intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện dành cho học sinh lớp 9

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

131
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài: Tìm ra được phương pháp rèn cho học sinh cách viết đoạn văn nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện. Đổi mới cách làm, phương pháp giảng dạy nghị luận văn học nhất là nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện (tức là phân tích, cảm nhận…về nhân vật).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện dành cho học sinh lớp 9

Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> I. PHẦN MỞ ĐẦU<br /> 1. Lí do chọn đề tài.<br /> Tôi rất tâm đắc câu nói của Vijaya Lankshmi Pandit: “ Mục tiêu của giáo dục  <br /> không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ  để  đạt được sự  giàu có,  <br /> mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái “ Chân” và thực  <br /> hành cái   “Thiện”. Đúng vậy! Môn Ngữ  văn có sứ  mệnh cao đẹp đó: hình thành  <br /> những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bè bạn, <br /> có lòng yêu nước, yêu chủ  nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư  tưởng, tình cảm  <br /> cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, lòng căn ghét cái xấu, cái ác. <br /> Đó là những con người biết rèn luyện để  có tính tự  lập, có tư  duy sáng tạo, bước  <br /> đầu có năng lực cảm thụ giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật. Đó cũng là những <br /> con người biết ham muốn để  đem tài trí của mình cống hiến cho sự  nghiệp xây  <br /> dựng và bảo vệ Tổ quốc. <br /> Trên thực tế, việc giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc THCS rất phong phú về đề <br /> tài và đa dạng về thể loại trong đó có thể loại nghị luận. Văn nghị luận chiếm vị trí  <br /> quan trọng trong nội dung chương trình giảng dạy môn Ngữ  văn lớp 7.8.9. Mặc dù <br /> việc dạy văn nghị  luận trong nhà trường đã được tiến hành từ  lâu, song phương <br /> pháp, hiệu quả  giảng dạy còn nhiều điều trăn trở  vì một số  giáo viên chưa chú <br /> trọng nhiều đến việc rèn các kĩ năng viết văn nghị luận cho học sinh. Bên cạnh đó, <br /> thực trạng học văn, viết văn nghị luận ở trường mà tôi đang công tác còn nhiều hạn  <br /> chế  trong cách thức trình bày, lập luận thiếu sự  thuyết phục và có hạn chế  trong  <br /> việc viết văn nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện.…Vì vậy, tôi thiết nghĩ, <br /> mỗi giáo viên cần phải rèn cho học sinh kĩ năng viết văn nghị  luận. Trong đó, kĩ  <br /> năng viết văn nghị luận phải xuất phát từ kĩ năng viết đoạn văn nghị luận. <br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br /> Mục tiêu<br /> ­ Tìm ra được phương pháp rèn cho học sinh cách viết đoạn văn nghị luận về <br /> nhân vật trong tác phẩm truyện. <br /> ­ Đổi mới cách làm, phương pháp giảng dạy nghị  luận văn học nhất là nghị <br /> luận về nhân vật trong tác phẩm truyện (tức là phân tích, cảm nhận…về nhân vật)<br /> Nhiệm vụ<br /> ­ Nghiên cứu thực trạng về  dạy học ngữ  văn nói chung và dạy văn nghị  luận <br /> văn học nói riêng tại trường THCS Lương Thế Vinh.<br /> ­ Đề ra những giải pháp hiệu quả  và cụ  thể  để  giúp học sinh rèn kĩ năng viết <br /> đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  3. Đối tượng nghiên cứu<br /> <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     1<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> ­ Phương pháp rèn kĩ năng viết văn nghị  luận về  nhân vật trong tác phẩm  <br /> truyện.<br /> 4. Giới hạn của đề tài<br /> ­ Đề  tài này được nghiên cứu và thử  nghiệm tại trường THCS Lương Thế <br /> Vinh ­ H.Krông Ana – T. Đăk Lăk<br /> ­ Nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hay rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về <br /> một nhân vật trong tác phẩm truyện.<br /> Những vấn đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu trước đây, nhưng qua quá <br /> trình giảng dạy tôi đã đúc rút ra những kinh nghiệm của riêng mình. Có những nội <br /> dung cũ, có nội dung mới, nhưng tôi muốn chia sẻ những kinh nghiệm của mình đã  <br /> qua thử nghiệm và có kết quả khả quan.<br /> 5. Phương pháp nghiên cứu<br /> ­ Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu các nghiên cứu về  dạy Ngữ <br /> văn, đặc biệt là nghị luận văn học<br /> ­ Phương pháp quan sát: Quan sát quá trình giảng dạy của giáo viên và quá <br /> trình lĩnh hội của học sinh.<br /> ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:<br /> + Tham khảo những kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước.<br /> + Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.<br /> ­ Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào quá trình giảng <br /> dạy Ngữ văn ở lớp 9A1, 9A4 trường THCS Lương Thế Vinh.<br /> II. PHẦN NỘI DUNG<br /> 1. Cơ sở lí luận <br /> Từ  năm 1998, Bộ  giáo dục đã triển khai dự  án phát triển giáo dục THCS <br /> nhằm đổi mới toàn diện bậc học này.Môn Ngữ  văn là môn có vị  trí vô cùng quan <br /> trọng trong các môn học ở bậc học phổ thông và cũng là môn học có nhiều thay đổi <br /> nhất trong việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và đánh <br /> giá kết quả học tập. Nhiều vấn đề được đặt ra, trong đó đổi mới phương pháp dạy,  <br /> nâng cao chất lượng học được đặt lên hàng đầu.<br /> Để dạy tốt môn Ngữ văn 9, nhất là văn nghị luận, đòi hỏi giáo viên phải kết  <br /> hợp nhiều phương pháp, tích hợp nhiều phân môn. Tùy vào từng chủ đề của bài học <br /> mà giáo viên tích hợp cho thích hợp. Giáo dư Lê Trí Viễn đã từng nói: “Dạy văn lấy <br /> cảm làm đâu”. Giáo viên dạy văn, nhất là văn nghị  luận không thể  nghèo nàn về <br /> cảm xúc. Bởi hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận nhất là nghị luận về nhân vật  <br /> phải có cảm xúc chân thật. Giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn ngoài vốn kiến thức  <br /> về chuyên môn còn phải không ngừng trau dồi, học hỏi nâng cao trình độ, nâng cao  <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     2<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> kiến thức xã hội; giáo viên còn có khả năng sử dụng và truyền đạt ngôn từ cho học <br /> sinh. <br /> Môn Ngữ văn là một môn rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc hình thành, định <br /> hướng, phát triển nhân cách cho học sinh. Học văn là học làm người, học phép ứng <br /> nhân xử  thể  trong cuộc sống. Đây cũng là một môn học nghệ  thuật kích thích trí <br /> tưởng tượng bay bổng, sáng tạo của người học. Vì thế  để  dạy tốt môn Ngữ  văn, <br /> người dạy phải không ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn, kiến thức về  cuộc <br /> sống, xã hội.<br /> ̀ ̣<br /> La môt giao viên đang tr<br /> ́ ực tiếp giảng dạy môn Ngữ  văn, tôi rất mong muốn  <br /> tìm được những phương pháp dạy học tích cực mới để  giúp học sinh lĩnh hội kiến <br /> thức tốt hơn.<br /> 2. Thực trạng<br /> a. Thuận lợi<br />   ­Về phía nhà trường: Được sự chi đao, quan tâm sâu sat cua chi bô Đang, cua<br /> ̉ ̣ ́ ̉ ̣ ̉ ̉  <br /> ̣ ̀ ường, được sự giup đ<br /> Ban Giam Hiêu nha tr<br /> ́ ́ ỡ của các đồng chí trong tổ chuyên môn.<br /> ­ Về  phía giáo viên: Giao viên gi<br /> ́ ảng dạy nhiệt tình, luôn tìm tòi học hỏi để <br /> trau dồi kiến thức đồng thời tìm ra được những phương pháp học tập tích cực. Giáo  <br /> viên đã được trực tiếp giảng dạy nhiều năm, đặc biệt là dạy học sinh lớp 9; giáo  <br /> viên đã nhiều năm ôn thi tuyển sinh cho học sinh cuối cấp và ôn thi học sinh giỏi các  <br /> cấp. Tôi nhận thấy rằng  khối lớp này đề cập tới chủ yếu là kiểu văn nghị luận. Và <br /> tôi đã thấy được những điểm yếu của học sinh, trong đó có kĩ năng viết đoạn văn <br /> nghị  luận về  nhân vật trong tác phẩm truyện còn hạn chế  nên trăn trở. Tôi đã rèn  <br /> cho học sinh về vấn đề này và đã thu được kết quả khả quan.<br />      ­ Về  phía học sinh:  Ở  những lớp dưới, các em đã có hiểu biết căn bản cách  <br /> trình bày đoạn văn như đoạn văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh. Ít nhất, học  <br /> sinh có thể  hình dung thế  nào là một đoạn văn. Tuy mỗi đoạn văn trên đều mang  <br /> đặc trưng riêng biệt của nó nhưng các em đã có thể  biết tập hợp các câu văn phù <br /> hợp về vấn đề để tạo thành một đoạn văn..<br /> Học sinh đã được học văn nghị luận ở lớp 7 và 8, đặc biệt là học sinh lớp 8 đã <br /> được học cách xây dựng đoạn văn và liên kết đoạn văn trong văn bản.<br /> b. Khó khăn<br /> * Những vấn đề còn tồn tại và hạn chế của chương trình SGK.<br /> Mặc dù các em đã được học về văn nghị luận ở lớp 7 (tiết 79, 83, 84, 87, 88,  <br /> 91, 92, 98, 99, 100, 103, 104, 112, 116 và học về  cách xây dựng đoạn văn   ở  lớp 8 <br /> ( tiết 12, 17, 99,100 ) nhưng chương trình Ngữ  văn lớp 9 không có tiết ôn tập văn  <br /> nghị  luận nên học sinh có thể  quên những lí thuyết cơ  bản về  văn nghị  luận cũng <br /> như đoạn văn nghị luận.<br /> <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     3<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> Riêng đối với nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, học sinh lớp 9 chỉ được học  <br /> trong 03 tiết cách thức làm một bài văn, trong khi đó khi thi học kì và thi tuyển sinh,  <br /> các em không làm thành bài mà viết đoạn văn độc lập với số  câu qui định. Quan <br /> trọng hơn là những năm gần đây, cấu trúc đề thi, kiểm tra thường xuyên, định kì, thi  <br /> h ọc sinh giỏi thường xuyên ra. Vì vậy, buộc giáo viên phải chú ý đặc biệt tới vấn  <br /> đề này.<br />    * Phương pháp giảng dạy của giáo viên.<br /> Một số giáo viên chưa quan tâm, chú ý rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.  <br /> Việc chưa quan tâm này cũng do nhiều yếu tố. Phần nhiều bởi khung chương trình  <br /> của khối lớp, đặc biệt là lớp 8, giáo viên cố gắng dạy hết lượng kiến thức yêu cầu  <br /> theo Chuẩn kiến thức kĩ năng nên không còn thời gian để rèn kĩ năng viết đoạn văn <br /> cho học sinh. Nhưng lớp 9 văn nghị  luận là trọng tâm mà viết đoạn văn là chủ  yếu  <br /> vì các em phải vận dụng nó trong các bài kiểm tra định kì, các kì thi nên buộc giáo <br /> viên phải lồng ghép, kết hợp để rèn cho học sinh, do đó gặp không ít khó khăn.<br />          Giáo viên chưa chú ý đúng mức đến những giải pháp khắc phục những hạn  <br /> chế  của SGK về  rèn kĩ năng viết đoạn trong các giờ  trả  bài, hướng dẫn tự  học  ở <br /> nhà, tăng thêm đoạn văn mẫu, kiểm tra viết đoạn, tích hợp các văn bản.  Hơn nữa, <br /> trong chương trình không có tiết rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị  luận. Do đó, giáo <br /> viên chưa dành thời gian ra đề cho học sinh về nhà tự viết và kiểm tra, sửa bài. <br />      *Kỹ năng viết đoạn văn của học sinh.<br /> ­ Học sinh ít được thực hành viết đoạn văn nghị luận. Lớp 7, 8 tổng số tiết là <br /> 05 tiết. Lớp 9 tổng số tiết là 03 tiết.<br /> ­ Học sinh có những hiểu biết còn hạn chế  về  đoạn văn nói chung và đoạn  <br /> văn nghị  luận nói riêng và đặc biệt là đoạn văn nghị  luận văn học mà trong đó có <br /> đoạn văn về nhân vật trong tác phẩm truyện.<br /> Ví dụ: Trong phiếu thăm dò đầu năm vừa qua, tôi ra câu hỏi cho học sinh hai <br /> lớp mà tôi đang giảng dạy là lớp 9a1 (lớp mũi nhọn) và lớp 9a4 (đại trà) với đề bài:<br /> Đề  1: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau: “  <br /> Vũ Nương trong  Chuyện người con gái Nam Xương  là một người con dâu hiếu <br /> thảo, nghĩa tình”.<br /> Đề  2: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau: “  <br /> Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương là một người phụ nữ hết lòng <br /> vì gia đình”.<br />  Qua phần chấm bài, lớp đại trà (9a4), tổng số 28 hs mà có tới 15 học sinh viết câu  <br /> này thành bài văn hoặc có nhiều em viết thành 3­4 đoạn văn. Lớp 9a1 vẫn còn một  <br /> học sinh viết gạch đầu dòng và thành 04 đoạn văn. Điều đó có chứng tỏ  rằng các  <br /> em chưa hiểu một đoạn văn là gì? <br /> ­  Học sinh thiếu kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về nhân vật.<br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     4<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> Một số  học sinh chưa viết đúng hình thức của một đoạn văn: Viết thành bài  <br /> văn, viết nhiều đoạn, liệt kê các ý gạch đầu dòng. Học sinh không tìm được luận  <br /> điểm chính, không biết triển khai luận điểm, chưa biết sử dụng lí lẽ và dẫn chứng  <br /> để triển khai luận điểm.<br /> Ví dụ  1: Đề  2: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận <br /> điểm sau: “ Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương là một người phụ <br /> nữ hết lòng vì gia đình”. Có học sinh đã viết như sau:<br />   ­ Vũ Nương là người con gái thùy mị, nết na, tư  dung tốt đẹp. Vũ Nương <br /> được gả  vào gia đình Trương Sinh luôn giữ  gìn khuôn phép­> người con gái hoàn <br /> hảo, đẹp người, đẹp nết.<br /> ­ Vũ Nương chưa từng làm cho cha mẹ phải thất hòa.<br /> ­ Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy để chào tạm biệt.  <br /> nói những lời yêu thương và mong muốn sớm được đoàn tụ.<br /> ­ Những dẫn chứng trên cho thấy Vũ Nương rất tốt.<br /> Đề bài yêu cầu là viết “một đoạn văn” thì các em lại viết thành “nhiều đoạn <br /> văn”. Các em   chưa xác định được câu trên đề  bài là luận điểm của đoạn văn mà <br /> cũng là câu chủ đề nên khi xây dựng thành đoạn văn, các em không biết đặt nó ở  vị <br /> trí nào trong đoạn. Có học sinh còn không sử  dụng luận điểm trên trong bài viết.  <br /> Ngoài những lỗi trên, trong bài làm này của học sinh còn mắc nhiều khuyết điểm <br /> nữa như: Sai lỗi viết chữ  đầu câu, đầu đoạn không viết hoa; diễn đạt lủng củng, <br /> lặp ý; chưa có dẫn chứng cụ thể, sai kiến thức, dùng kí hiệu “ ­>” trong bài làm… <br /> ­ Một số học sinh chưa biết viết câu mở đoạn hoặc mở đoạn dài dòng.<br /> Thống kê bài thăm dò lớp 9a4 có 28 học sinh thì có tới 15 em không biết viết <br /> câu mở đoạn. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy đa số  học sinh nằm trong tình <br /> trạng này. <br /> Ví dụ: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau:  <br /> “Nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ  là <br /> một   người  con  dâu  hiếu   thảo,  nghĩa  tình”.  Có   học   sinh   đã  viết:   “Nhân   vật  Vũ  <br /> Nương trong truyện dù về  nhà chồng xảy ra nhiều xích mích nhưng nàng luôn làm  <br /> tốt trách nhiệm của một người vợ tốt”.  Nếu học sinh viết đoạn văn theo cách diễn <br /> dịch thì buộc câu mở  đoạn phải nêu luận điểm của cả  đoạn. Nếu là đoạn văn quy <br /> nạp thì câu đầu đoạn văn đó cũng phải giới thiệu được khái quát về nhân vật: nhật <br /> vật nào? Trong tác phẩm nào? Của ai? Em có ấn tượng chung với nhân vật như thế <br /> nào?. Ví dụ như “Nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của <br /> Nguyễn Dữ là nhân vật đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc”. Đề bài trên <br /> đã có luận điểm cho sẵn nhưng học sinh không biết đưa luận điểm đó vào bài làm <br /> của mình mà còn khai thác nghiêng về  “người vợ  tốt”, chưa rõ nhân vật này trong <br /> truyện gì? Của tác giả nào? Khiến cho câu văn chưa rõ ý, khó hiểu. Nguyên nhân là <br /> các em chưa hiểu luận điểm là gì và cách viết câu luận điểm.<br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     5<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> ­ Một số học sinh chưa biết chọn lọc, khái quát các ý chính phần thân đoạn.<br /> Trong văn nghị luận nói chung và đoạn văn nghị luận nói riêng, sau khi nêu ý <br /> khái quát ( câu mở đoạn) thì người viết phải trình bày luận cứ để làm sáng tỏ ý khái <br /> quát đó. Nhưng học sinh bị “vấp” nhiều nhất  ở phần này. Đó là tình trạng học sinh <br /> đi kể  chuyện, chưa biết chọn lọc dẫn chứng, viết lan man, dài dòng nên dễ  bị  lạc <br /> hướng, thiếu chính xác, trọng tâm. Kể cả giáo viên đôi lúc cũng cảm thấy lúng túng,  <br /> vụng về trong việc xác định nêu lí lẽ gì và viết dẫn chứng ra sao. Có khi còn không <br /> biết đưa dẫn chứng vào bài làm.<br /> Ví dụ: Đoạn văn cảm nhận về  nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “ Làng”  <br /> của kim Lân.<br /> Học sinh đã trình bày phần thân đoạn như sau: “Hôm ấy, giặc Pháp bắn súng <br /> vào làng, gia đình ông Hai phải đi tản cư. Một hôm từ  phòng thông tin về, ông đã  <br /> nghe được tin làng ông theo giặc từ hai người đàn bà tản cư. Ông về nhà, mặt buồn  <br /> rười rượi, cáu gắt vợ con. Sau đó ông trò chuyện với con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. <br /> Khi nghe được tin cải chính, ông mừng lắm”.<br /> Bài làm trên cho thấy rõ là học sinh kể chuyện về ông Hai, cũng theo trình tự <br /> nhưng chưa khái quát được luận điểm chính của văn bản là tình yêu làng, yêu nước  <br /> thiết tha, cháy bỏng của ông Hai. Học sinh không khái quát được những luận cứ để <br /> làm sáng tỏ luận điểm trên là nỗi nhớ  làng khi đi tản cư, nỗi đau khổ, tuyệt vọng, <br /> bế tắc khi nghe tin làng theo giặc và niềm vui sướng, hả hê khi nghe tin cải chính. <br /> Em chỉ kể liệt kê những điều mình nghĩ. Câu văn vừa lạc sang kể vừa thiếu tính liên <br /> kết, thiếu ý khái quát, chọn lọc. Vì vậy, không thể coi đây là đoạn văn nghị luận.<br /> ­ Học sinh chưa biết viết kết đoạn.<br /> Kết đoạn cũng giống như kết bài. Nó mang tính chất tổng hợp những vấn đề <br /> đã trình bày  ở  phần mở  và thân đoạn. Đoạn văn yêu cầu cảm nhận về  nhân vật  <br /> trong tác phẩm truyện nhưng các em đã tổng hợp luôn cả tác phẩm. Chưa biết viết  <br /> câu mở đoạn hoặc ôm đồm sang ý khác, lạc hướng:<br /> Ví dụ 1: Hãy xây dựng một đoạn văn khoảng 6 đến 8 câu với luận điểm sau:  <br /> “ Vũ Nương trong  Chuyện người con gái Nam Xương  là một người con dâu hiếu <br /> thảo, nghĩa tình”. Học sinh đã có những cách viết phần kết đoạn như sau:<br /> ­ Sao đó, Vũ Nương lo ma chay chu tất cho bà mẹ  chồng giống như  với cha  <br /> mẹ đẻ và chơ đợi chồng trở về cùng với con nhỏ.<br /> ­ Vào một buổi tối trước ánh đèn con bảo cái bóng là cha lúc đó chàng mới  <br /> biết nghĩ sai cho vợ như đã quá muộn.<br /> ­ Từ những việc làm trên ta thấy Vũ Nương người con hiếu thảo và luôn thủy  <br /> chung với chồng.<br /> ­ Sau khi đi lính trở về nhìn thấy con của mình.<br /> <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     6<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> ­ Suy ra phẩm chất đạo đức, từ nét đẹp đến tính nết của người con gái thuần  <br /> khiết, đảm đang.<br /> ­ Nàng không dám đi lấy chồng vì tấm lòng thủy chung dành cho Trương Sinh  <br /> là vô bờ.<br /> 3. Nội dung và hình thức của giải pháp:<br /> a. Mục tiêu của giải pháp<br /> Từ  những thực trạng trên, tôi mong muốn có thể  nâng cao được chất lượng  <br /> học tập ở môn Ngữ văn của học sinh. Đồng thời tôi cũng muốn đưa ra một vài kinh  <br /> nghiệm của mình để có thể giúp đồng nghiệp tìm ra giải pháp hướng dẫn học sinh  <br /> cách viết đoạn văn nghị luận về  nhân vật trong tác phẩm truyện, từ  đó có phương <br /> pháp viết bài văn nghị luận văn học.<br /> b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.<br /> Giải pháp 1: Cung cấp và ôn tập lại cho sinh những kiến thức cơ bản về <br /> văn nghị luận, nghị luận về tác phẩm truyện và đoạn văn.<br /> Về văn nghị luận, cần cho học sinh nắm được văn nghị luận là gì?Thế nào là  <br /> nghị luận về một tác phẩm truyện; khái niệm nhân vật văn học.<br /> Về  đoạn văn, cần ôn lại cho học sinh khái niệm, vai trò, hình thức trình bày, <br /> cấu trúc của một đoạn văn và đặc biệt giúp học sinh hiểu được sự  khác nhau giữa  <br /> đoạn văn trong văn bản và đoạn văn nghị  luận về  nhân vật trong tác phâm truyện;  <br /> cách trình bày nội dung đoạn văn nghị luận về nhân vật trong tác phâm truyện <br /> *Khái quát về nghị luận và nghị luận về tác phẩm truyện.<br /> ­ Khái niệm: <br /> Văn nghị  luận là loại văn viết ra để  phát biểu ý kiến, bày tỏ  nhận thức,  <br /> đánh giá thái độ đối với cuộc sống bằng những luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng. Nếu <br /> tác phẩm văn học nghệ  thuật phát biểu ý kiến, bày tỏ  thái độ  cuộc sống bằng <br /> những hình tượng nghệ thuật gợi cảm thì văn nghị luận diễn đạt bằng mệnh đề,  <br /> phán đoán logic thuyết phục. Từ đó có thể nêu khái niệm chung về văn nghị luận <br /> như sau: Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết ( người nói) đưa ra những <br /> lí lẽ, dẫn chứng về  một vấn đề  nào đó và thông qua cách thức bàn luận thuyết <br /> phục người nghe.<br /> Nghị luận một tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận <br /> xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hoặc nghệ thuật của một tác  <br /> phẩm cụ thể.<br /> Nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) là trình bày <br /> những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật trong một tác phẩm cụ thể.<br /> Ví dụ:<br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     7<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> + Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong “ Lặng lẽ Sa Pa” của  <br /> Nguyễn Thành Long.<br /> + Cảm nhận của em về số phận và vẻ đẹp của Vũ Nương trong “ Chuyện  <br /> người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.<br /> ­ Đặc trưng của văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện:<br /> Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng  <br /> phương tiện văn học. Nhân vật văn học có thể  là con người có tên như  ông Sáu,  <br /> bé Thu, Phương Định..có thể là người không có tên như viên quan, thằng bán tơ...  <br /> Nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu ngôn từ. Vì vậy, người đọc phải <br /> tưởng tượng, xây dựng lại trong các mối quan hệ  của nó. Nhân vật văn học có <br /> chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm  <br /> của nhà văn về cuộc đời. Xét từ góc độ  kết cấu, nhận vật trong tác phẩm có hai  <br /> loại: nhân vật chính (nhân vật giữ  vai trò thể  hiện chủ  đề  và tư  tưởng của tác <br /> phẩm, được nhắc đến từ đầu đến cuối truyện..), và nhân vật phụ ( nhân vật nói ít  <br /> đến hơn, giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính, phụ trợ cho nhân vật chính thực  <br /> hiện hành đồng, bộc lộ tính cách). Nhân vật được xây dựng trên các phương diện <br /> ngoại hình, tài năng, cử chỉ, hành động để bộc lộ tính cách, phẩm chất, tâm hồn, <br /> tình cảm…. Do đó, những nhận xét, đánh giá…về nhân vật trong tác phẩm truyện <br /> phải xuất phát từ tính cách, hành động…và nghệ thuật trong tác phẩm.<br /> Yêu cầu về nội dung của đoạn văn nghị luận này là nhận xét đánh giá đúng <br /> đắn, sinh động thông qua giải thích, chứng minh. Về  hình thức đoạn văn có 3 <br /> phần: mở  đoạn, thân đoạn, kết đoạn; luận điểm, luận cứ  rõ ràng,lời văn chuẩn <br /> xác.<br /> * Khái quát về đoạn văn.<br /> ­ Đoạn văn là gì?<br /> Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chữ cái viết hoa (lùi vào 1  <br /> đến 2 ô) và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương <br /> đối hoàn chỉnh.<br /> ­ Số lượng câu trong đoạn văn không qua trọng, có thể chiếm nhiều câu, có  <br /> thể  gồm vài ba câu, có khi chỉ   gồm một câu. (như  trong văn tự  sự  và văn biểu <br /> cảm), nhưng phải bảo đảm phát triển đầy đủ ý của chủ đề đoạn văn.<br /> ­Ý nghĩa, tác dụng của đoạn văn trong văn bản.<br /> Văn bản là tập hợp một hoặc nhiều đoạn văn. Vì vậy, đoạn văn trong văn <br /> bản có tác dụng tạo sự  liên kết giữa các đoạn văn với đoạn văn trong một văn <br /> bản. Nó góp phần làm cho văn bản có tính thống nhất về nội dung, mạch lạc, rõ <br /> ràng, khoa học về hình thức.<br /> ­ Cách trình bày nội dung đoạn văn thông thường.<br /> <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     8<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> Trong thực tế tạo lập văn bản, người ta thường sử dụng những cách sau để <br /> trình bày nội dung đoạn văn:<br /> + Trình bày nội dung theo cách diễn dịch: Là trình bày nội dung đi từ  khái <br /> quát đến cụ  thể. Câu chủ  đề  đứng  ở  đầu đoạn, các câu sau triển khai, làm rõ ý <br /> của câu chủ đề.<br /> + Trình bày nội dung theo cách quy nạp: Là cách trình bày đi từ  ý cụ  thể <br /> đến ý khái quát. Câu chủ  đề  đứng  ở  cuối đoạn. Trước câu chủ  đề  có thể  dùng <br /> những từ  chuyển tiếp có ý nghĩa tổng kết, khái quát như: Tóm lại, có thể  nói <br /> rằng…<br />   + Trình bày nội dung theo cách song hành: Là cách trình bày nội dung không <br /> sử  dụng câu chủ  đề. Các câu trong đoạn bình đẳng với nhau về  ý nghĩa, không  <br /> câu nào phụ thuộc hay bao hàm ý của câu nào.<br /> ­ Trình bày đoạn văn theo cách Tổng – Phân – Hợp:  là sự phối hợp diễn dịch  <br /> với quy nạp. Câu mở  đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý  <br /> khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở  rộng. <br /> Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân <br /> tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ  đó đề  xuất nhận định đối với  <br /> chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.<br /> Đó là những kiến thức cơ bản học sinh đã học từ lớp 8. Tôi đã củng cố ngay <br /> cho   học   sinh   sau   khi   vào   đầu   năm   học   lớp   9   qua   các   buổi   học   phụ   đạo   buổi  <br /> chiều.Ngoài ra, tôi cũng mở rộng hơn một số cách trình bày đoạn khác cho học sinh <br /> khá giỏi qua các giờ  bồi dưỡng học sinh giỏi như   cách suy luận nhân quả,  tương  <br /> đồng, tương phản, đòn bẩy...<br /> <br /> ­ Sự khác nhau giữa đoạn văn trong văn bản và đoạn văn nghị luận về <br /> nhân vật trong tác phẩm truyện.<br /> Trong một văn bản, mỗi đoạn văn là một phần của văn bản, có nhiệm vụ <br /> triển khai một vấn đề  của văn bản, quan hệ  mật thiết với các đoạn văn khác <br /> trong văn bản. Đoạn văn nghị  luận về  một nhân vật trong tác phẩm truyện có <br /> nhiệm vụ “thu nhỏ” tất cả những vấn đề của nhân vật trong một văn bản. Thực <br /> chất, nó là một văn bản nhỏ  đầy đủ  ý nghĩa, nội dung của một văn bản hoàn <br /> chỉnh. Nó chỉ khác một văn bản ở  hình thức và độ  dài.Vì vậy, không những luận <br /> điểm đúng đắn, sáng tỏ; lời văn chính xác, sinh động mà ngôn ngữ phải cô đọng, <br /> khái quát, có tính bao hàm cao. Viết một đoạn văn nghị luận về nhân vật trong tác  <br /> phẩm truyện là viết đầy đủ nội dung những trình bày ngắn gọn, hàm súc, có tính <br /> khái quát cao về một nhân vật trong tác phẩm văn học.<br /> <br /> <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     9<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> ­ Cách trình bày nội dung đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác  <br /> phẩm truyện :<br /> Phần 1: Mở đoạn. Giới thiệu nhân vật phải cảm nhận được nêu ở đề bài<br /> Phần 2: Thân đoạn: Dùng luận cứ khái quát, chọn lọc để làm sáng tỏ câu mở <br /> đoạn.<br /> ­ Dùng lí lẽ và dẫn chứng ( luận cứ) để phân tích, làm rõ vấn đề đã nêu ở mở <br /> đoạn. <br /> Phần 3: Kết đoạn: Đánh giá về  nhân vật… trong tác phẩm vừa nêu  ở  mở <br /> đoạn và thân đoạn. <br /> Giải pháp 2: Hướng dẫn cho học sinh biết nhận diện các dạng đề khác  <br /> nhau. <br /> * Định hướng các dạng đề nghị luận về nhân vật trong tác phẩm truyện<br /> ­ Đề chỉ nêu chung chung, chưa có luận điểm, chỉ có nêu tên nhân vật.(Ví dụ:  <br /> Cảm nhận về nhân vật Xi­mông).<br /> ­ Đề  đã nêu luận điểm nhưng chưa nêu rõ mà phải khái quát thành câu luận  <br /> điểm ( ví dụ như: Cảm nhận về số phận và vẻ đẹp của Vũ Nương). Đề  có 2 luận <br /> điểm “ số  phận” và “ vẻ  đẹp” mà chưa khái quát cụ  thể  số  phận như thế  nào hay  <br /> vẻ đẹp gì. Buộc giáo viên phải hướng dẫn học sinh hình thành hai luận điểm mấu  <br /> chốt đó.<br /> ­ Đề cho sẵn luận điểm rõ ràng ( ví dụ: Ông Sáu là một người cha thương con  <br /> vô bờ bến).<br /> Nhìn chung đề  ra rất phong phú, đa dạng nhưng có thể  thu gọn về  hai dạng  <br /> đoạn văn: Đoạn văn khái quát về  nhân vật và đoạn văn triển khai cụ  thể  một đặc <br /> điểm nổi bật về nhân vật.<br /> * Hướng dẫn học sinh kĩ năng làm đoạn văn khái quát về nhân vật<br /> Đoạn văn khái quát về  nhân vật nghĩa là đề  ra chỉ  nêu chung chung, chưa có  <br /> luận điểm, chỉ nêu tên nhân vật.(Ví dụ: Cảm nhận về nhân vật Xi­mông). Yêu cầu <br /> đạt được về nội dung của đonạ  văn này là học sinh giới thiệu được nhân vật, khái  <br /> quát được những đặc điểm nổi bật về nhân vật và đánh giá chung về nhân vật cũng <br /> như các vấn đề có liên quan.<br /> ­ Mở đoạn: Giới thiệu nhân vật nêu ra ở đề bài (Câu 1 của đoạn văn): <br /> Nói tới nhân vật là nói tới tác phẩm, tác giả. Qua thực tế cho thấy, học sinh  <br /> thường lúng túng trong việc viết câu mở  đoạn bắt nguồn từ  nguyên nhân các em <br /> không đọc kĩ đề bài và không biết phân tích đề  và không biết khái quát luận điểm. <br /> Muốn học sinh làm được, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thao tác đầu tiên là <br /> đọc kĩ đề, sau đó đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh: “Đề  bài yêu cầu cảm nhận về  <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     10<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> nhận vật nào? Của ai? Trong tác phẩm nào?Đề bài  đã cho sẵn luận điểm về nhân  <br /> vật chưa? Đó là luận điểm gì? Nếu chưa thì em sẽ nêu ấn tượng chung về nhân vật  <br /> như  thế  nào?  Sau khi đặt câu hỏi xong, giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp  <br /> những câu hỏi trên sao cho thành một câu hoàn chỉnh thì đó là câu mở  đoạn .Với  <br /> dạng đề  này, mở  đoạn chỉ  cần giới thiệu được nhận vật, tác giả, tác phẩm và  ấn <br /> tượng ban đầu đối với nhân vật.<br /> Ví dụ1: Nhân vật Phương Định trong “ Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh  <br /> Khuê là một trong những nhân vật đã để lại bao tình cảm yêu quí trong lòng độc giả.<br /> Ví dụ1: Nhân vật Vũ Nương trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của  <br /> Nguyễn Dữ là nhân vật để để lại những ám ảnh khó quên trong lòng người đọc.<br /> ­Thân đoạn: ( câu 2.3.4…8.9):<br /> Phần thân đoạn, giáo viên cần tập trung hướng dẫn cho học sinh dựa vào tác  <br /> phẩm để khái quát những đặc điểm nổi bật về nhân vật qua các khía cạnh như  số <br /> phận, vẻ đẹp, tài năng, phẩm chất, tình cảm…của nhân vật. Thực trạng chung của  <br /> học sinh hiện nay là các em chưa biết khái quát. Mỗi đặc điểm nổi bật mà các em <br /> tìm được dưới sự  gợi mở  của giáo viên đó là những luận điểm mà khi xây dựng <br /> thành bài văn thì ta sẽ lấy đó là những câu chủ đề của các đoạn văn trong phần thân <br /> bài. Vì vậy, giáo viên cần tỉ  mỉ, chỉnh sửa, hướng dẫn các em đi tìm các đặc điểm <br /> nổi bật đó thật hiệu quả. Nếu các em kể về nhân vật thì thầy cô sẽ nói với các em  <br /> là “ Em nói như thế thì đi kể chuyện rồi? Từ những sự việc em vừa kể em khái quát  <br /> lên nhận xét đó là người như  thế  nào?...”Tùy từng tác phẩm truyện mà thầy cô có <br /> cách đặt câu hỏi khác nhau. Nếu các em bị lạc hướng hoặc nói không đúng với ý đồ <br /> của giáo viên thì thầy cô buộc phải gợi mở, lái đúng vào “ quĩ đạo” của mình.<br /> VD: Để  nêu cảm nhận về nhân vật Vũ Nương, em sẽ  phải đề  cập đến khía  <br /> cạnh nào của nhân vật? ( số phận và vẻ đẹp), Em thấy Vũ nương có số  phận như  <br /> thế nào, hãy viết thành một câu cho cô được không? (Như bao người phụ nữ trong <br /> xã hội lúc bấy giờ, nàng có số phận thật đau khổ, bất hạnh, oan khuất, bi kịch).  Vũ <br /> Nương có những vẻ  đẹp nào?  Mỗi vẻ  đẹp đó em tách thành một câu cho cô xem <br /> sao?( Vũ Nương là người phụ nữ hết lòng với gia đình; Nàng là một người con dâu  <br /> hiếu thảo, nghĩa tình; Vũ Nương còn là một người mẹ chu đáo, tân tình và rất mực <br /> yêu thương con; Nàng còn là một người vợ  thủy chung với chồng; Không những <br /> thế, nàng còn rất bao dung, vị tha, nặng lòng với gia đình).<br /> ­ Kết đoạn: (câu cuối)<br /> Phần kết đoạn, thầy cô hướng dẫn các em tổng kết lại vấn đề  vừa nêu và  <br /> nêu suy nghĩ của mình bằng một đến hai câu ( thường là một câu). Có nhiều cách kế <br /> đoạn khác nhau.<br /> ­ Tổng kết và nêu cảm xúc của người viết. ( ví dụ: Tóm lại, số  phận của  <br /> nàng Vũ Thị Thiết thật ngang trái nhưng sáng ngời lên những vẻ đẹp thật đáng quí, <br /> trân trọng biết bao).<br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     11<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> ­ Tổng kết và năng cao. (Vẻ  đẹp của Vũ Nương là đẹp truyền thống của <br /> người phụ nữ Việt Nam). <br /> * Hướng dẫn học sinh kĩ năng làm đoạn có sẵn luận điểm<br /> Thực tế  có những dạng đề  có luận điểm cho trước thì giáo viên cần giảng <br /> cho học sinh rằng luận điểm trên đề  bài đó chính là câu chủ  đề  của đoạn văn. Vì <br /> vậy, ta phải sử  dụng nó và đặt  ở  đầu hoặc cuối đoạn văn, tùy theo ý đồ  của giáo  <br /> viên hoặc học sinh viết theo cách diễn dịch hay qui nạp hoặc do chính yêu cầu của <br /> đề  bài. Bản thân tôi khi dạy điều này cho học sinh, tôi rèn cho các em cả  hai cách  <br /> nhưng tôi vẫn hướng nhiều đến diễn dịch vì học sinh dễ viết hơn. Với dạng đề này  <br /> thì giáo viên cần rèn cho học sinh xây dựng luận cứ. Đây là phần mà học sinh khúc <br /> mắc nhiều nhất bởi thay vì tìm những lí lẽ và dẫn chứng trong tác phẩm thì các em  <br /> thường đi kể chuyện nhiều, ít sử dụng dẫn chứng và chưa biết chọn lựa dẫn chứng  <br /> tiêu biểu cho lí lẽ mình đưa ra.<br /> ­ Câu mở đoạn (Câu 1)<br /> Giống như  chức năng, vai trò của mở  bài, mở  đoạn, chúng ta cần giới thiệu  <br /> được nhân vật, tác giả, tác phẩm và luận điểm đã cho. Học sinh sắp xếp những ý <br /> trên thành một câu hoàn chỉnh.<br /> Ví dụ: Đề  bài: Viết một đoạn văn( 8 – 10 câu) với luận điểm sau: Anh Sáu  <br /> trong “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một người lính sẵn sàng hi  <br /> sinh tình cảm riêng tư để chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc.<br /> Phần mở  đoạn, ta viết như  sau: Nhân vật Anh Sáu trong “ Chiếc lược ngà” <br /> của Nguyễn Quang Sáng là một người lính sẵn sàng hi sinh tình cảm riêng tư  để <br /> chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc.<br /> ­ Thân đoạn (Câu 2.3.4…)<br /> Sau khi giới thiệu và nêu luận điểm  ở  mở  đoạn, giáo viên hướng dẫn học  <br /> sinh xây dựng luận cứ  theo nhiều hướng khác nhau: Có thể  theo trình tự  sự  việc <br /> ( Ông Hai khi đi tản cư, khi nghe tin dữ, khi nghi tin cải chính; Ông Sáu khi nghe tin <br /> được về thăm nhà, trong ba ngày phép, phút chia tay, ở căn cứ), có thể dựa vào hoàn <br /> cảnh, suy nghĩ, việc làm ( anh thanh niên trong “ Lặng lẽ Sa Pa”)….Giáo viên cần <br /> bám sát vào luận điểm để đặt câu hỏi để học sinh tìm luận cứ như:  luận điểm ở đề  <br /> bài có mấy nội dung? Là những nội dung nào? Em sẽ  chọn dẫn chứng nào trong  <br /> truyện để sáng tỏ mỗi nội dung đó? Vì sao em chọn dẫn chứng ấy mà không phải là  <br /> dẫn chứng khác?.. Trong quá trình xây dựng luận cứ, mỗi học sinh sẽ  có nhiều ý  <br /> kiến khác khau, giáo viên ghi nhận hết các ý kiến đó của các em và ghi lên bảng.  <br /> Sau đó cùng học sinh thêm, bớt, lặp ghép thành từng ý, từng câu. Giáo viên chỉnh sửa  <br /> câu chữ, cách diễn đạt theo ý đồ của mình rồi đi đến kết luận cuối cùng.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     12<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> Ví dụ: Đề  bài: Viết một đoạn văn (8 – 10 câu) với luận điểm sau: Anh Sáu  <br /> trong “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một người lính sẵn sàng hi  <br /> sinh tình cảm riêng tư để chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc.<br /> Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm luận cứ như sau:<br /> ­  Biểu hiện chung của người lí yêu nước thiết tha là gì?  (Tám năm trời ca <br /> cách không được gặp con, đó là sự  hi sinh thầm lặng…bao yêu thương, nhung nhớ <br /> đong đầy nhưng anh vẫn chấp nhận để phục vụ cho Cách mạng, Tổ quốc).<br /> ­ Theo em, sự  hi sinh thầm lặng của anh Sáu được thể  hiện cảm động nhất  <br /> trong ba ngày phép, đó là giây phút nào?Vì sao?  (Yêu thương con đến trào nước <br /> mắt, bật khóc vì tám năm trời anh Sáu mới được sống những giây phút cực kì ngắn <br /> ngủi của tình phụ tử, thế mà anh vẫn dứt áo ra đi. Người lính phải chịu những mất  <br /> mát hi sinh thầm lặng về tinh thần và tình cảm.)<br /> ­ Chi tiết nào trong truyện còn chứng tỏ lòng yêu nước của anh Sáu trong khi  <br /> làm nhiệm vụ? Chi tiết đó gợi cho có hình dung gì? (Chi tiết vết thẹo trên mặt anh <br /> Sau còn cho thấy anh phải chịu đựng cuộc sống gian khổ, khốc liệt của chiến tranh  <br /> như  bao người lính khác. Vết thẹo  ấy là tội ác của chiến tranh ghi dấu trên gương <br /> mặt anh).<br /> ­ Nếu để nói về sự hi sinh của người lính ấy, em sẽ phải nói tới chi tiết nào  <br /> nữa trong truyện? Em sẽ cảm nhận chi tiết đó như  thế nào?  (Anh Sáu đã hi sinh ở <br /> giữa rừng chỉ  có người bạn là anh Ba bên cạnh, toát lên vẻ  đẹp dũng cảm, can  <br /> trường, sẵn sàng hi sinh thân mình cho Cách mạng, cho kháng chiến, cho Tổ quốc).<br /> Khi giáo viên cho học sinh tìm luận cứ, có thể các em sẽ kể sự việc, Giáo viên <br /> cần “ tỉnh” để  chỉnh sửa dần cho học sinh bằng cách đặt câu hỏi gợi ý: Em nêu chi <br /> tiết đó giống như đang kể chuyện quá. Em hãy diễn đạt lại chi tiết đó theo hướng  <br /> đánh giá, nêu suy nghĩ của em xem sao? Chi tiết của em diễn đạt hơi dài, em sắp  <br /> xếp lại cho ngắn gọn hơn đi?Cô thấy chi tiết này chưa chọn lọc, em tìm chi tiết nào  <br /> tiêu biểu hơn, giá trị hơn xem nào?...Giáo viên đặt câu hỏi và chỉnh sửa dần đến khi  <br /> nào cảm thấy đặt yêu cầu rồi thì ghi lần lượt trên bảng. Có thể các em sẽ nêu các ý  <br /> lẫn lộn, hoặc các câu rời rạc với nhau. Không sao, miễn là đúng, chúng ta cứ  tiến <br /> hành hướng dẫn các em giải quyết từng luận cứ một rồi sau đó yêu cầu các em sắp  <br /> xếp theo trình tự  và thêm từ  ngữ  để  tạo liên kết là được. Chẳng hạn như  có thể <br /> thêm ở phía trước mỗi luận cứ, mỗi câu các từ ngữ: bên cạnh đó, không những thế,  <br /> hoặc câu ghép có cặp từ  hô  ứng “ không những…mà còn”…  . Yêu cầu phải ngắn <br /> gọn, chính xác, dễ hiểu.<br /> ­ Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề (câu cuối)<br /> Giống như vai trò của phần kết bài của một văn bản, phần kết đoạn cũng làm <br /> nhiệm vụ tổng kết lại vấn đề đã nêu hai ở phần trên. Nó được hình thành bằng một <br /> câu trọn vẹn khái quát lại nội dung chính của đề tài  nhưng nâng cao thành chủ đề.  <br /> Trước câu kết đoạn có thể  dùng một số  từ  ngữ  chuyển tiếp có ý nghĩa tổng kết <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     13<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> như:  vì vậy, có thể  nói rằng, tóm lại…Phần kết đoạn, người viết thường nêu ra <br /> cách đánh giá, suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận. Một số hướng kết đoạn như <br /> sau:<br /> ­ Đánh giá về nhân vật. ( Nhân vật anh Sáu trong “ chiếc lược ngà” tiêu biểu <br /> cho tầng lớp những người lính, người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ  ­  <br /> những con người nặng tình yêu thương nhưng vô cùng quả cảm, kiên cường.<br /> ­ Đánh giá tác giả. ( Qua việc xây dựng thành công nhân vật, từ đó cho ta hiểu  <br /> thêm về hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ và vẻ đẹp của con người trong chiến  <br /> đấu, đã hi sinh cho đất nước, cho dân tộc để ta càng yêu quí hơn cuộc sống này.<br /> ­ Đánh giá nâng cao. (Vẻ  đẹp của anh Sáu trong truyện cũng là vẻ  đẹp của  <br /> dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.<br />  Giải pháp 3: Rèn các thao tác xây dựng một đoạn văn.<br /> “Viết một đoạn văn…khoảng 10 câu…”  là một dạng câu hỏi khá thử  thách <br /> với học sinh vì nó đòi hỏi nhiều kĩ năng: Viết câu ngắn gọn, diễn đạt lưu loát, <br /> nhưng lại phải đầy đủ  ý như  một bài văn. Chính vì vậy, khi dạy học sinh, tôi vẫn  <br /> thường nói hài hước với các em rằng: “ Nếu như bài văn là một cái ti vi 43 Inch thì  <br /> đoạn văn các em phải làm là một cái ti vi 17 Inch”. Nói như  vậy có nghĩa là đoạn  <br /> văn nghị luận về nhân vật trong truyện  không khác gì một bài văn, chỉ thu ngắn lại <br /> mà thôi. Do đó, không biết khái quát, diễn đạt thì đoạn văn sẽ  không có hiệu quả <br /> cao. Tôi tiến hành rèn cho các em sẽ lần lượt thực hiện các thao tác sau đây: (Bước  <br /> 1.2.3 viết ra tờ giấy nháp).<br /> Bước 1: <br /> Đọc kĩ đề, gạch chân từ  ngữ  quan trọng và xác định vấn đề  nghị  luận  ở  đề <br /> bài để chuẩn bị viết phần dàn ý chi tiết.<br /> Bước 2: <br /> Tìm ý và lập dàn ý chi tiết. Viết ra nháp lần lượt 3 phần: mở đoạn, thân đoạn,  <br /> kết đoạn theo trình tự  bằng các gạch đầu dòng. Chú ý đánh dấu số  câu theo thứ tự <br /> từ  trên xuống cho đến hết ­ đánh dấu bằng chữ  số  (1), (2)…tương  ứng với mỗi  <br /> gạch đầu dòng đó.<br /> Bước 3: <br /> Đọc lại “bước 2” để  kiểm tra sai sót trong diễn đạt, viết câu, và đặc biệt là  <br /> đếm số  câu xem đã đúng với số  câu qui định  ở  để  bài. Nếu thiếu, em có thể  tách  <br /> một hay vài câu nào đó trong phần thân đoạn thành những câu nhỏ hơn( tùy theo số <br /> câu thiếu để tách nhiều hay ít câu). Nếu thừa, em có thể  gộp những ý ở  thân đoạn  <br /> thành một câu và dùng dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy (câu ghép nhiều vế). Đề cho <br /> phép học sinh viết phải đủ số  câu mà không được thiếu. Có thể  sẽ  thừa nhưng chỉ <br /> chấp nhận thừa một đến hai câu. Nhưng tốt nhất “đủ mới là đúng”.<br /> <br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     14<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> Bước 4: <br /> Tiến hành viết đoạn văn vào bài thi (kiểm tra). Viết đúng theo yêu cầu của  <br /> một đoạn văn. Hình thức: Viết hoa chữ  cái đầu, lùi vào 2 ô và kết thúc bằng dấu <br /> chấm xuống dòng. Nội dung đoạn văn lấy từ phần đã làm và chỉnh sửa ở giấy nháp.<br /> Ví dụ: <br /> Phần 1: Mở đoạn. <br /> (1) <br /> Phần 2: Thân đoạn: <br /> (2) ­ <br /> (3) <br /> (4) ­<br /> …<br /> Phần 3: Kết đoạn (n)<br /> Sau khi làm được các bước trên, các em chỉ vần viết lại theo thứ tự từ (1) đến <br /> (n) thành một đoạn và chú ý thêm một số từ ngữ ở đầu câu (nếu cần) để tạo sự liên  <br /> kết giữa các câu trong đoạn văn.<br /> Giải pháp 4: Bổ sung một số đoạn văn mẫu cho học sinh .<br /> Yêu cầu về các đoạn văn mẫu bổ sung: Đoạn văn phải chuẩn về nội dung và  <br /> hình thức, dễ  hiểu, đề  tài gẫn gũi, sát với chương trình, phù hợp với năng lực của <br /> học sinh từng vùng miền…<br /> Nguồn: Gv có thể  chọn lựa  ở  các sách tham khảo, đoạn văn do giáo viên tự <br /> soạn hoặc của ngay chính bài làm tốt của học sinh.<br /> Phương pháp: Bổ  sung đoạn văn mẫu cho học sinh trong giờ  trả  bài, giờ  ôn <br /> tập, giờ học phụ đạo…<br /> *Một số đoạn văn mẫu tham khảo.<br /> Bài 1:Vũ Nương là một người mẹ  chu đáo, tận tình và yêu thương con <br /> rất mực: (đoạn văn 5, 6 câu ­ dàn ý)<br /> ­ Chồng đi xa, nàng sinh con trai đặt tên là “ Đản”­ cái tên có ý nghĩa vui  <br /> mừng, tốt đẹp. Nàng coi đứa con là niềm vui, là nguồn hạnh phúc để nàng vượt qua  <br /> khó khăn, trụ vững trong những ngày đơn chiếc.<br /> ­Thương con, yêu con vô bờ, nàng không chỉ bươn chải để nuôi con lớn lên về <br /> thể chất mà người mẹ ấy vẫn dành thời gian để vui đùa cùng con.<br /> ­Trò đùa về cái bóng hàng đêm mà Vũ Nương chỉ cái bóng của mình trên vách <br /> bảo đó là “cha Đản”.<br /> <br /> Trần Thị Lệ ­ GV trường THCS Lương Thế Vinh­ Krông Ana                     15<br /> Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm truyện<br />  dành cho học sinh lớp 9<br /> <br /> <br /> ­ Bằng cái bóng của mình, nàng muốn bù đắp cho con sự thiếu vắng tình cảm  <br /> của người cha, tạo nên sợi dây gắn kết giữa đứa con và người cha chưa biết mặt  <br /> nơi chiến trận xa xôi.<br /> ­ Tấm lòng của người mẹ thật sâu nặng biết nhường nào.<br /> Giải pháp 6: Kết hợp rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị  luận về  nhân vật  <br /> văn học trong các tiết kiểm tra định kì (theo tiết phân phối chương trình), các <br /> tiết trả bài, tiết học phụ đạo…<br /> ­ Rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trong tiết kiểm tra định kì:<br /> Cấu trúc đề  kiểm tra định kì, đề  thi học kì, đặc biệt là các kì thi của lớp 9  <br /> hiện nay chú trọng câu viết đoạn văn nghị  luận. Đó cũng là cách để chúng ta rèn kĩ <br /> năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh. <br /> ­ Rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận trong giờ trả bài:<br /> Sau khi đưa ra đáp án của đề kiểm tra, giáo viên phải nhận xét chi tiết, cụ thể <br /> những ưu điểm và hạn chế trong bài làm của học sinh. Trong phần nhận xét đó, giáo <br /> viên cần chỉ  ra cụ  thể  những lỗi viết đoạn văn chưa đúng, chưa hay  ở  điểm nào <br /> bằng nhiều cách.<br /> Ví dụ: Giáo viên dùng bảng phụ  (hoặc phiếu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2