác cùng nhau làm việc, biết phân việc phù hợp với khả  năng của từng  bạn, biết nhờ  sự  hỗ  trợ  của cha mẹ, đặc biệt còn tự  tay nấu cơm lam để  minh họa. Tuy nhiên, khi bước vào hội thi, đặc biệt là khả  năng thuyết trình,  sự  tự  tin trước đám đông còn rất hạn chế, mặc dù các em chuẩn bị  rất kỹ  nhưng vẫn lúng túng, chưa trôi chảy. Nhưng điều thành công và đáng mừng là   các em vừa rèn luyện được một số kỹ năng sống vừa lĩnh hội được rất nhiều   kiến thức bổ ích đề phục vụ cho học tập và cuộc sống sau này. Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  17
  18. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm * Chủ đề ngày 26/3: Tuổi trẻ sáng tạo, tự hào tiếp bước Tháng 3 không chỉ  là tháng trọng điểm của học kỳ  II mà còn là tháng  diễn ra nhiều hoạt động sôi nổi thi đua chào mừng các ngày lễ  lớn như  8/3,   26/3 và còn là tháng thanh niên. Cho nên, ngay đầu tháng tôi không chỉ  đôn  đốc, hướng dẫn lớp tham gia các hoạt động thi đua do Đoàn trường phát động  mà còn xây dựng những chương trình cụ thể để phát huy sức năng động sáng   tạo và nhằm giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, ý thức giữ gìn bản  sắc dân tộc cho các em: ­ Tổ chức các hoạt động vừa sức nhưng ý nghĩa, thiết thực như:  + Đăng ký với Đoàn trường đi chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ (trường tôi  thường 1 tháng sẽ  có 1 chi đoàn đi chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ vào ngày 30  hàng tháng). + Chăm sóc cây cảnh và lau dọn khu tượng đài của trường 2 lần/tuần   vào buổi chiều sau giờ tự học. Tượng đài anh hùng dân tộc N’Trang Lơng tại trường Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  18
  19. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm + Thu gom giấy vụn gây quỹ  để  làm từ  thiện, năm học vừa qua tiền   quỹ  lớp thu được trong tháng 3 là 570.000đ và lớp đã dành số  tiền  ủng hộ  những em bị khuyết tật trong buổi giao lưu văn nghệ  của Hội người khuyết  tật diễn ra tại trường.  ­ Xây dựng các tiết mục văn nghệ vừa phát huy sự năng động trẻ trung,  vừa giáo dục được ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho các em. Học sinh tập nhảy Sạp chuẩn bị cho Hội trại ngày 26/3 Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  19
  20. Giáo dục bản sắc VHDT cho  học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ  nhiệm Học sinh tập kịch để tham gia hội thi văn nghệ trong ngày 26/3 3.3. Phát huy thế  mạnh của bộ  môn giảng dạy vào công tác chủ   nhiệm Giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng là một giáo viên trực tiếp giảng dạy   một bộ môn nào đó mà bất kỳ môn học nào – nhất là các môn xã xội như Văn,   Sử, Địa, GDCD, đều có thể khai thác để giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho  học sinh. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên bộ môn chỉ tập trung  truyền đạt kiến thức, không có thời gian hoặc ít chú trọng vào việc giáo dục  những giá trị khác thông qua bộ môn. Đối với giáo viên chủ nhiệm, đặc biệt là  giáo viên chủ nhiệm ở trường nội trú, thời gian tiếp cận, gặp gỡ học sinh khá   nhiều như  ngoài các tiết dạy, sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tiết sinh hoạt, giáo  viên chủ nhiệm còn phải quản lý học sinh vào các buổi tự học, quản lý việc  ăn  ở, sinh hoạt của các em  ở  kí túc xá…Cho nên, ngoài những tiết học trên  lớp, giáo viên chủ nhiệm nên khéo léo, linh động liên hệ lồng ghép kiến thức  Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng                      Page  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2