intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng môn Tập đọc lớp 5 ở trường Tiểu học

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

119
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến: "Một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng môn Tập đọc lớp 5 ở trường Tiểu học" để cùng chia sẻ kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp góp phần nâng cao chất lượng dạy và học nhằm đáp ứng mục tiêu của môn học cũng như mục tiêu chung giáo dục cấp tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng môn Tập đọc lớp 5 ở trường Tiểu học

  1.                                                                                                        1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn sáng kiến: Trong chương trình Tiểu học xác định mục tiêu của môn Tiếng Việt  ở  bậc  Tiểu học là:  Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt,  (nghe, nói, đọc ,viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của   lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ  giản về  Tiếng Việt và những  hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người, về văn hoá văn học Việt Nam và   nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng   giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã  hội chủ nghĩa. Phân môn Tập đọc trong Tiếng Việt là một trong những phân môn quan  trọng bởi có đọc tốt thì mới học tốt Tiếng Việt. Đọc tốt  ở  phân môn Tập đọc là  các em được củng cố khắc sâu thêm  những tri thức, kỹ năng học tốt ở những phân  môn khác của Tiếng Việt và các môn học khác. Chức năng của phân môn Tập đọc   là luyện đọc: rèn cho học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, tiến tới đọc hay (đọc diễn   cảm). Thông qua đọc đúng, đọc hay  học sinh cảm thụ được cái hay cái đẹp của bài  văn, bài thơ.  Nó là chìa khoá đưa các em vào kho tàng văn hoá, khoa học, giúp các   em nhận ra những tinh hoa của dân tộc đang được tàng trữ  trong sách vở. Mỗi bài   tập đọc là một văn bản là một bức tranh thu nhỏ  về  hiện thực về  cảnh đẹp đất  nước, con người, xã hội...Mặt khác, thể  hiện được tâm hồn của tác giả  không chỉ  có nội dung hấp dẫn của bài văn bài thơ    mà   còn phụ  thuộc vào người đọc tác   phẩm đó. Trước hết người đọc phải đọc đúng, đọc chính xác, đọc trôi chảy, tiến   tới đọc diễn cảm , đọc theo vai thì mới diễn tả cảm  xúc, tình cảm, thái độ của tác   giả  bộc lộ qua từng nhân vật trong tác phẩm. 1
  2.                                                    Bởi vậy nâng cao năng lực đọc cho học sinh nhất là đọc đúng, đọc diễn cảm  là hết sức cần thiết đối với giáo viên ở bậc Tiểu học.       Hiện nay, việc đọc đúng văn bản là yếu tố quan trọng giúp học tốt các môn  học khác. Ở Tiểu học, rèn đọc là một hoạt động quan trọng nhất ngay từ đầu cấp  học. Rèn đọc tốt giúp học sinh đọc bài, làm bài sẽ  đạt hiệu quả  cao. Đối với học  sinh lớp 5, kĩ năng đọc trơn, đọc  thầm, đọc lướt đã được nâng cao vì thế giáo viên   càng không nên chủ quan, bỏ qua việc rèn đọc đúng, đọc hay cho các em. Đọc tốt là   “đòn bẩy” giúp các em học các môn học khác. Đọc đúng giúp các em hiểu biết, bồi   dưỡng  ở  các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một   cách lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh.        Trên thực tế  hiện nay, dạy học theo phương pháp mô hình trường học mới   VNEN(Mức I) đối với việc luyện đọc nhiều giáo viên còn lúng túng không biết   cách rèn đọc cho học sinh đọc văn bản đúng và hay ở  thời điểm nào của các hoạt   động. Nhiều tiết dạy khô khan, học sinh tự  luyện đọc trong nhóm mà vai trò của  giáo viên có lúc còn mờ nhạt trong việc hỗ trợ. Nhiều em đọc ngắt nghỉ câu không   đúng làm cho nghĩa của câu văn bị lệch hướng, không đúng trọng tâm. Chất lượng   đọc diễn cảm cũng bị  hạn chế, việc cảm nhận văn học cũng từ  đó mà khô khan,  thiếu sự  tinh tế. Xuất phát từ  thực tế  đó tôi đã viết sáng kiến:   "  Một số  biện   phápdạy học nhằm nâng cao chất lượng môn Tập đọc lớp 5  ở  trường Tiểu   học" để cùng chia sẻ  kinh  nghiệm với các bạn đồng  nghiệp góp phần nâng cao   chất lượng dạy và  học nhằm đáp  ứng mục tiêu của môn học cũng như  mục tiêu   chung giáo dục  cấp tiểu học.  1.2. Điểm mới của sáng kiến:        Sáng kiến này không đi sâu vào một hoạt động cụ thể của phân môn mà đưa   ra các giải pháp cơ bản  khi luyện đọc cho học sinh lớp 5 có hiệu quả.      Sáng kiến này còn thể hiện các biện pháp tối ưu nhằm đáp ứng tốt nhất dạy  học theo phương pháp dạy học mới mà nhà trường đang thực hiện. 2
  3.                                                          Sáng kiến đưa ra các tình huống trong những bài tập đọc làm cho tiết tập đọc  trở nên linh động, học sinh ham học hơn.  2. PHẦN NỘI DUNG Qua nhiều những năm  nhà trường phân công giảng dạy lớp 5 và qua dự giờ  trao đổi học tập lẫn nhau và được dự hội giảng cấp trường, cấp cụm, huyện. Còn  bộc lộ nhiều tồn tại: Có những học sinh học tới lớp 5 đọc vẫn chưa lưu loát, chưa   hay, ngắt nghỉ còn  chưa được chuẩn xác, nhấn giọng lên xuống chưa phù hợp. Các  em  chưa hiểu và chưa khai tác hết  nội dung, nghệ thuật, chưa thấy  được  hết cái  hay cái đẹp của tác phẩm. Bởi vì trình độ  học sinh không đồng đều, chưa nghiên  cứu kỹ nội dung bài chưa cảm nhận được cái hay của bài tập đọc.   Mặt khác, địa bàn của trường còn bị   ảnh hưởng của ngôn ngữ  địa phương  nên học sinh phần lớn còn đọc sai, phát âm nhầm lẫn dấu hỏi  với dấu ngã. Trong   các giờ dạy tập đọc, việc rèn đọc cho học sinh còn hạn chế  giáo viên chưa chú ý  rèn đọc khi phát âm sai, khi ngắt nghỉ  chưa đúng. Trong việc rèn đọc diễn cảm  mang tính chất hình thức, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học   sinh rèn đọc: đọc thành tiếng, đọc thầm. Ngược lại, trong giờ tập đọc có giáo viên  chỉ  chú trọng đến việc tìm hiểu nội dung bài, số  lượng học sinh được đọc trong  lớp ít, chưa biết lên giọng, hạ giọng khi nào, nhấn giọng ở những từ ngữ nào.  Nhất là khi đọc lời các nhân vật chưa thể hiện được tính cách của các nhân   vật, qua đó giờ dạy chưa đạt được mục tiêu của tiết học. 2. Thực trạng của việc dạy học phân môn Tập đọc Lớp 5 ở trường tôi công   tác.    2.1.1. Đối với giáo viên: 3
  4.                                                            Một số giáo viên đổi mới phương pháp nhưng chưa mạnh, rèn đọc cho học   sinh còn rập khuôn, máy móc theo sách hướng dẫn nên giờ  học còn khô khan, rời   rạc. Nhiều giáo viên thường xuyên bám sách hướng dẫn, sách thiết kế nên giờ dạy  thường xa rời học sinh. Giáo viên chưa thực sự năng động, sáng tạo nên chưa mang   đến những cái mới, cái hay trong cách dạy đọc nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 2.1.2. Đối với học sinh:         Qua thực tế giảng dạy lớp 5, qua tìm hiểu về  những thuận lợi và khó khăn  của học sinh lớp 5 thông qua giờ tập đọc nói chung và học sinh lớp 5A mà tôi chủ  nhiệm và giảng dạy tôi thấy các em  kĩ năng đọc yếu, khả  năng cảm thụ  văn học  chưa cao, nhiều em không hiểu được nội dung bài đọc qua tìm hiểu bài. Từ  đó  thường kéo theo học yếu tất cả các môn học khác.      Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đọc của học sinh   lớp 5A mà tôi giảng dạy (vào tháng 9/2018) như sau: Số em đọc  Số em đọc đạt  Số em đọc  Số em đọc  Tổng số  chưa đạt yªu  yêu cầu đúng, rõ ràng diễn cảm tốt học sinh cầu SL % SL % SL % SL % 32 7 21,9 12 37,5 9 28,1 4 12,5 Từ thực tế và kết quả khảo sát trên, bản thân tôi đã vận dụng những phương   pháp đặc trưng của môn học, bám sát các chuyên đề  của cấp trên đồng thời linh  động, sáng tạo tìm ra những phương pháp tích cực để  giúp các em đọc tốt từ  đó  nâng cao chất lượng các môn học khác.  2.2. Các biện pháp thực hiện: Qua nhiều những năm giảng dạy Tập đọc  ở lớp 5, tôi đã rút  ra kinh nghiệm   của bản thân qua từng tiết dạy; vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp   giảng dạy phù hợp với đối tượng, tích cực phát huy chủ  động sáng tạo của học   sinh và chú ý rèn kỹ năng toàn diện cho học sinh. Trong những năm qua tôi đã đi sâu   4
  5.                                                    vào điều tra, nghiên cứu và đề  ra những giải pháp, biện pháp hợp lý sát thực với   yêu cầu của bộ môn cũng như đặc điểm tình hình học sinh của nhà trường. 2.2.1. Biện pháp 1: Một số công việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh   * Đối với giáo viên  Trước hết muốn rèn cho học sinh đọc thành tiếng đúng thì giáo viên phải đọc  đúng, đọc hay (đọc diễn cảm). Để  đạt được yêu cầu trên thì giáo viên phải rèn  luyện bản thân mình đọc đúng, đọc hay. Không cho phép giáo viên dạy Tập đọc mà   lại đọc chưa chuẩn. Trước khi soạn bài giáo viên phải đọc bài nhiều lần, đọc thể  hiện được cảm xúc của tác giả  khi viết bài văn đó. Dành quỹ  thời gian cho việc   soạn bài và thiết kế các hoạt động cụ thể của giáo viên, học sinh ở từng đoạn của  bài. Giáo viên phải chú ý đến khâu rèn đọc cho học sinh, chú ý đến đối tượng học  sinh đọc kém.  Nhất là những tiết luyện đọc ở buổi hai. Giáo viên phải nên sửa, rèn  dứt điểm cho học sinh phát âm sai  ở  từng cặp phụ  âm mà em đó hay phát âm sai   hoặc đọc chưa đúng. Tham khảo các tài liêu giảng dạy để  lựa chọn nội dung, phương pháp, hình  thức học tập cho phù hợp với đối tượng của học sinh lớp mình.  Sưu tầm đồ  dùng dạy học, tranh  ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để  học sinh  hứng thú học tập tiếp thu bài sâu hơn. * Đối với các em học sinh Yêu cầu học sinh đọc kỹ  trước bài  ở  nhà, có đọc trước bài  ở  nhà học sinh   mới biết được từ  nào khó đọc, hay đọc sai để  đến lớp nghe giáo viên hướng dẫn   sửa chữa. Học sinh thường xuyên rèn đọc đúng  ở  bất kỳ  một văn bản nào nói chung   hay trong các bài tập đọc nói riêng.  Cần có sự  ham thích đọc, có ý thức tự  đọc. Sưu tầm sách, báo, truyện để  đọc. 2.2.2. Biện pháp 2: Tạo hứng thú cho học sinh khi giới thiệu bài: 5
  6.                                                        Bắt đầu bài học là một bước khá quan trọng trong tiến trình dạy bài mới.  Giới thiệu bài một cách hấp dẫn sẽ  thu hút sự  chú ý của học sinh, tạo hứng thú  học tập, các em sẽ  hăng say luyện đọc, tập trung suy nghĩ để  phát biểu xây dựng   bài và tiếp thu bài tốt hơn. Tùy theo từng bài mà ta có cách giới thiệu khác nhau,  linh động thay đổi các cách giới thiệu để  tránh gây nhàm chán. Có thể  giới thiệu  bài theo nhiều cách khác nhau:  Giới thiệu có thể dẫn dắt trực tiếp gây sự hấp dẫn.      Ví dụ: Bài “Buôn Chư  Lênh đón cô giáo” (Tiếng Việt 5 tập 1 ­ trang 144)  giáo viên có thể dẫn dắt trực tiếp: “ Người dân miền núi nước ta rất ham học. Bài   tập đọc Buôn Chư  Lênh đón cô giáo phản  ảnh lòng yêu mến cái chữ, yêu mến cô   giáo. Các em cùng học bài để thấy được điều đó” .   Giới thiệu bài bằng cách cho học sinh xem tranh, trình chiếu tranh để gợi mở  như các bài: Hành trình của bầy ong, mùa thảo quả, chuyện một khu vườn nhỏ,...   Giới thiệu bằng cách dùng bản đồ, khơi gợi về  chủ  quyền thiêng liêng của   Tổ quốc: Cao Bằng, quần đảo Trường Sa, lập làng giữ biển....    Giới thiệu bằng cách đặt câu hỏi vì sao? Gây sự tò mò tìm tòi, khám phá cho  học sinh          Ví dụ: Dạy bài “Hạt gạo làng ta” giáo viên giới thiệu: “Hạt gạo quê hương  thật đáng quí”. Vì sao như vậy ? Học bài “ Hạt gạo làng ta” của nhà thơ Trần  Đăng Khoa các em sẽ biết được điều đó”      Giới thiệu bằng cách dẫn dắt từ  bài trước đến bài sau để  phát triển tình  cảm, ý thức cho các em.   Ví dụ: Dạy bài “ Út Vịnh” dẫn dắt từ bài “ Con gái”  Giới thiệu bằng cách áp dụng phương pháp dạy học mới, cho chủ  tịch hội  đồng tự quản tổ chức trò chơi liên quan đến bài học. Ví dụ: Tổ chức trò chơi  xây   nhà khi giới thiệu bài " Về  ngôi nhà đang xây".(Tiếng Việt 5 tập 1 ­ trang 148).  Hoặc chơi trò:  “Quan án về  làng”. Chủ  tịch hội đồng tự  quản: " A lô... a lô ....   mời các bạn ra xem quan án xử kiện, quan xử  rất thông minh , công bằng".  6
  7.                                                    Giáo viên : Để  các em biết được vụ  kiện như thế  nào, quan xử  ra sao, hôm  nay ta học bài “Phân xử tài tình”.      Tuỳ  theo nội dung từng bài mà ta lựa chọn cách giới thiệu cho thích hợp  nhưng phải đảm bảo tính ngắn gọn, trọng tâm và lôi cuốn, hấp dẫn.      Trong giới thiệu phải chú ý đến ngữ  điệu lời nói, thao tác, động tác gây sự  chú ý, thu hút học sinh. 2.2.3. Biện pháp 3:  Rèn kĩ năng đọc.      Rèn đọc là bước trọng tâm của giờ học. Vì vậy giáo viên phải linh động, áp  dụng các phương  pháp tích cực để rèn luyện và phát triển kĩ năng đọc. 2.2.3.1. Đọc mẫu sáng tạo Để hoạt động này đạt hiệu quả, cần chú ý hai việc: chọn người đọc mẫu và  cách tổ chức hoạt động nghe đọc mẫu. Khi đọc mẫu phải chọn giáo viên hoặc học sinh đọc tốt, giọng đọc mẫu  phải chuẩn xác, phải hay. Vì vậy,  giáo viên hoặc học sinh phải đọc bài trước vài   lần để ngắt nghỉ đúng câu, đúng ý. Chất lượng đọc mẫu  ảnh hưởng rất nhiều đến   chất lượng đọc của học sinh ( các em hay bắt chước)    Đọc với ngữ điệu phù hợp, với những cảm xúc, tình cảm sâu lắng,  truyền   được cảm xúc tới người nghe thì khi đọc bài sẽ làm cho học sinh cảm nhận rất tốt   văn bản.     Ví dụ:  Bài Ê ­ mi ­ li, con... (TV5 tập 1­ trang 49)    Đoạn 1: Đọc với giọng tâm tình của người cha với, giọng thơ  ngây, thủ  thỉ  của người con.   Đoạn 2: Lên giọng mạnh mẽ để tố cáo tội ác chiến tranh mà Mĩ đã gây ra ở  Việt Nam ......  2.2.3.2. Rèn đọc đúng, đọc hay.     Giáo viên cần phân biệt các khái niệm đọc tiếng, đọc thầm rồi tuỳ theo từng   đối tượng học sinh mà giáo viên rèn đọc tiếng. 7
  8.                                                    Chọn câu cho học sinh luyện đọc: Những câu học sinh luyện đọc là những   câu khó đọc đúng, hoặc cần chú ý để đọc cho hay, chú ý tới ngữ điệu, bao gồm cả  việc ngắt nghỉ hơi và việc thể hiện trường độ, cao độ, cường độ của giọng đọc    Rèn cho các em ngắt nghỉ những câu văn xuôi dài, đặc biệt là những câu có ít  dấu giữa câu. Ví dụ: Nhân dân các địa phương đều phấn khởi/ vì rừng ngập mặn phục hồi   đã góp phần đáng kể tăng thu nhập và bảo vệ vững chắc đê điều ( Bài 13B Trồng  rừng ngập mặn) Những câu thơ  khó đọc, đặc biệt là các dòng thơ  có cấu trúc ngữ  pháp và  nhịp thơ không trùng nhau thì gióa viên cần hướng dẫn kĩ.     Ví dụ:                   Hành trình của bầy ong                                      Nối rừng hoang/với biển xa                              Đất nơi đâu/ cũng tìm ra ngọt ngào.                                      (nếu hoa có ở trời cao                               Thì bầy ong/ cũng đem vào mật thơm)      Chắt trong/ vị ngọt /mùi hương           Lặng thầm thay/ những con đường ong bay. Trải qua /mưa nắng /vơi đầy/ Men trời đất đủ/ làm say đất trời. Bầy ong/ giữ hộ /cho người Những mùa hoa/ đã tàn phai tháng ngày.                                           (Tiếng Việt 5 tập 1) Ngoài ra, chúng ta cần quan tâm tới những câu có yếu tố  nghệ  thuật cảm  xúc, câu hội thoại bộc lộ cảm xúc, tính cách của nhân vật. Ví dụ:            Ê ­ mi­ li­ con ôi!                      Trời sắp tối rồi...                       Cha không về bế con được nữa! 8
  9.                                                            Giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng phát âm đúng. Cho học sinh tự  phát   hiện từ khó đọc. Gặp từ các em hay đọc sai giáo viên phân tích kĩ cấu tạo từ, phân  biệt từ đó với các từ  hay nhầm lẫn. Đối với địa bàn phát âm sai theo phương ngữ  giáo viên ưu tiên và tập cho em đó đọc. Nếu sai nhiều lần cuối buổi giáo viên đọc   từ đó cho học sinh viết ra giấy rồi đánh vần.      Ví dụ: Các em  ở  Quyết Tiến, Cẩm Ly hay phát âm các tiếng có vần “anh”   thành vần “ân”  “xanh” thành “xân”.     Nếu học sinh đọc sai nhiều giáo viên không nên nạt làm cho các em mất bình  tĩnh mà phải nhẹ nhàng chỉ ra chỗ sai uốn nắn cho các em để các em sửa lại.     Sử dụng cách đọc nối tiếp, lấy  việc đọc tiếp sức đúng để đánh giá cho học  sinh. Như vậy học sinh sẽ phát huy được tính thi đua, tích cực dò bài và mỗi lần dò  các em được đọc thầm thêm một lần làm tăng kĩ năng đọc và nhận xét được cách   đọc của bạn.   2.2.4. Biện pháp 4: Linh động áp dụng các phương pháp dạy học mới vào  việc rèn đọc cho các em.      Giáo  viên  để các em luyện đọc theo nhóm dưới sự điều hành của hội đồng   tự quản (nhóm trưởng).  Trong các nhóm luyện đọc có đủ các đối tượng học sinh ,   để  mỗi nhóm trưởng là một cô giáo của nhóm, các em trong nhóm cùng giúp đỡ  nhau, phát huy hết khả  năng của mình, tích cực luyện đọc. Lượt đọc các em tăng  lên, tạo được sự thi đua giữa các nhóm. Các nhóm luyện đọc sau đó cho học sinh tự  đánh giá mình, đánh giá bạn, đánh giá nhóm mình nhóm bạn. Làm như  vậy, không  chỉ rèn đọc mà còn rèn được cả kĩ năng giao tiếp thông qua luyện đọc. Ví dụ: Học bài  Lòng dân  (Tiếng Việt  5 tập 1­ trang 24)  học sinh phân vai  luyện đọc theo nhóm: Người dẫn truyện, dì Năm, cai, cán bộ. Khi các nhóm thể  hiện trước lớp, các nhóm khác sẽ nhận xét sự thể hiện giọng đọc của mỗi bạn đã  đúng với nhân vật mình đóng vai hay chưa. Qua đó, sẽ  khắc sâu hơn kiến thức,   cách đọc cho mỗi học sinh. 9
  10.                                                         Ngoài ra, học sinh có thể chia sẻ, góp ý cho nhau thông qua hộp thư bè bạn.   Khi viết thư các em có thể khen, nhắc nhở nhau những vấn đề trong học tập, từ đó   các em sẽ cùng nhau tiến bộ hơn.   2.2.5. Biện pháp 5: Tạo không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh   bằng cách tổ chức trò chơi luyện đọc.     Để  tạo không khí tươi vui, hồn nhiên, sinh động giáo viên tổ  chức trò chơi   luyện đọc cho học sinh. Tổ chức theo từng nhóm đối tượng: Nhóm yếu: Thi đọc đúng Nhóm khá: Đọc tiếp sức Nhóm giỏi: Tìm người uyên bác, thả thơ với bài học thuộc lòng.     Đối với các bài có lời nhân vật và có lời hội thoại nên tổ chức cho học sinh   đọc phân vai, diễn kịch.   Ví dụ: Bài: Lòng dân, Người công dân số  1 (Phân vai, diễn kịch);   Bài:Trí  dũng song toàn, Một vụ đắm tàu, Thái sư Trần Thủ Độ... ( Đọc phân vai )     Ngoài việc luyện đọc ở  lớp, giáo viên động viên các em luyện đọc nhiều  ở  nhà. Ngoài việc đọc bài ở sách giáo khoa các em đọc thêm các loại sách báo bổ ích,   phù hợp với lứa tuổi để rèn kĩ năng đọc tốt hơn.      Một việc không thể  thiếu là giáo viên uốn nắn cho các em cách cầm sách,  đặt sách đúng tư  thế  khi đọc để  các em không những đọc tốt mà còn đảm bảo   được sức khoẻ. 2.2.6. Biện pháp 6. Dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài      Tìm hiểu bài là một quá trình hoạt động nhận thức, giúp các em phát triển   khả năng tư duy, bồi dưỡng vốn sống, vốn văn học, giúp các em hiểu  biết hơn về  xã hội, nhận biết được cái hay cái đẹp của văn thơ, của cuộc sống. Trong bước   này giáo viên đóng vai trò dẫn dắt gợi mở, gợi nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ  trong các em.     Để  hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài tốt, trước hết giáo viên phải hiểu kĩ  nội dung bài dạy, lựa chọn, đặt ra những câu hỏi sát thực, sắp xếp có hệ thống, lô   10
  11.                                                    gích theo tuần tự nội dung bài, lựa chọn ra những từ ngữ trọng tâm, nội dung từng   đoạn, toàn bài.      Chú ý rèn cho học sinh kĩ năng phân biệt các khái niệm đoạn văn, từ ngữ, chi   tiết ... nắm chắc các khái niệm này học sinh sẽ  hoạt động theo yêu cầu giáo viên   nhanh hơn đỡ mất thời gian.       Ví dụ: Giáo viên yêu cầu đọc đoạn 1 là học sinh đọc đúng ngay mà không  cần hướng dẫn từ  đâu  cho đến  đâu.     Hoặc: Khi dạy bài  “Hành trình của bầy ong” (Tiếng Việt 5 tập 1 ­ trang   117) giáo viên hỏi: Những chi tiết nào nói lên hành trình vô tận của bầy ong ? Học   sinh sẽ trả lời đúng các từ ngữ (trọn đời, nẻo đường xa, vô tận)  mà không trả lời  dong dài hay đọc tất cả các câu thơ có từ đó.     Hoặc ngược lại giáo viên hỏi: “Chi tiết nào trong câu chuyện gây bất ngờ  cho người đọc?” ( Tiếng rao đêm ­ Tiếng Việt 5, tập 2 ­ trang 30). Học sinh trả  lời đúng cả  câu chứ  không trả  lời cộc lốc, cụt ngủn: Ai nấy bàng hoàng khi thấy   trong xấp giấy một thẻ thương binh.      Vận dụng phương pháp dạy học mới trong phần tìm hiểu bài để  giờ  học  phát huy hết tính tích cực, đồng thời rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự  học của các   em. ( (Cho các nhóm thảo luận, hỏi nhau và trả lời một số câu hỏi khi tìm hiểu bài,   cho các em tự  đánh giá, đánh giá nhau trong quá trình đọc hiểu. Giáo viên trợ  giúp  cho các em khi cần )      Khi đưa ra câu hỏi nếu học sinh khó hiểu hoặc trả  lời chưa được thì giáo  viên nên gợi mở thêm.     Ví dụ: Giáo viên hỏi “Nội dung bài này là gì?” Học sinh không nói được thì  giáo viên gợi thêm: “Bài này tả cảnh gì? Cảnh đó thế nào?” học sinh sẽ dễ dàng trả  lời hơn bằng câu hỏi gợi mở như vậy học sinh yếu cũng có thể trả lời được.     Ngoài những câu hỏi đại trà giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi dễ hơn dành   cho học sinh yếu, hoặc câu khó hơn cho học sinh giỏi.      Khi giải thích từ, giáo viên nên linh động chứ không rập khuôn máy móc. Có  thể giải thích bằng cách đặt câu hỏi để  phát huy tính tích cực, khơi dậy vốn hiểu   11
  12.                                                    biết về  từ ngữ  của các em. Nếu gặp từ khó giáo viên giải thích luôn, còn từ  học   sinh có thể giải thích được nên cho học sinh tự giải thích cho nhau. Ví dụ:  cụm từ  “rong ruổi trăm miền”  trong bài Hành trình của bầy ong  (Tiếng Việt 5 tập 1 ­ trang 117)      Giáo viên hỏi: Em hiểu" rong ruổi trăm miền” là thế nào? Có thể dùng tranh   minh hoạ cho từ ngữ cần giải thích.      Cho học sinh phát hiện từ khó hiểu. Giáo viên hỏi: “Trong đoạn này em thấy  từ nào em chưa hiểu?” Học sinh sẽ nêu từ ,giáo viên kết luận giải thích.     Qua câu trả  lời của các em, giáo viên rèn cho các em cách trả  lời đúng ngữ  pháp, đúng câu, đúng ý, rèn kĩ năng diễn đạt trôi chảy mạch lạc, tự nhiên bằng cách   cho học sinh  nhận xét câu trả lời, cách trả lời của bạn, nếu sai thì em sửa lại.       Sau khi rút ra ý của đoạn, nội dung của bài, giáo viên cho học sinh nhắc lại   nhiều lần để khắc sâu kiến thức.      Tìm hiểu xong mỗi đoạn giáo viên nên có câu chuyển ý để bài liền mạch lôi   cuốn học sinh.      Tuỳ  từng câu hỏi mà chọn hình thức dạy học khác nhau, để  tiết học sinh   động tránh nhàm chán.( trao đổi cặp, tìm hiểu cá nhân, tự phỏng vấn nhau, nhóm...)     Qua tìm hiểu bài giáo viên cần cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật,   cách miêu tả, thể  loại văn thơ  để  học sinh làm quen và vận dụng trong câu viết,  viết đoạn, nâng cao hiểu biết về văn học, nâng cao chất lượng môn tập làm văn. 2.2.7. Biện pháp 7. Tăng cường hoạt động ứng dụng.       Phần này nhằm khắc sâu nội dung bài học cho học sinh và tự  bản thân các  em nói lên được nhận thức, ý thức tình cảm của mình khi học xong bài.      Câu hỏi củng cố cần chú trọng vào kiến thức trọng tâm của tiết học. khuyến  khích  đủ các đối tượng học sinh  trả lời để giáo viên dễ  đánh giá kết quả  đại trà  toàn lớp. 12
  13.                                                          Phần liên hệ  nhằm giúp học sinh tự  so sánh, bộc lộ, nhận thức tình cảm,   việc làm của mình đối với điều vừa học. Thông qua đó mà giáo dục đạo đức cho  các em, hình thành phát triển nhân cách của các em theo chiều hướng tốt đẹp .      Liên hệ  giáo dục phải sát thực với bài dạy chứ  không rập khuôn máy móc,  không chung chung.     Ví dụ: Bài “ Về ngôi nhà đang xây” (Tiếng Việt 5 tập 1­ trang 148) giáo viên  liên hệ về sự đổi mới về nhà cửa trên quê hương, giáo dục lòng biết ơn người thợ  xây.      Tuỳ theo nội dung từng bài giáo viên kết hợp giáo dục hành vi đạo đức cho  các em.    Ví dụ: Bài “Bầm  ơi”  (Tiếng Việt 5 tập 2­ trang 130)   giáo dục lòng yêu   thương quê hương, đất nước, người thân.           Bài “Một vụ  đắm tàu” (Tiếng Việt 5 tập 2­ trang 108)  giáo dục tình cảm  bạn bè trong sáng, quan tâm nhau, sẵn sàng hi sinh vì bạn.     Bài “ Phong cảnh đền Hùng” (Tiếng Việt tập 2­ trang 68)   giáo dục lòng   hướng về cội nguồn dân tộc.                Bài “  Thư  gửi các học sinh” (Tiếng Việt 5 tập 1­ trang 4)   giáo dục tình  cảm yêu quý, nhớ ơn Bác Hồ. 2.3. Kết quả đạt được: Qua việc áp dụng các biện pháp nêu trên đối với môn Tập đọc Lớp 5 mà tôi  trực tiếp giảng dạy và qua khảo sát thực tế, tôi thấy chất lượng đọc – hiểu nội   dung bài học đã được nâng lên rõ rệt. Phần lớn các em đọc đúng, đảm bảo tốc đô.  Nhiều học sinh đọc diến cảm tốt. Hình thành cho các em thói quen ham đọc sách  báo. Điều đó thể hiện  rõ qua bảng sau:              Bảng 1: Thời điểm cuối học kì I Tổng  Số em đọc  Số  em  đọc đạt  Số em đọc  Số em đọc  số học  chưa đạt yªu  trung bình đúng, rõ ràng diễn cảm tốt Sinh cầu 13
  14.                                                    SL % SL % SL % SL % 32 3 9,4 6 18,8 15 46,8 8 25                                                        Bảng 2:  Thời điểm  ngày 25 tháng 2 năm 2019      Số em đọc  Tổng  Số  em  đọc đạt  Số em đọc  Số em đọc  chưa đạt yªu  số học  trung bình đúng, rõ ràng diễn cảm tốt cầu Sinh SL % SL % SL % SL % 32 0 0 2 6,3 18 56,2 12 37,5   14
  15.                                                    3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:       Khi thực hiện đề tài này tôi đã mạnh dạn đưa ra những biện pháp nhằm nâng   cao chất lượng dạy học môn Tập đọc cho học sinh lớp 5. Các biện pháp này đã và   đang được tôi thực hiện ở lớp chủ nhiệm khá hiệu quả, chất lượng đọc – hiểu của   học sinh đang từng bước được nâng lên. Những biện pháp này không những giúp  học sinh ngày càng đọc hay, đọc tốt hơn mà còn giúp giáo viên cảm thấy tự tin, nhẹ  nhàng hơn khi luyện đọc cho các em.   Từ  đó, giờ  học của các em sẽ  trở  nên sôi   động, không nhàm chán, kích thích hứng thú học tập ở các em. Kĩ năng đọc của các  em tốt hơn các em sẽ tự tin hơn trong các môn học khác như  Toán, Khoa học, Lịch   sử, Địa lí.... Như vậy để nâng cao chất lượng hiệu quả của các giờ dạy Tập đọc để học   sinh đọc đúng đọc hay. Bước đầu cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài   thơ  thì khâu luyện đọc ­ rèn đọc đúng có vai trò rất quan trọng. Học sinh có đọc  đúng mới hiểu đúng nội dung, mới diễn tả  được cảm xúc của mình. Để  làm tốt   việc điều đó người giáo viên phải làm tốt những việc sau: Mỗi giáo viên phải mẫu mực trong lời nói, việc làm, say sưa yêu nghề, mến   trẻ, luôn bám trường, bám lớp. Phải luôn nghiên cứu tìm hiểu về nội dung kiến thức, phương pháp bộ môn,   nắm   chắc   hệ   thống  chương   trình.  Người  giáo   viên   phải   thường   xuyên  tự   bồi   dưỡng nâng cao trình độ, luôn cập nhật những thông tin, những đổi mới về phương   pháp giảng dạy. Giáo viên phải  nhận thức  đúng vai  trò chức năng  ở  phân môn Tập  đọc.   Trước hết giáo viên phải rèn cho mình đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm mọi bài   Tập đọc trong cấp học nói chung, các bài tập đọc lớp 5 nói riêng. Phải đầu tư thời  15
  16.                                                    gian cho khâu chuẩn bị bài, xây dựng tổ  chức các hoạt động cho học sinh trên lớp   học  và thực hiện tốt các biện pháp sau: Biện pháp 1 Một số công việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh    Biện pháp 2: Tạo hứng thú cho học sinh khi giới thiệu bài:   Biện pháp 3:  Rèn kĩ năng đọc. Giáo viên phải kiên trì, thường xuyên rèn cho học sinh theo các bước: + Luyện cho học sinh phát âm đúng các phụ âm khó đọc hay lẫn lộn. + Luyện đọc đúng các cụm từ, ngắt nghỉ đúng câu. + Ngắt nghỉ đúng ở các câu văn, khổ thơ. + Luyện đọc mức độ từ thấp đến cao với học sinh yếu. + Luyện cho học sinh biết lên giọng, hạ  giọng, nhấn giọng  ở  câu văn, thể  hiện tính cách nhân vật hoặc giọng vui, buồn trong các văn bản với giọng đọc, ngữ  điệu, tốc độ   đọc, âm sắc, nhằm diễn tả đúng nội dung bài. + Đối với những học sinh đọc sai, rèn dứt điểm ở tiết đọc và tiết luyện đọc  ở buổi thứ 2 + Nhiều học sinh được tham gia luyện đọc.   Biện pháp 4: Linh động áp dụng các phương pháp dạy học mới vào việc rèn  đọc cho các em.   Biện pháp 5: Tạo không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng   cách tổ chức trò chơi luyện đọc.   Biện pháp 6: Dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài    Biện pháp 7: Tăng cường hoạt động ứng dụng. Trong quá trình thực hiện các biệp pháp trên, giáo viên luôn động viên khích  lệ  gây hứng thú học tập, đọc đối với học sinh chưa hoàn thành phát huy tính tích   cực chủ động sáng tạo của học sinh.   Vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh lớp   mình. Cử  chỉ  giáo viên, lời nói ngắn gọn dễ  hiểu hướng học sinh thao tác tư  duy   chủ động. 16
  17.                                                     Học sinh phải chuẩn bị  bài thật tốt  ở  nhà, đọc nhiều lần đối với học sinh  yếu  kém trước khi đến lớp.  Phối hợp nhịp nhàng về chương trình môn Tập đọc với các phân  môn  học  khác như: Tập làm văn, kể chuyện...  Thường xuyên thăm lớp, dự  giờ  đồng nghiệp để  học tập, trao đổi rút kinh   nghiệm. Tổ  khối quan tâm bồi dưỡng  thường xuyên hơn nữa những giáo viên năng  lực còn hạn chế nhất là khâu đọc của giáo viên. Hội thảo trao đổi những kinh nghiệm cho đồng nghiệp học tập  ở  cấp tổ,   trường.  3.2. Kiến nghị, đề xuất: *Đối với nhà trường: Tiếp tục tổ  chức các chuyên đề  dạy học, tập huấn  về  đổi mới phương pháp dạy đọc cho học sinh, bố  trí nhiều tiết dạy mẫu…để  giáo viên vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo trong việc giảng dạy với từng đối   tượng học sinh.     Tổ  chức cho các em những sân chơi, cuộc thi để  các em có điều kiện thể  hiện những hiểu biết về tiếng Việt, khả năng đọc hay (đọc diễn cảm)      *Đối với giáo viên:  Muốn nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 5 giáo  viên phải nhiệt tình, nghiên cứu kĩ bài, tích cực học hỏi, tham khảo các tài liệu để  nâng cao hiểu biết về từ ngữ về văn học.      Phải biết thu hút học sinh, thay đổi các hình thức học, tránh nhàm chán, tạo   hứng thú học tập cho các em .    Giáo viên phải nắm chắc các đối tượng, nhẹ nhàng uốn nắn, nhận xét, khen ngợi  động viên kịp thời.    Đặc biệt giáo viên phải rèn cho mình có kĩ năng đọc tốt, kĩ năng diễn đạt trôi  chảy mạch lạc, ngắn gọn nhưng chính xác, dễ hiểu trước học sinh. 17
  18.                                                       Phải biết kết hợp các phương pháp dạy học một cách khéo léo, phù hợp, kết   hợp giữa các phương pháp hiện hành và phương pháp dạy học mới, phát huy hết  khả  năng, tính tích cực, sáng tạo của học sinh, áp dụng biện pháp này một cách  thường xuyên ở lớp thì chất lượng đọc của học sinh sẽ được nâng lên rõ rệt.    Trên đây là một số  kinh nghiệm, biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện   trong dạy học môn Tập đọc lớp 5. Tôi đã mạnh dạn áp dụng và thu được những   thành công nhất định. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài, không tránh khỏi   những thiếu sót. Rất mong nhận sự  đóng góp ý kiến của Lãnh đạo các cấp, các   đồng chí, bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến này được hoàn thiện và sớm được úng   dụng rộng rãi.                  Tôi xin chân thành cảm ơn./.    18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0