intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn Sinh học 6

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

54
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là đưa ra một số giải pháp giúp học sinh Bru-Vân Kiều học tốt môn sinh học 6. Đối tượng trong đề tài tôi đề cập là đối tượng học sinh dân tộc, các em học tập còn rất thụ động; khả năng tự học, khả năng quan sát kênh hình tìm kiến thức; khả năng tư duy logic, tính sáng tạo; khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn nhiều hạn chế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn Sinh học 6

  1.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Để  đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển, Đảng ta đã   thực hiện đường lối: “Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa”, phấn đấu đến năm 2020  nước ta cơ  bản trở  thành một nước công nghiệp.  Nghị  quyết số  29­NQ/TW ngày  04/11/2013 Hội nghị  lần thứ  Tám Ban Chấp hành Trung  ương khóa XI  đã chỉ  rõ:  Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH­HĐH trong  điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đó  chính là chìa khóa để  đưa giáo dục Việt Nam tiến kịp với nền giáo dục các nước  tiên tiến trên toàn cầu. Thật vậy, muốn phát triển kinh tế  trước hết phải coi trọng giáo dục để  đào   tạo. Chỉ có giáo dục mới tạo ra được các thế hệ con người mới vừa có kiến thức,  vừa năng động sáng tạo trong công việc, dám nghĩ, dám làm đáp  ứng với yêu cầu  xây dựng đất nước trong thời đại mới. Muốn làm được điều đó, giáo dục phải  không ngừng đổi mới mà cốt lõi chính là đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi  mới cách dạy và cách học trong đó lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể  của giáo dục, giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn chủ thể hoạt động. Tuy nhiên ở các vùng miền khác nhau thì trình độ dân trí cũng khác nhau và đối  tượng học sinh cũng có sự chênh lệch nhau về nhận thức và trình độ. Đối với học  sinh miền núi, tư  duy, nhận thức cũng như  kĩ năng sống của các em còn thấp hơn   nhiều so với học sinh miền xuôi. Làm thế  nào để  các em có thể  chủ  động chiếm   lĩnh kiến thức một cách chắc chắn và hiệu quả  đó là cả  một vấn đề. Là một giáo  viên đang công tác tại một đơn vị  miền núi, đối tượng học sinh củ  tôi là học sinh  người Bru Vân Kiều, tư duy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế. Làm thế nào  để học sinh sớm tiến bộ, để  có ý thức học tập cao hơn  ? Làm thế nào để giúp các  em cải thiện kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp ? Nhưng câu hỏi đó làm tôi luôn trăn  trở, suy nghĩ, tìm tòi và thử nghiệm giải pháp trong quá trình dạy học. Qua 3 năm trực tiếp giảng dạy môn Sinh học lớp 6 tại đơn vị, tôi hiểu rằng để  học sinh hiểu hết nội dung bài học, chủ  động chiếm lĩnh kiến thức, phát huy tính  tích cực, chủ động, sáng tạo đặc biệt là đối với học sinh con em dân tộc (Bru – Vân  Kiều) thì đòi hỏi mỗi một giáo viên đứng lớp phải làm việc thật nghiêm túc, luôn  Năm học 2015­2016
  2.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 tìm hiểu đặc điểm của đối tượng mình tác động để  có phương pháp dạy học phù   hợp. Khác với học sinh vùng xuôi, con đường tìm đến con chữ  của học sinh miền   núi, vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn vất vả. Học sinh dân tộc miền núi,  vùng sâu, vùng xa có bản tính nhút nhát, thật thà, nhưng lòng tự trọng, tự  ái thì rất  cao. Nếu các em có gì không vừa ý thường tỏ  thái độ  ngay. Đặc điểm nhút nhát,  thật thà cộng với khả  năng diễn đạt bằng tiếng phổ  thông còn nhiều hạn chế, có  những lúc làm cho giáo viên “nóng mặt”. Nếu như  giáo viên thiếu am hiểu tường  tận và không có phương pháp dạy học phù hợp thì rất khó thành công. Thực tiễn có tác dụng thuyết phục rất lớn đối với các em. Các em sống rất  thực tế. Những điển hình gần gũi đều có tác dụng thuyết phục rất lớn. Kiến thức  môn Sinh học lớp 6 rất gần với đời sống thực tiễn. Vì vậy nếu trong quá trình  giảng dạy giáo viên không khéo léo thì học sinh không nắm vững và hiểu được bản   chất của kiến thức trọng tâm và đặc biệt sẽ  không giải thích được một số   hiện  tượng sinh học trong đời sống thường ngày. Xuất phát từ  thực tế  khách quan và những lý do trên tôi mạnh dạn đưa ra  “Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6”. 2. Điểm mới của đề tài :  Tuy đề tài có thể trước đây được nhiều người nghiên cứu nhưng điểm mới và   khác biệt ở đề tài này là : Đã đưa ra một số giải pháp giúp học sinh Bru­Vân Kiều   học tốt môn sinh học 6. Đối tượng trong đề tài tôi đề cập là đối tượng học sinh dân  tộc, các em học tập còn rất thụ  động ; khả  năng tự  học, khả  năng quan sát kênh  hình tìm kiến thức ; khả năng tư duy logic, tính sáng tạo ; khả năng diễn đạt bằng  tiếng phổ thông còn nhiều hạn chế. 3. Phạm vi của đề tài: + Phạm vi: Chỉ  đề cập một số giải pháp giúp học sinh Bru­ Vân Kiều nơi tôi  đang công tác học tốt môn sinh học 6. + Đối tượng : Giáo viên dạy bộ môn sinh học 6 và học sinh Bru­ Vân Kiều lớp  6 tại đơn vị tôi công tác. Năm học 2015­2016
  3.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 II. NỘI DUNG 1. Thực trạng 1.1. Thuận lợi a. Về phía giáo viên: ­ Bộ môn được phân công giảng dạy phù hợp với chuyên môn. ­ Được tập huấn đầy đủ về phương pháp dạy học mới.   ­ Đã giảng dạy bộ môn sinh học 6 nhiều năm ­ Đã tiếp cận với học sinh con em dân tộc Bru­ Vân Kiều 7 năm. ­ Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tạo điều kiện giúp đỡ  về  thời gian  biểu và về lớp dạy tương đối phù hợp. ­ Giáo viên được đào tạo đạt chuẩn ­ Giáo viên đã nắm được hệ  thống các phương pháp dạy học, biết phối hợp  một cách nhuần nhuyễn các phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học tạo nên  nhiều tiết học sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn được học sinh tham gia khám phá, tìm  tòi kiến thức. ­ Được học hỏi nhiều đồng nghiệp trong trường có chuyên môn nghiệp vụ tốt. ­ Luôn có ý thức học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. ­ Giáo viên, học sinh thường tập trung sống  ở nội trú nhà trường ( Từ thứ 2­>  thứ 6) nên dễ nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nắm bắt được tình hình học tập và sở  thích của các em để  từ  đó đề  ra các biện pháp nhằm giúp các em học tốt và hiệu  quả. Năm học 2015­2016
  4.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 ­ Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào giáo viên. Các em thường dễ dàng nghe  theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là giáo viên. Khi các em đã tin giáo viên,  các em thường quyết tâm thực hiện cho được những công việc mà giáo viên giao,   nhiều khi các em còn bắt chước tác phong, cử  chỉ, ngôn ngữ, điệu bộ  ... của giáo  viên. Vì vậy đây chính là một điểm thuận lợi để giáo viên cố gắng trong giảng dạy  để  không phụ sự  tin yêu của các em đã dành cho thầy cô, từ  đó phát huy tính tích  cực học tập của học sinh. ­ Trong những năm gần đây được sự  quan tâm của phụ  huynh và địa phương,  phần nào đó đó tạo động lực cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. b. Về phía học sinh: ­ Kiến thức sinh học 6 rất gần gũi với cuộc sống của các em. ­ Các em chăm ngoan, biết nghe lời. ­ Các kiến thức mới được hình thành gắn chặt với các tình huống thực tiễn. 1.2.   Khó khăn:   a. Về phía giáo viên: ­ Là trường vùng cao nên còn nhiều khó khăn, thiết bị  dạy học số  lượng cơ  bản đầy đủ nhưng chất lượng chưa cao. ­ Đội ngũ giáo viên còn trẻ, thiếu ổn định. ­ Hơn nữa do trình độ nhận thức của các em và phụ huynh còn nhiều hạn chế,   trước đây trong suy nghĩ của phụ huynh và các em là đi học cho thầy, cô chứ không   phải đi học cho bản thân nên các em còn chây lười, nghỉ học tùy tiện, giáo viên đến   vận động thì đi, không đến thì  ở  nhà, phụ  huynh còn mang nặng tư  tưởng khoán   trắng cho nhà trường. Xuất phát từ động cơ học tập trên nên gây không ít khó khăn  cho giáo viên. ­ Học sinh dân tộc Bru – Vân Kiều là đối tượng rất thụ  động, nhút nhát ít có   hứng thú học tập với bộ môn. ­ Phương pháp dạy học mới hiện nay đòi hỏi giáo viên phải tạo điều kiện cho  học sinh tự tìm hiểu để tiếp cận với kiến thức mới tuy nhiên học sinh ở đây còn rất  thụ động, tính tình thì nhút nhát, ngại tiếp xúc, ít tìm hiểu. b. Về phía học sinh: Năm học 2015­2016
  5.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 ­ Học sinh lớp 6 mới được làm quen với phướng pháp mới  ở  trường THCS,   mỗi môn mỗi thầy, mỗi thầy mỗi phương pháp dạy học nên các em còn nhiều bỡ  ngỡ. ­ Đối tượng học sinh là người dân tộc. Các em học tập hầu như  phụ  thuộc  hoàn toàn vào thầy cô. Vì vậy thời gian trên lớp không đủ  để  giúp đối tượng học   sinh dân tộc thành thạo, do vậy giáo viên phải tăng cường thêm các tiết ôn tập phụ  đạo cho các em. ­ Địa phương còn nhiều khó khăn, cuộc sống chủ  yếu dựa vào làm rẫy và sự  hỗ  trợ  của nhà nước, điều kiện sinh hoạt của đa số  đồng bào dân tộc Bru – Vân   Kiều còn ở mức thấp, do đó học sinh ngoài giờ học trên lớp còn phải phụ giúp gia   đình làm kinh tế, vì vậy thời lượng học ở nhà của các em còn hạn chế. ­ Kết quả cuối năm học 2013­2014: THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN KHỐI 6 MÔN SINH  NĂM HỌC: 2013 – 2014 Tổn TB trở  Lớ Giỏi Khá TB Yếu Kém TT g lên p HS SL % SL % SL % SL % SL % SL % 21, 65, 12, 1 6 32 0 0 7 21 4 0 0 28 87,5 8 6 5         ­ Từ thực tế học sinh như trên, tôi đã suy nghĩ làm thế nào để giúp các em tiến   bộ hơn trong học tập, đưa chất lượng bộ môn sớm tiệm cận với miền xuôi, tôi đã  mạnh dạn thử nghiệm và rút ra được các giải pháp như sau: 2. Giải pháp: 2.1. Trang bị sách giáo khoa và đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.  Như chúng ta đã biết sách giáo khoa là một tài liệu không thể thiếu trong việc  học tập của học sinh. Đặc biệt là đối với học sinh con em dân tộc khi mà điều kiện   sống, cơ sở vật chất, công nghệ thông tin đối với các em còn thiếu thốn. Không có   sách giáo khoa thì các em không có tài liệu để tham khảo. Trong chương trình Sinh   học 6, học sinh được làm quen với thế  giới sinh vật, trước hết là thực vật. Sách   giáo khoa sinh học 6 giúp các em tìm hiểu cấu tạo cơ thể một cây xanh từ cơ quan   Năm học 2015­2016
  6.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 sinh dưỡng (rễ, thân, lá) đến cơ quan sinh sản ( hoa, quả, hạt) cùng chức năng của   chúng phù hợp với điều kiện sống. Sách còn giúp các em hiểu được thực vật phong  phú, đa dạng như thế nào qua các nhóm cây khác nhau, chúng đã biến đổi phát triển  ra sao từ  dạng đơn giản nhất đến phức tạp nhất. Ngoài ra, sách còn giúp các em   biết được mối quan hệ  giữa thực vật với môi trường sống cũng như  vai trò của  chúng đối với đời sống con người. Như  vậy ta thấy rằng sách có một vai trò rất  quan trọng trong việc học tập của các em. Cách đây 7 năm khi mới lên công tác thì  tôi nhận thấy tình trạng học sinh thiếu sách giáo khoa và các tài liệu phục vụ  học   tập còn chiếm tỷ  lệ  cao vơi cac nguyên nhân khac nhau nh ́ ́ ́ ư: Gia đình khó khăn   không có tiền mua sách, phụ huynh không quan tâm khoán trắng cho nhà trường, ý  thức giữ gìn sách vở trong học sinh còn nhiều hạn chế, thư viện trường chưa được  trang cấp đầy đủ  để  phục vụ  cho việc mượn của học sinh…..Tuy nhiên trong   những năm gần đây nhờ sự vận động phụ huynh mua sách giáo khoa, giáo viên xin   sách cũ của học sinh vùng thuận lợi, nhà trường kêu gọi các đoàn thiện nguyện hỗ  trợ sách giáo khoa…giờ đây cơ bản học sinh có đầy đủ sách và dụng cụ học tập do   đó mà chất lượng học tập của học sinh nơi đây ngày một nâng cao. 2.2. Nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh Bru­ Vân Kiều để có phương  pháp tác động cho phù hợp. Ngày nay, với quan điểm dạy học hướng vào người học, thì việc phải hiểu  đối tượng mà người thầy đang tác động là điều vô cùng cần thiết. Qua nghiên cứu   người ta thấy rằng đây là lứa tuổi thích “nổi loạn”. Lứa tuổi này đang ở thời điểm  dậy thì nên thoắt vui, thoắt buồn,  ương bướng. Do vậy, chúng ta nên dạy theo   phương pháp “lạt mềm buộc chặt”. Sự thay đổi về nội dung học: các em được tiếp   xúc với nhiều môn học khác nhau, nội dung trừu tượng, phong phú sâu sắc hơn, đòi  hỏi có sự  thay đổi về  phương pháp học. Sự  thay đổi về  phương pháp dạy học và  hình thức học tập:  ở  mỗi môn học có một giáo viên giảng dạy, các em được học   với nhiều thầy cô. Mỗi thầy, cô có cách trình bày, phương pháp dạy học  khác nhau  nên cách dạy và nhân cách của người thầy sẽ tác động vào việc hình thành và phát  triển trí tuệ, cách lập luận, nhân cách của học sinh. Hay nói cách khác đây là lứa  tuổi thay đổi mạnh mẽ về thể chất, sức khỏe và tâm sinh lý. Với ý thức muốn làm  người lớn, muốn khẳng định mình trong gia đình lẫn ngoài xã hội. Vì vậy, chúng ta   cần động viên, dìu dắt quan tâm giúp đỡ  các em. Đối với học sinh Bru­ Vân Kiều,  những hiểu biết về kiến thức xã hội còn ít (hầu như không có), hầu như ở lứa tuổi  Năm học 2015­2016
  7.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 này các em chưa hề đi ra khỏi bản làng, vốn kiến thức còn nghèo nàn, các em còn  nhút nhát, ngại nói, ngại tiếp xúc, tiếp thu bài vở  một cách thụ  động, phụ  thuộc   hoàn toàn vào giáo viên  nhưng “lòng tự  ái, tự  trọng của các em thì rất cao”. Vậy   chúng ta cần làm gì để  các em có thể  chủ  động chiếm lĩnh kiến thức. Đặc biệt là  kiến thức sinh học 6, khi mà kiến thức nó gắn liền với hiện tượng thực tiễn, nó   gắn liền với đời sống các em, nó  ở  xung quanh các em nhưng các em chưa lí giải  được... Do vậy chúng ta cần nghiên cứu  kĩ đặc điểm đối tượng để có cách thức tác  động một cách phù hợp giúp các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Ví dụ  1:  Em A là một học sinh ngoan, học tốt của lớp, nhung dạo gần đây  thấy em hay lơ  đãng trong việc học tập, đặc biệt trong tiết ôn tập hôm  ấy em  không viết bài, tôi gọi lên bảng thì không thuộc, tôi hỏi lí do thì em không trả  lời,  do quá nóng nảy tôi đã trách phạt em, thế  là em lẳng lặng ra khỏi lớp, hai ba hôm  sau em vẫn không tới trường. Qua thông tin mấy bạn cùng lớp thì em bảo không đi  học nữa. Cuối cùng tôi đã tới nhà, trao đổi với phụ huynh. Qua tâm sự, tôi biết hoàn  cảnh gia đình em khó khăn, bố ốm nặng, không có tiền chữa bệnh, trong nhà còn có  3 em nhỏ  đang đi học. Có lẽ  em không thể  theo học được mà phải  ở  nhà giúp đỡ  mẹ cáng đáng công việc gia đình. Thông cảm với hoàn cảnh của em, tôi đã chia sẻ  với gia đình và hứa sẽ  tham mưu với nhà trường, hội phụ  huynh, hội khuyến học,  đề nghị các đoàn thể địa phương giúp đỡ  gia đình em vượt qua khó khăn của hoàn  cảnh hiện tại. Đồng thời tôi cũng phân tích thái độ  của em trong ngày hôm  ấy là   không được. Em đã khóc và xin lỗi tôi. Tôi động viên em cố  gắng vượt qua hoàn  cảnh để  tiếp tục học tập tốt. Với sự giúp đỡ  của mọi người, em đã cố  gắng hơn   trong học tập và đã tiến bộ vượt bậc và trở thành tấm gương học sinh nghèo vượt   khó tiêu biểu nhất của trường tôi. Ví dụ 2: Trong tiết kiểm tra học kì I môn Lịch sử, em B sử dụng tài liệu, tôi đã  tịch thu tài liệu của em. Em B bảo: Cô thu tài liệu của em đến khi kiểm tra môn cô   em không làm. Lúc đó tôi vẫn bình tĩnh đáp: em cứ làm tốt bài thi này đi rồi tôi quay   sang hướng khác. Ngày mai, đến giờ  kiểm tra môn sinh, sau khi chấm bài, ráp   phách, quả thật em để nguyên tờ giấy trắng. Sau khi thi học kỳ xong tôi gọi em lên  văn phòng để trao đổi. Tôi đã phân tích vấn đề  về  sự  nguy hiểm của phao tài liệu   đối với học sinh trong thi cử và ý thức thái độ của em như vậy là không được. Sau   khi nghe tôi phân tích vấn đề em đã xin lỗi tôi và em hứa sẽ cố gắng học tốt trong   học kỳ II này. Năm học 2015­2016
  8.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 2.3. Hướng dẫn học sinh học bài trên lớp và chuẩn bị bài ở nhà một cách  kĩ càng và chu đáo hơn. Để  các em chủ  động chiếm lĩnh tri thức một cách chủ  động chúng ta cần  hướng dẫn các em học tập một cách kĩ càng. Việc hướng dẫn ở đây không có nghĩa   là giáo viên làm thay, làm thế các em mà giáo viên cần hướng dẫn một cách tường   minh hơn như: Đưa ra những câu hỏi gợi mở, hướng dẫn các em quan sát cái gì, tìm   cái gì, rút ra cái gì từ  bức tranh hay mô hình. Có thể  cùng một bài dạy, cùng một  bức tranh nhưng khi dạy học sinh vùng thuận lợi chúng ta chỉ cần hướng dẫn qua là   các em đã tìm ra kiến thức nhưng đối với học sinh dân tộc Bru­ Vân Kiều có lẽ là  rất khó.  Ví dụ:   Khi tìm hiểu khái niệm hoa tự thụ phấn – sinh học 6. Đối với học sinh vùng thuận lợi: Sau khi chiếu hình 30.1 Hoa tự thụ phấn Gv: Qua quan sát hình  ảnh, em hãy cho biết thế nào là hoa tự  thụ  phấn? Học  sinh có thể  trả  lời khái niệm một cách dễ  dàng. Nhưng đối với học sinh dân tộc   Bru­Vân Kiều, nếu giáo viên chỉ  dừng lại với cách hướng dẫn như  vậy thì chắc  chắn học sinh sẽ không rút ra được kiến thức. Do vậy để học sinh rút ra được kiến  thức, giáo viên cần hướng dẫn kĩ hơn. Ví dụ đối với hình 30.1 hoa tự thụ phấn giáo  viên có thể làm theo kiểu hiệu ứng động.  Gv: Qua quan sát hình ảnh em hãy cho biết hiện tượng gì đang xảy ra? HS: Hạt phấn tiếp xúc với đầu nhụy. Năm học 2015­2016
  9.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 GV: Hạt phấn tiếp xúc với đầu ngụy của cùng một cây hay nhiều cây khác   nhau. Hs: Cùng một cây GV: Hiện tượng chúng ta vừa thấy chính là  hiện tượng hoa tự thụ phấn.  Vậy   theo em: Thế nào là hoa tự thụ phấn?  Với cách hướng dẫn như vậy chắc chắn học sinh dân tộc sẽ  nắm được kiến  thức một cách chắc chắn. Song song với việc hướng dẫn kĩ  học sinh học trên lớp chúng ta cũng cần  hướng dẫn kĩ cho các em chuẩn bị bài ở nhà. Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài  cho tiết học sau, giáo viên phải có sự  hướng dẫn các em một cách cụ  thể, tránh  trường hợp ra một câu lệnh dưới dạng dặn dò: “Hôm sau chúng ta học bài ... các   em về nhà đọc trước bài”, thì sẽ không có tác dụng là bao, mà giáo viên phải dặn kĩ   hơn như  quan sát hình số  mấy, kết hợp đọc sách trả  lời vào giấy nháp câu lệnh  gì?...Đối với những bài có thí nghiệm thì phải hướng dẫn các em cách làm, cách   quan sát, ghi chép lại sự  quan sát của mình... Đối với những bài có liên quan đến   mẫu vật thật thì hướng dẫn các em cách tìm, cách thu thập, cách bảo quản mẫu   vật. Đôi khi giáo viên cùng học sinh đi chuẩn bị mẫu vật. Học sinh người dân tộc ở đây có đặc điểm học khó nhớ nhưng nhanh quên, chỉ  học trên lớp mà không có thói quen học ở nhà. Phụ huynh thì lơ là, ít quan tâm. Trên   lớp chỉ 45 phút không thể truyền tải một cách trọn vẹn đầy đủ  về kiến thức trọng  tâm lẫn kiến thức vận dụng, liên hệ thực tế. Do vậy chỉ học trên lớp thôi chưa đủ  mà cần phải có ý thức học ở nhà. Để làm được điều đó đòi hỏi mỗi một giáo viên  phải thường xuyên nhắc nhở  các em, quan tâm, động viên các em, giáo viên cùng  học với các em (Buổi tối giáo viên có thể  tranh thủ thời gian trực nội trú hay thời  gian rãnh qua các phòng nội trú nhắc nhở các em học bài, hay cùng các em lên học  trên các phòng học, các em học bài, giáo viên soạn bài, thỉnh thoảng giáo viên cũng  đến thăm hỏi việc học tập của các em ở ngoài nội trú…). Nếu làm được như  vậy  chắc chắn chất lượng học tập của học sinh sẽ  ngày một nâng cao tiệm cận với   học sinh vùng thuận lợi. 2.4.   Tăng   cường   sử   dụng   TBDH   đặc   biệt   là   mẫu   vật   sẵn   có   tại   địa  phương. Năm học 2015­2016
  10.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 Phương pháp dạy học đặc trưng của bộ  môn sinh học nói chung và bộ  môn  sinh học 6 nói riêng là phương pháp trực quan, thí nghiệm thực hành. Mặt khác với  yêu cầu đổi mới của phương pháp dạy học thì thiết bị  dạy học chính là những  thông tin để học sinh tìm hiểu và khai thác. Từ đó hình thành kiến thức bài học. Do   vậy thiết bị  dạy học không thể  thiếu trong các tiết sinh học. Đặc biệt là đối với   học sinh dân tộc khi mà mọi thứ  đối với các em đều là mới mẻ, khả  năng tư  duy  trừu tượng còn hạn chế  do vậy đòi hỏi mỗi một giáo viên đứng lớp cần chuẩn bị  tốt thiết bị dạy học đặc biệt là các mẫu vật sẵn có tại địa phương. Để chuẩn bị tốt thiết bị dạy học hoặc mẫu vật sẵn có tại địa phương cho mỗi  tiết lên lớp chúng ta cần phải :  + Phải nghiên cứu trước các nội dung thông tin có  ở  tranh  ảnh, hình vẽ, mẫu  vật ... để có thể định hướng, hướng dẫn học sinh tìm hiểu tránh chủ quan. + Nếu là thí nghiệm biểu diễn, thực hành thì giáo viên phải thực hiện trước để  lường hết các tình huống nhằm đảm bảo sự thành công của thí nghiệm. + Tranh ảnh, đồ dùng trực quan phải đảm bảo tính chính xác khoa học. + Phải tập biểu diễn thành thạo các thao tác khi sử dụng thiết bị để tránh lảng  phí thời gian, đồng thời đảm bảo tính mô phạm trước học sinh, tuyệt đối không   được tùy tiện. + Sử  dụng hợp lý thiết bị  dạy học, đúng thời điểm thì mới có hiệu quả  (Khi  sử  dụng tranh giáo viên cần chú ý đến thời điểm xuất hiện của bức tranh và thời  gian lưu trên bảng của bức tranh: sau khi quan sát xong, học sinh đã trả  lời được  nội dung bức tranh cần truyền tải  => Giáo viên phải lấy tranh và cất ngay, tránh  tình trạng lưu tranh thời gian lâu học sinh sẽ bị phân tán ở các hoạt động khác...). Kết hợp tốt giữa thiết bị dạy học với phương tiện dạy học hiện đại (như xem   băng hình, đèn chiếu, máy chiếu...) nhằm tạo hứng thú trong học tập của học sinh. Ví dụ: Khi so sánh cấu tạo trong thân cây trưởng thành và thân cây non –   Sinh học 6. Nếu giáo viên chỉ dùng lời nói thì học sinh sẽ nhớ kiến thức một cách máy móc   và rất nhanh quên. Nhưng nếu giáo viên sử  dụng 2 sơ  đồ  minh họa sau kèm theo   những lời gợi ý  thì chắc chắn học sinh sẽ  tự rút ra được kiến thức và các em sẽ   nhớ kiến thức lâu hơn. Năm học 2015­2016
  11.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 Hình 1: Sơ đồ cấu tạo trong thân non Hình 2: Sơ đồ cấu tạo trong của thân cây trưởng thành (1­Biểu bì  ;  2­Thịt vỏ;  3­Mạch rây;  4­Mạch gỗ; 5­Ruột; I­Tầng sinh vỏ; II­ Tầng sinh trụ) GV: Yêu cầu HS quan sát kĩ sơ  đồ  hình 1 và sơ  đồ  hình 2. Các em chú ý các   chú thích ở vị trí số 1,2,3,4,5, I, II trong 2 sơ đồ. Sau đó lần lượt trả lời các câu hỏi   sau: ? Trong sơ đồ cấu tạo trong thân non có những phần nào giống với sơ đồ  cấu   tạo trong của thân cây trưởng thành.  ? Những thành phần nào ở thân cây trưởng thành có mà thân non không có. => Từ  đó giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành bài tập so sánh về  cấu tạo   trong thân non và thân cây trưởng thành. Năm học 2015­2016
  12.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 Ví dụ : Khi tìm hiểu vòng gỗ hằng năm – sinh học 6 Nếu giáo viên chuẩn bị  tốt kênh hình 16.3 sgk trang 53 kết hợp chuẩn bị  tốt   mẫu vật thật (giáo viên và học sinh chuẩn bị, giáo viên hướng dẫn học sinh cắt   chéo mặt gỗ  để  vòng gỗ  thể  hiện rõ hơn) để  học sinh đếm vòng gỗ  trên mẫu vật   thật thì học sinh sẽ nắm chắc chắn kiến thức hơn. 2.5. Giáo viên phải  thường xuyên trau dồi chuyên môn nghiệp vụ  để  có  năng lực giảng dạy tốt. Năng lực sư  phạm  ở đây không chỉ  nói đến năng lực chuyên môn mà còn nói   đến năng lực về  sử dụng các phương pháp dạy học, hình thức tổ  chức hoạt động  của lớp, về  tình trạng sức khỏe, giọng nói, ngữ  diệu của giáo viên…..Nếu thiếu  một trong những năng lực ấy thì sẽ ảnh hưởng đến việc dạy và học. Người có năng lực về chuyên môn sẽ thông hiểu được kiến thức của sách giáo  khoa, từ  đó nắm được ý đồ  của sách. Ngược lại nếu không nắm chắc sẽ  không  hiểu đúng, dẫn đến việc hướng dẫn cho học sinh có những lệch lạc nhất định. VD: Khi so sánh cấu tạo trong giữa thân non và rễ (miền hút). Nếu như không   nắm chắc kiến thức thì qua sơ  đồ  giáo viên chỉ  phát hiện điểm khác nhau:  ở  rễ   ( miền hút) có lông hút còn  ở  thân non thì không có lông hút. Nếu như  nắm chắc   kiến thức thì sẽ phát hiện ra điểm khác nhau nữa ở vị trí sắp xếp của mạch gỗ và   mạch rây. Năm học 2015­2016
  13.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 Hình 1: Sơ đồ cấu tạo thân non Hình 2: Sơ  đồ  cấu tạo miền hút của rễ  (A: Sơ  đồ  chung; B: cấu tạo chi tiết   một phần của rễ (xem dưới kính hiển vi) )1: Lông hút; 2: Biểu bì; 3: Thịt vỏ;   4:   Mạch rây; 5: Mạch gỗ; 6 Ruột Có kiến thức vững chắc giúp giáo viên nắm bắt một cách nhanh chóng những   kiến thức kĩ năng trọng tâm của chương trình. Nhờ  đó mà khi dạy giáo viên chủ  động khắc sâu kiến thức cơ  bản xuyên suốt chương trình, chú ý hình thành các kĩ   năng cơ  bản cho học sinh. Cũng có thể  đưa ra những tình huống chuẩn bị  cho bài  học tiếp theo. Hay nói cách khác là giáo viên xác định được tiết học này mình dạy   cái gì ? và dạy đến đâu? Việc nắm chắc nội dung bài dạy sẽ giúp cho người giáo viên định hướng đúng  việc sử dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp.   Tức là người giáo viên trả lời được câu hỏi: Dạy như thế nào? Ví dụ :Khi dạy bài: “Sự thoát hơi nước của lá – Sinh học 6”. Ví dụ: Khi dạy bài: “ Thân dài ra do đâu?­ sinh học 6” Đây là kiểu bài nghiên cứu các hiện tượng sinh học nên dùng phương pháp   thực hành kết hợp với hình thức quan sát và ghi chép các hiện tượng. Người giáo viên có nắm chắc kiến thức mới vận dụng được kiến thức mới  vào thực tế  cuộc sống, mới hướng dẫn giúp học sinh giải thích được các hiện  tượng sinh học xảy ra xung quanh phù hợp với kiến thức đã học.   Ví dụ  qua bài   Thân dài ra do đâu? – sinh học 6. Học sinh sẽ  giải thích được: Khi trồng đậu,   Năm học 2015­2016
  14.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 bông,, cây rau mồng tơi, cây bầu bí  người ta thường ngắt ngọn. Hay khi trồng cây   lấy gỗ, người ta thường tỉa cành xấu, cành bị sâu mà không bấm ngọn.  Quả thật có kĩ năng sư phạm tạo cho người thầy xử lí linh hoạt các tình huống   trên lớp một cách nhuần nhuyễn có nghệ thuật, không cứng nhắc đồng thời tạo ra   các tình huống mới hấp dẫn lôi cuốn học sinh. Từ đó giúp học sinh tìm hiểu và giải  quyết vấn đề một cách nhanh chóng. 2.6. Giáo viên phải có lòng yêu nghề, có ý thức trách nhiệm cao. Khi giáo viên có năng lực sư phạm, nếu có thêm lòng yêu nghề và ý thức trách   nhiệm thì chắc chắn không có việc gì khó. Lòng yêu nghề tức là lòng yêu công việc  dạy học, coi việc dạy học là niềm vui, lúc nào cũng hứng thú dạy học, muốn  truyền thụ tất cả những kiến thức mình có cho học sinh thân yêu. Luôn yêu quý học  sinh, coi học sinh như con, như em út trong nhà, luôn có trách nhiệm trong từng tiết   dạy, bài dạy. 2.7. Giáo viên phải chuẩn bị kĩ bài dạy. 2.7.1: Chuẩn bị tốt bài soạn:   Với tinh thần đổi mới giáo dục phổ  thông thì bài soạn thực chất là lập kế  hoạch tổ chức và điều khiển các hoạt động dạy học, nhằm đạt được mục tiêu đề  ra. Soạn bài là sự thiết kế, tạo dựng nên các hoạt động nhịp nhàng giữa thầy và trò,   sao cho thầy đóng vai trò định hướng, tổ chức và điều khiển quá trình dạy học trên  lớp, còn trò hoạt động một cách chủ động theo hướng dẫn của thầy để chiếm lĩnh  tri thức một cách nhẹ nhàng, không áp đặt. Các hoạt động cần được thiết kế, tạo   dựng liên tiếp có mối liên hệ logic chặt chẽ theo chủ định, được diễn ra một cách  hài hòa giữa giáo viên và học sinh trong một tiết học. Để chuẩn bị tốt một bài soạn cần có những yêu cầu sau đây: ­ Giáo viên cần nắm chắc mục tiêu cần đạt của bài dạy, đặc điểm của học   sinh, điều kiện vật chất hiện có (thiết bị dạy học). ­ Hiểu được cặn kẽ những nội dung kiến thức và kĩ năng nào cần hình thành   và cần rèn cho học sinh, mở rộng kiến thức nào... ­ Định ra được các hình thức tổ  chức lớp học theo từng phần của bài, qua đó   xác định rõ công việc của thầy và trò.  Năm học 2015­2016
  15.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 ­ Lựa chọn đúng, đủ  các thiết bị  dạy học cần dùng trong một tiết học để  chuẩn bị. Tóm lại: Công tác soạn bài có tầm quan trọng đặc biệt nó quyết định sự thành   công hay thất bại của một tiết trên lớp. Nó chính là bản hướng dẫn hành động cho  người giáo viên. Do vậy, không được xem thường, qua loa, máy móc, xa rời đối   tượng học sinh; điều kiện cơ sở vật chất hiện có. 2.7.2. Chuẩn bị thiết bị dạy học. Sinh học nói chung và sinh học 6 nói riêng là môn khoa học thực nghiệm,  phương pháp dạy học chủ yếu là trực quan, thí nghiệm thực hành do vậy trong mỗi   tiết lên lớp chúng ta cần chuẩn bị tốt các thiết bị dạy học giúp học sinh chiếm lĩnh  kiến thức một cách chủ động. Ví dụ: Khi dạy học sinh phân biệt lớp một lá mầm và lớp hai lá mầm. Nếu  như  có sự  chuẩn bị mẫu vật trước hay các tranh ảnh minh họa thì học sinh rất dễ  dàng phân biệt và dễ dàng sắp xếp các cây đó vào nhóm cây một lá mầm hay nhóm   cây hai lá mầm.Ngoài ra giáo viên nhấn mạnh thêm về  số  lá mầm của phôi trong  hạt là được. 2.8 : Thực hiện tốt các khâu lên lớp.          2.8.1: Ổn định lớp : Kiểm tra việc chuẩn bị vật dụng của các nhóm (nếu có) 2.8.2: Kiểm tra bài cũ: Tạo sự  vui tươi, thoải mái tạo hứng thú cho học sinh  tiếp thu bài mới. (Có thể  cho các nhóm trưởng kiểm tra tình hình học tập bài cũ   của nhóm rồi báo cáo cho giáo viên). 2.8.3: Giới thiệu bài : Giáo viên giới thiệu bài một cách tự nhiên, vui vẻ nhưng  bám sát nội dung cần khai thác, tạo nên những tình huống có vấn đề, kích thích học   sinh tìm hiểu. 2.8.4: Nội dung bài dạy : Đây chính là nội dung chính của bài. Chính vì vậy   giáo viên phải thật sự  bình tĩnh, tự  tin và quyết đoán trong giảng dạy. Đồng thời  khi giảng dạy giáo viên phải tạo sự thoải mái, vui vẻ tạo sự hứng thú học tập cho  học sinh. Khi đặt câu hỏi phải chính xác, tránh lặp lại câu hỏi nhiều lần, giáo viên  cần bao quát lớp tốt để dạy cụ thể hóa từng đối tượng học sinh.Việc dạy học phải  linh hoạt, phải biết kết hợp tốt các kĩ năng: hỏi đáp, diễn giải, viết bảng, quan sát,   phân tích, tổng hợp… Năm học 2015­2016
  16.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6  2.8.5: Củng cố: Cần ngắn gọn, sinh động tạo ra các trò chơi nhằm kích thích  sự hứng thú cho học sinh.  2.8.6: Dặn dò: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh một cách kĩ càng nhằm giúp  học sinh vừa học tốt bài củ vừa chuẩn bị tốt bài mới.  2.9. Đẩy mạnh đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Như đã nói ở trên học sinh dân tộc Bru­ Vân Kiều có đặc điểm học mau quên  do vậy chúng ta cần tăng cường công tác kiểm tra kết quả học tập của các em. Quá   trình kiểm tra phải bám chuẩn kiến thức kĩ năng của từng môn học để  kiểm tra.  Qua mỗi lần kiểm tra một lần nữa kiến thức cũ được tái hiện, một lần nữa các em  được nhớ lại các kiến thức đã học. Mặt khác thông qua việc kiểm tra chúng ta đánh   giá được khả  năng học tập của từng học sinh, phân loại được trình độ  học sinh.  Ngoài ra, từ kết quả học tập của học sinh mà giáo viên có thể điều chỉnh quá trình   dạy học của chính mình. Trong quá trình kiểm tra, giáo viên cần đa dạng hóa các   hình thức kiểm tra như có thể kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, có  thể  bằng hình thức tự  luận hay trắc nghiệm miễn sao giúp học sinh củng cố  lại   kiến thức và khắc sâu thêm kiến thức. Đồng thời tạo điều kiện cho học sinh được  đánh giá, nhận xét kết quả của nhau. 3. Một số kết quả bước đầu( đối tượng 100% con em dân tộc Bru ­Vân  Kiều) Với những giải pháp trên từ năm học 2013­2014 đến năm học 2014­2015 tôi đã  thu được những kết quả  khả  quan sau: Tỷ  lệ  khá giỏi đã tăng hơn trước, số  học  sinh yếu kém càng ngày càng giảm, đây là một tín hiệu đáng mừng trong việc nâng  cao hiệu quả đào tạo môn sinh tại trường. THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN KHỐI 6 MÔN SINH  NĂM HỌC: 2013 ­ 2014 TS  Giỏi Khá TB Yếu TB trở lên Lớp HS SL % SL % SL % SL % SL % 6 32 4 12,5 9 28,1 17 53,1 2 6,3 30 93,8 THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN KHỐI 6 MÔN SINH Năm học 2015­2016
  17.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6  NĂM HỌC: 2014 ­ 2015 Lớp Tổng  Giỏi Khá TB Yếu TB trở lên số  SL % SL % SL % SL % SL % HS 6 19 2 10,5 7 36,8 10 52,7 0 0 19 100                                                     III . KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của đề tài: Quả thật để giúp học sinh Bru­ Vân Kiều lĩnh hội một cách chủ động các kiến   thức kĩ năng trong bộ môn sinh học 6 hẳn không phải là một điều dễ dàng. Để làm   được điều đó đòi hỏi mỗi một giáo viên phải luôn tâm huyết, trăn trở với nghề để  tìm ra các giải pháp giúp các em nắm vững kiến thức hòa nhập với học sinh vùng   thuận lợi. Bằng cách này hay cách khác phải trang bị đủ sách giáo khoa cho các em,  phải tìm hiểu rõ đối tượng học sinh để  có cách thức tác động cho phù hợp,   khi  hướng dẫn các em học bài cần hướng dẫn kĩ hơn, phải thường xuyên có ý thức   chuẩn bị TBDH trước khi lên lớp nhất khoát không dạy chay một tiết sinh học nào.  Phải có lòng yêu nghề, có ý thức trách nhiệm cao. Không ngừng học hỏi để có năng  lực sư  phạm vững vàng. Phải thường xuyên nghiên cứu kĩ bài dạy trước khi lên  lớp. Nếu tuân thủ các giải pháp trên  chắc chắn chất lượng bộ môn sinh của trường  sẽ ngày càng được nâng cao.  Thực vậy, sau 2 năm áp dụng đề tài, giờ đây học sinh của tôi đã có sự tiến bộ  hẳn về chất lượng học tập bộ môn. Các em đã giảm bớt nhiều tính tự ái trong học  tập và chủ động mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Đa số học sinh đã tự giác chuẩn   bị bài ở nhà đầy đủ, giữ gìn sách vở cẩn thận. Các em đã mạnh dạn khi thảo luận   nhóm ….nhờ vậy chất lượng ngày càng được nâng cao. Năm học 2015­2016
  18.  Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6 Vì trong phạm vi hạn hẹp của một sáng kiến, thời gian áp dụng chưa lâu tất  nhiên công tác kiểm chứng chưa chuẩn xác rất mong được sự  góp ý giúp đỡ  của  các đồng nghiệp. 2. Kiến nghị. 2.1. Với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ  cho giáo viên.   Nên tổ  chức thêm các hội thảo chuyên đề  chuyên về  PPDH cho giáo viên trong  huyện, tỉnh qua hàng năm. Đối với ngành giáo dục cần trang bị, bổ sung các tranh ảnh khổ lớn đầy đủ và  cung cấp các tài liệu tham khao đ ̉ ể giáo viên có điều kiện tham khảo. 2.2. Với BGH nhà trường Cần đầu tư thêm môt sô thi ̣ ́ ết bị và đồ dùng phục vụ dạy học bộ môn.  2.3. Với phụ huynh học sinh: Cần quan tâm việc tự  học, tự  làm bài tập  ở  nhà của con cái. Thường xuyên  kiểm tra sách, vở và việc soạn bài trước khi đến trường của các em.   Trên đây là một số giải pháp giúp học sinh Bru Vân Kiều học tốt môn Sinh học  6 đã được tôi áp dụng trong quá trình dạy học của mình. Qua 3 năm thực hiện các  giải pháp trong đề tài, tôi đã thu được những kết quả khả quan. Tuy vậy, trong quá  trình trình bày các giải pháp cũng như  trong lập luận của đề  tài chắc không tránh  khỏi những thiếu sót. Kính mong các các thầy cô giáo, đồng chí đồng nghiệp đóng  góp ý kiến để sáng kiến có chất lượng hơn, thiết thực hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Năm học 2015­2016
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2