intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 - Lớp 12 (Ban cơ bản)

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:112

48
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng các phương pháp tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam phần từ năm 1954 đến năm 1975 (ban cơ bản), góp phần nâng cao hứng thú và năng lực tư duy sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 - Lớp 12 (Ban cơ bản)

  1. 1. Lời giới thiệu Tích hợp  trong dạy học  nói  chung, trong dạy học lịch sử  có  ý  nghĩa  quan  trọng trong giáo dưỡng,  giáo dục, rèn luyện và phát triển kĩ  năng tư  duy, phân  tích tổng hợp, khái  quát  hóa,  trừu  tượng  hóa. Các chủ đề tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học   sinh, có  ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học   các chủ  đề  tích hợp, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp  vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy  móc, nhờ đó năng lực và phẩm chất của học sinh được phát triển.  Tài liệu Văn học, Địa lí  là  một  nguồn tài  liệu  phong  phú,  còn  ẩn  chứa  nhiều tiềm  năng  có  thể  khai  thác  để  sử  dụng  trong  dạy  học  Lịch  sử, góp  phần nâng cao hứng thú, tính tích cực và khả năng sáng tạo của học sinh. Việc thực hiện vận dụng kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học lịch sử  nói chung đã được nhiều giáo viên môn Lịch sử thực hiện trong những năm qua.   Tuy nhiên, việc thực hiện tích hợp kiến thức như thế nào trong dạy học lịch sử  đảm bảo tính vừa sức và nâng cao hứng thú, tính tích cực và khả  năng tư  duy  sáng tạo của học sinh trong học tập còn nhiều hạn chế, nhất là việc đưa ra các  phương pháp, cách thức tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học môn  Lịch sử. Trong những năm học trước, bản thân tôi cũng đã nghiên cứu, áp dụng việc  thực hiện tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong giảng dạy phần Lịch sử Việt  Nam các giai đoạn: 1919 – 1930; 1930 – 1945 và đều được hội đồng sáng kiến  cấp cơ sở đánh giá sáng kiến đạt loại khá, tốt.  Trong năm học 2018 – 2019 và năm học 2019 – 2020, với mong muốn nâng  cao hứng thú của học sinh trong học tập bộ môn, từ đó góp phần nâng cao chất  lượng và hiệu quả giáo dục bộ môn, nhất là chất lượng ôn thi THPT Quốc gia  môn Lịch sử, tôi lựa chọn nội dung “Tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong   dạy học Lịch sử  Việt Nam từ  năm 1954 đến năm 1975 ­ Lớp 12 (Ban cơ   bản)” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. 2. Tên sáng kiến:  Tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học   Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ­ Lớp 12 (Ban cơ bản). 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Phạm Thị Thanh Hảo ­ Địa chỉ: Trường THPT Trần Hưng Đạo – Tam Dương – Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0978.599.120     ­ Email:Phamthanhhao.gvtranhungdao@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:  Phạm Thị Thanh Hảo 1
  2. 5.  Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:   ­ Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng trong việc giảng dạy môn Lịch  sử, chương IV phần Lịch sử  Việt Nam từ  năm 1954 đến năm 1975, lớp 12   ban cơ bản. ­ Trong phạm vi đề tài này, tôi thực hiện nghiên cứu đưa ra các nội dung,  phương pháp tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong giai đoạn Lịch sử Việt  Nam từ năm 1954 đến năm 1975 thuộc chương trình Lịch sử lớp 12 – Ban cơ  bản. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:  Sáng kiến kinh nghiệm  được áp dụng lần đầu ngày 09 tháng 01 năm 2019 (trong năm học 2018 –   2019) 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tích hợp trong dạy học nói chung, Lịch sử có ý  nghĩa quan trọng trong  giáo dưỡng, giáo dục, rèn luyện và phát triển kĩ năng tư duy, phân tích tổng  hợp,  khái  quát  hóa,  trừu  tượng  hóa.  Sự  phát  triển  nhanh  chóng  của  khoa  học  kĩ thuật  trong  giai  đoạn  hiện  nay  đang  đòi  hỏi  sự  thay  đổi  căn  bản  và  toàn diện về nội dung và phương pháp giáo dục. Từ cách tiếp cận nội dung,  giáo  dục chuyển  sang  tiếp  cận năng lực.  Điều đó  đặt  ra  những yêu  cầu về  nguyên  tắc  và  phương  pháp  giáo  dục  theo  hướng  tích  hợp  để  giải  quyết  vấn đề đặt ra  trên đây.  Tài liệu Văn học, Địa lí  là  một  nguồn tài  liệu  phong  phú,  còn  ẩn  chứa  nhiều tiềm năng có thể khai thác để sử dụng trong dạy học lịch sử, góp phần  nâng cao hứng thú, tính tích cực và khả năng sáng tạo của học sinh.  Việc thực hiện vận dụng kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học lịch sử  nói chung đã được nhiều giáo viên môn Lịch sử thực hiện trong những năm qua.  Tuy nhiên, việc thực hiện tích hợp kiến thức như  thế  nào trong dạy học  lịch sử đảm bảo tính vừa sức và nâng cao hứng thú, tính tích cực và khả năng tư  duy sáng tạo của học sinh trong học tập còn nhiều hạn chế, nhất là việc đưa ra   các phương pháp, cách thức tích hợp kiến thức văn học, địa lí  trong dạy học lịch  sử. Xuất phát từ vị trí, ý nghĩa của tài liệu Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch  sử  cùng những hạn chế  còn tồn tại trong quá trình thực hiện vận dụng kiến  thức Văn học, Địa lí trong giảng dạy Lịch sử; với mong muốn nâng cao hứng   thú của học sinh trong học tập bộ môn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng và  hiệu quả giáo dục, tôi lựa chọn nội dung “Tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí  trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ­ Lớp 12 (Ban   2
  3. cơ bản)” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Qua đề tài này, tôi muốn giúp học thấy được mối liên hệ  giữa kiến thức  môn Lịch sử  với kiến thức Văn học, Địa lí, vai trò của tài liệu Văn học, Địa lí  với việc giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT nói chung và phần Lịch sử Việt   Nam 1954 ­ 1975 nói riêng. Từ đó giúp cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh   mang tính hệ thống, khoa học và sâu sắc hơn. Tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng các phương pháp tích hợp kiến thức Văn  học, Địa lí  trong dạy học Lịch sử  Việt Nam phần từ năm 1954 đến năm 1975  (ban cơ bản), góp phần nâng cao hứng thú và năng lực tư duy sáng tạo của học   sinh trong học tập bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu:  ­ Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu việc vận dụng tích hợp kiến thức Văn  học, Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. ­ Khách thể  nghiên cứu: học sinh lớp 12A5 trường Trung học phổ  thông  Trần Hưng Đạo ­ tỉnh Vĩnh Phúc. 4. Phương pháp nghiên cứu:  ­ Để thực hiện đề  tài này, tôi sử  dụng phương pháp lịch sử, phương pháp  lôgic cùng những phương pháp dạy học gắn liền với đặc trưng bộ  môn nhằm   phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập như: Phương pháp  thông tin, tái hiện lịch sử; phương pháp nhận thức lịch sử. ­ Phương pháp phỏng vấn: Trong quá trình thực hiện đề  tài sẽ phỏng vấn  trực tiếp một số  học sinh về  giờ  học vận dụng phương pháp tích hợp và trao  đổi với một số giáo viên có kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp dạy   học tích hợp liên môn. ­ Phương pháp thực nghiệm Thực nghiệm   sư  phạm   là khâu  quan  trọng nhằm  kiểm  nghiệm,  chứng  minh và đánh giá hiệu quả  của việc vận dụng phương pháp dạy học tích hợp  liên môn trong giờ học lịch sử. Thực nghiệm tiến hành tại trường THPT Trần Hưng Đạo, Giáo viên chọn 1   lớp học – lớp 12A5 để tiến hành thực nghiệm.  Thời gian thực nghiệm:  + Ở giáo án thực nghiệm số 1 (tiết 38), tôi tiến hành dạy thực nghiệm vào  tiết 2, thứ sáu, ngày 09 tháng 01 năm 2019 ở lớp 12A5. + Ở giáo án thực nghiệm số 2 (tiết 42), tôi tiến hành dạy thực nghiệm vào  tiết 3 thứ tư, ngày 27 tháng 2 năm 2019 ở lớp 12A5. ­ Phương pháp thống kê toán học:  Dùng để  xử  lý số  liệu thu thập được  trong quá trình nghiên cứu. 3
  4. 5. Phạm vi nghiên cứu:  ­ Về nội dung: nghiên cứu phương pháp thực hiện tích hợp kiến thức Văn  học, Địa lí trong dạy học phần Lịch sử  Việt Nam từ  năm 1954 đến năm 1975  (Lớp 12 ­ Ban cơ bản). ­ Về khách thể nghiên cứu:  + Năm học 2018 – 2019, tác giả nghiên cứu thực nghiệm trên 36 học sinh ở  1 lớp: 12A5 của trường THPT Trần Hưng Đạo. + Năm học 2019 – 2020, tác giả dự kiến nghiên cứu trên 78 học sinh ở lớp  12A1 và 12A3 của trường THPT Trần Hưng Đạo.khi dạy chương trình môn Lịch  sử lớp 12 ở học kì II.  ­ Về thời gian nghiên cứu: năm học 2018 – 2019 và năm học 2019 – 2020. 6. Điểm mới của đề tài ­ Tìm hiểu, nghiên cứu, đưa ra các nội dung kiến thức  Văn học, Địa lí có  thể thực hiện tích hợp trong quá trình dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ năm  1954 đến năm 1975. ­ Tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng các phương pháp thực hiện tích hợp  kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam phần Nam từ năm  1954 đến năm 1975 (ban cơ  bản), góp phần nâng cao hứng thú và năng lực tư  duy sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng   giáo dục. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài   ph ần   M ở   đầ u,   phần   K ết   lu ận;   Ph ần   n ội   dung   c ủa   sáng   kiế n   đượ c cấu t ạo thành 3 chươ ng : Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tích hợp kiến thức Văn học,   Địa lí trong dạy học Lịch sử. Chương 2. Tích hợp kiến thức Văn học trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ  năm 1954 đến năm 1975. Chương 3. Tích hợp tài liệu Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam  từ năm  1954 đến năm 1975. 4
  5. NỘI DUNG CHƯƠNG 1  CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP KIẾN  THỨC VĂN HỌC, ĐỊA LÍ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 1.1 Tổng quan về tích hợp trong dạy học Lịch sử Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong   việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ  thông và trong xây dựng   chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Thực hiện môn học tích hợp,   các quá trình học tập không bị  cô lập với cuộc sống hàng ngày, các kiến thức   gắn liền với kinh nghiệm sống của học sinh và được liên hệ với các tình huống  cụ  thể, có ý nghĩa với học sinh. Khi đó, học sinh được dạy sử  dụng kiến thức  trong những tình huống cụ  thể  và việc giảng dạy kiến thức không chỉ  là lí  thuyết mà còn phục vụ thiết yếu trong cuộc sống con người, để  làm người lao   động, công dân tốt. Mặt khác, các kiến thức sẽ không lạc hậu do thường xuyên   cập nhật với cuộc sống. Theo đó khi đánh giá học sinh, thì ngoài kiến thức cần   đánh giá học sinh về  khả  năng sử  dụng kiến thức  ở  các tình huống khác nhau  trong cuộc sống.  Dạy học tích hợp giúp thiết lập mối liên hệ  giữa các khái niệm đã học  trong cùng một môn học và giữa các môn học khác nhau. Đồng thời, dạy học   tích hợp giúp tránh những kiến thức, kĩ năng, nội dung trùng lặp khi nghiên cứu   riêng rẽ từng môn học nhưng lại có những nội dung kiến thức, kĩ năng mà nếu   theo một môn học riêng rẽ sẽ không có được. Như  vậy, dạy học tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm   nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đủ  phẩm chất   và năng lực để  giải quyết các vấn đề  của cuộc sống hiện đại.  Dạy học theo   hướng tích hợp phát huy được tính tích cực của học sinh, góp phần đổi mới nội   dung và phương pháp dạy học. 1.2 Vị  trí, vai trò của môn Lịch sử  trong chương trình giáo dục phổ  thông Môn Lịch sử là một môn học bắt buộc trong trường phổ thông. Đây là một  trong những con đường giáo dục nhân cách cho học sinh thông qua hoạt động  dạy và học. Theo chương trình đổi mới, bộ  môn Lịch sử   ở  các cấp học nói  chung và ở trường THPT nói riêng sẽ cung cấp, củng cố và nâng cao kiến thức  cho học sinh một cách tương đối có hệ  thống về  Lịch sử  thế  giới và Lịch sử  Việt Nam, kể từ khi loài người xuất hiện cho đến nay. Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường THPT ngoài việc cung cấp kiến thức,   còn hướng tư tưởng tình cảm, rèn luyện các kỹ năng cho học sinh.  1.2.1 Về kiến thức 5
  6. Môn Lịch sử sẽ giúp cho học sinh có hiểu biết tương đối chắc chắn và có  hệ thống về lịch sử loài người. Qua mỗi bài học, mỗi lớp học, học sinh sẽ hiểu   biết sâu hơn và có hệ  thống về quá trình phát triển của lịch sử loài người, lịch  sử  dân tộc từ  khởi thủy đến nay. Từ  khi xuất hiện trên trái đất cho đến ngày   nay, con người đã trải qua biết bao thăng trầm, bao giai đoạn phát triển. Học   sinh sẽ  nắm được những giai đoạn phát triển chủ  yếu của lịch sử  dân tộc,   những sự kiện có ý nghĩa về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã  hội. Học sinh sẽ hiểu biết được phần nào quá trình sáng tạo, văn minh, những   nét lớn của văn hóa các dân tộc trên thế giới, của văn hóa Việt Nam. Nắm được những thành tựu chính về các mặt trong Lịch sử dân tộc, Lịch  sử thế giới đồng thời cũng sẽ nhận thức được một số  hạn chế của Lịch sử mà  chúng ta cần khắc phục. 1.2.2 Về tư tưởng, tình cảm + Lịch sử sẽ giúp học sinh nhận thức được quá trình phấn đấu gian khổ và  sáng tạo, xuất phát từ  những điều kiện tự  nhiên, xã hội cụ  thể  để  vươn lên   những đỉnh cao mới của văn minh. Nhờ  đó đời sống vật chất và tinh thần của   con người, của các dân tộc không ngừng được cải thiện và nâng cao. + Đời sống của các dân tộc luôn có mối quan hệ khăng khít, ảnh hưởng lẫn  nhau, dù có khi hòa thuận êm đẹp hay có khi trái ngược hoặc xung đột nhau. + Càng ngày càng thấy rõ trái đất và quê hương là ngôi nhà chung mà mọi   người, mọi dân tộc phải phấn đấu xây dựng, bảo vệ. + Nhận thức được những truyền thống cơ bản, tốt đẹp của dân tộc. + Bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu quê hương và niềm tự hào chân chính. + Trân trọng và có ý thức giữ  gìn nên văn hóa dân tộc được xây dựng và  phát triển qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ  nước. Biết  ơn tổ  tiên, những   anh hùng dân tộc đã lao động, chiến đấu, hi sinh vì sự nghiệp dựng nước và giữ  nước; đồng thời có quyết tâm vươn lên trong học tập, lao động xây dựng và bảo  vệ đất nước ngày nay. 1.2.3 Về kĩ năng.  Môn Lịch sử  góp phần rèn các kĩ năng tư  duy phân tích, khái quát, so sánh,  nhận xét, đánh giá...về một sự kiện, hiện tượng vấn đề lịch sử.  1.2.4 Định hướng năng lực hình thành  Các năng lực chung: ­ Năng lực tự học; năng lực sáng tạo; năng lực giao tiếp; năng lực hợp tác;  năng lực sử dụng công nghệ thông tin. * Năng lực chuyên biệt: ­ Thực hành bộ môn Lịch sử: khai thác kênh hình có liên quan đến bài học;  ­ Phân tích mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động của các sự kiện lịch sử. 6
  7. ­ Năng lực phát hiện, giải quyết các vấn đề trong học tập lịch sử (Điều tra,   thu thập, xử lí thông tin, nêu dự kiến giải quyết các vấn đề, vận dụng kiến thức  vào thực tiễn cuộc sống). 1.3 Thực trạng việc dạy và học Lịch sử hiện nay  Thực tiễn dạy học lịch sử  cho thấy, hiệu quả giờ dạy lịch sử còn nhiều   hạn chế, học sinh chưa yêu thích và ham học môn lịch sử.  Căn cứ vào phổ điểm  các môn thi kì thi THPT Quốc gia trong năm học 2018 ­ 2019 thì kết quả  của   môn Lịch sử so với các môn học khác chưa cao. ­ Điểm trung bình môn Lịch sử trên cả nước: 4.3 ­ Tỉnh Vĩnh Phúc: 4.76 ­ Trường THPT Trần Hưng Đạo là: 4.6 ­  Ở  lớp 12A5 Tôi đã dạy ôn thi THPT quốc gia năm học 2018 ­ 2019 có  điểm trung bình là 5.2. Có thể  thấy chất lượng môn Lịch sử  trong kì thi THPT quốc gia của cả  nước nói chung nhìn chung còn thấp. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát  từ  nhiều yếu tố  chủ  quan và khách quan khác nhau. Một trong những nguyên  nhân không thể  không kể  đến đó là đa số  học sinh không thích học sử  vì khó  nhớ, khó thuộc. Kết quả khảo sát về thái độ  yêu thích môn Lịch sử  của 36 học   sinh lớp 12A5 tôi giảng dạy trong năm học 2018 – 2019 tại trường THPT  Trần  Hưng Đạo như sau: Thái độ Thích Bình thường Không thích Tổng số  Số HS Tỉ lệ (%) Số HS Tỉ lệ (%) Số HS Tỉ lệ (%) HS 36 8 22.2 12 33.3 16 44.5 Môn Lịch sử  có vai trò quan trọng trong công tác giáo dục học sinh nhưng   chỉ có 22,2 % số học sinh hứng thú với lịch sử, còn 44,5 số học sinh được khảo   sát lại không hề  thích lịch sử, đó là một nỗi băn khoăn, trăn trở  không chỉ  của   riêng bản thân tôi là giáo viên giảng dạy môn Lịch sử mà còn là vấn đề mà giáo  dục và cả xã hội rất quan tâm.   Hơn nữa, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, trường THPT  Trần Hưng Đạo  là  trường có phần lớn học sinh có học lực yếu, trung bình với điểm đầu vào thấp  (Năm 2018: 3 điểm/1 môn; Năm 2019: 4 điểm).  Vì vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo   dục bộ môn Lịch sử  nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi giáo viên giảng  dạy cần nỗ lực học hỏi, tìm kiếm các phương pháp dạy học phù hợp với trình  độ, khả  năng tiếp thu của học sinh, từng bước nâng cao hứng thú và kết quả  học tập của học sinh.  7
  8. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc dạy và học môn Lịch sử nói chung   và Lịch sử  lớp 12 nói riêng, tôi thiết nghĩ cần phải phát huy hơn nữa hiệu quả  của việc dạy và học để nâng cao tính tích cực, chủ động trong học tập của học   sinh theo tinh thần đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá cũng như  phương pháp  dạy học.  Dạy học tích hợp là một xu thế đang được nhiều quốc gia trên thế giới và   Việt Nam rất quan tâm, đề cao và đang triển khai thực hiện. Trong những năm  đất nước và ngành giáo dục đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đặc   biệt, sau đợt tập huấn về  dạy học tích hợp do Sở  Giáo dục và Đào tạo Vĩnh   Phúc tổ chức, tôi đã luôn cố  gắng, nỗ lực tạo hứng thú cho học sinh bằng việc  đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng việc tích hợp kiến thức Văn học, Địa   lí, trong dạy học lịch sử và đã thu được kết quả  tốt. Với mong muốn nâng cao  chất  lượng giáo  dục  môn Lịch  sử  nói  chung và  chất lượng môn  Lịch  sử   ở  trường THPT Trần Hưng Đạo nói riêng, nhất là chất lượng thi THPT quốc gia,   tôi muốn được chia sẻ kinh nghiệm của mình cùng các đồng nghiệp về phương   pháp dạy học này. 1.4. Vị trí, ý nghĩa tài liệu văn học, địa lí trong dạy học Lịch sử Để tạo ra những biểu tượng lịch sử sinh động, chân xác, trong dạy học lịch  sử cần sử dụng nhiều loại tài liệu khác nhau trong đó tài liệu Văn học, Địa lí là  một trong những nguồn tài liệu phong phú, có nhiều lợi thế. Với chức năng phản ánh cuộc sống, tài liệu văn học đã góp phần dựng lại  bức tranh  quá  khứ  lịch  sử,  trình  bày  các  đặc  trưng  của  các  hiện  tượng  kinh  tế, chính trị, văn hóa, xã hội, những quy luật của đời sống ở từng thời đại một  cách sinh động, hấp dẫn bằng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật. Giữa Văn học và Sử học có mối quan hệ khăng khít. Khoa học Lịch sử dựa  vào  những nhân  vật,  sự  kiện,  hiện  tượng  lịch  sử  có  thật  trong  một  giai  đoạn  nhất  định  để khôi phục lại  bức  tranh quá  khứ một  cách chân xác, khách quan,  còn Văn học dựa trên chất liệu cuộc sống để xây dựng hình tượng, cốt truyện,  mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình dấu ấn của thời đại. Việc  sử  dụng tài  liệu  Văn  học  trong  dạy  học  Lịch  sử  sẽ  giúp  học  sinh  tránh được  tình  trạng “hiện  đại  hóa”  lịch  sử  ,  giúp  học sinh  củng  cố  và  phát  triển kiến  thức lịch sử,  phát  huy tính tích  cực,  năng động của  học  sinh  và  gây  hứng thú học tập. Do đó, chất lượng dạy học lịch sử được nâng lên. Sự  kiện  lịch  sử  gắn  liền  với  vị  trí  không gian  nhất  định.  Nhiều  sự  kiện  lịch sử xảy ra bắt nguồn từ đặc điểm địa lí hoặc do điều kiện địa lí tác động,  chi phối. Do vậy kiến thức địa lí có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong dạy học  lịch sử. Bài học lịch sử gắn với bản đồ và kiến thức địa lí luôn tạo ra sự hấp  8
  9. dẫn, giúp học sinh nắm chắc sự kiện, biết lí giải bản chất sự kiện qua sự chi  phối của yếu tố địa lí.  Việc tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch sử làm cho học  sinh nhận thức được sự  phát triển xã hội một cách liên tục thống nhất, khắc   phục tình trạng nắm kiến thức lịch sử một cách rời rạc, phát huy tính chủ động,  sáng tạo, năng lực tư  duy, phân tích và khả  năng vận dụng kiến thức vào thực   tiễn hoạt động học tập của học sinh. Xuất phát từ những cơ  sở  lí luận và thực tiễn trên, tôi lựa chọn nội dung:  “Tích hợp kiến thức Văn học, Địa lí trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ năm   1954 đến năm 1975 ­ Lớp 12 (Ban cơ bản)”  làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm  của mình. 9
  10. CHƯƠNG 2 TÍCH HỢP KIẾN THỨC VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ  VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 2.1 Vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử Trong  các  nguồn tài  liệu  tham  khảo, tài liệu Văn học có  khả  năng  to  lớn  trong  việc  tạo  biểu  tượng  cho  học  sinh  bởi  lẽ  bản  thân  các  tác  phẩm  văn  học  đã chứa  đựng  những  sự  kiện  lịch  sử,  cung  cấp  những  tri  thức  có  giá  trị  về  mọi mặt  của  đời  sống  xã  hội.  Đối tượng của Văn học cũng như Sử học là  toàn bộ  thế  giới  nhưng Văn học  không miêu  tả,  tái  hiện  những con  người cụ  thể, cá biệt có thật trong đời sống như lịch sử mà xuất phát từ những mẫu hình  có  thật  để  dựng  nên  những hình  tượng  văn  học  giàu  tính  nghệ  thuật  khiến  học  sinh  dễ  hình  dung  kiến thức và nhớ lâu. Tài liệu văn học được sử dụng sẽ  làm cho sự kiện trở nên cụ thể, sinh động. Những hình  ảnh  văn  học  sinh  động đó  chính là  cơ  sở  để  tạo  biểu  tượng  lịch sử. Hiệu quả của việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh phụ thuộc vào  nhiều yếu tố, trong đó sử dụng tài liệu văn học có lợi thế đặc biệt. Trong dạy  học lịch sử,  việc  miêu  tả,  tường thuật,  giải  thích, so  sánh, nêu  đặc điểm nhân  vật  lịch sử  v.v…rất  được  coi  trọng.  T ài liệu văn học có  cơ  sở  để  giúp  giáo  viên  lịch  sử  thực hiện điều đó. Tài liệu văn học với  sự  phản  ánh  thực  qua  cách  nhìn,  thái  độ  quan  điểm  của tác giả đối với hiện tượng được miêu tả nên có tác động mạnh mẽ vào tâm  hồn người đọc. Người đọc sẽ hình thành tình cảm tích cực hay tiêu cực qua tác  động của các tác phẩm văn học. Học sinh không chỉ được giáo dục về tư tưởng, đạo đức khi tiếp xúc với  văn học mà những hình tượng văn học điển hình còn tạo hứng thú học tập lịch  sử cho các em.  Việc  sử  dụng  tài liệu văn học trong  dạy  học  lịch  sử  cũng  là  nhằm  làm  cho  các  kiến  thức  lịch  sử  dễ  tiếp  nhận  đối  với  học  sinh,  các  em  dường  như  được  tham dự,  chứng  kiến lịch  sử  quá  khứ.  Đây  là  việc  phát  huy  trí  tưởng  tượng tái tạo  cho  học  sinh,  rất  cần  cho  việc  học  tập  lịch  sử  bởi  nếu  không  hình  dung quá khứ khách quan thì không thể hiểu bản chất lịch sử, dễ rơi vào  tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử. Do đó việc sử dụng tài liệu văn học trong bài  giảng  của  giáo viên  là  một  việc  làm  thiết thực,  một  yêu  cầu  bức  thiết nhằm  nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. 2.2.  Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch  sử Việc  sử  dụng  tài liệu văn học  trong  dạy  học  lịch  sử  giúp  học  sinh  nắm  kiến thức lịch  sử  sâu  sắc,  toàn  diện  hơn,  đặc  biệt  các  em  có  sự  liên  hệ,  tích  10
  11. hợp kiến thức giữa các môn học, tránh được tình trạng rời rạc, tản mạn trong  kiến thức của học sinh, tính hệ thống của các tri thức đó sẽ giúp học sinh hiểu  sự kiện, có khả năng phân tích sự kiện, tìm ra bản chất, qui luật phát triển của  lịch sử. Tuy nhiên không phải cứ đưa tài liệu văn học, địa lí vào bài giảng lịch  sử là giáo viên đã đạt hiệu quả dạy học như trên mà việc sử dụng tài liệu văn  học  trong  dạy  học  lịch  sử  phải tuân  thủ  theo  những  nguyên  tắc  dạy  học  nói  chung và yêu cầu cụ thể sau đây. Tài liệu văn học phải phù hợp với nội dung bài giảng và trình độ nhận thức  của học sinh. Tài liệu văn học phải đảm bảo tính tiêu biểu, điển hình. Lựa chọn các biện pháp thích hợp để sử dụng tài liệu văn học. Tài liệu văn học, sử dụng trong sự kết hợp giữa các phương pháp, các loại  tài liệu khác nhau. Tài liệu văn học đảm bảo tính khoa học và tính tư tưởng. 2.3. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử 2.3.1 Vận dụng kiến thức văn học trong kể chuyện lịch sử Trong dạy học lịch sử, giáo viên có thể  sử  dụng những câu chuyện trong   văn học  để  xây dựng những mẩu chuyện  về  sự  kiện lịch sử. N hững  mẩu  chuyện lịch sử luôn cuốn hút học sinh, với ngữ điệu và các thao tác sư  phạm  phù hợp, giáo viên khi kể một câu chuyện lịch sử không những khiến học sinh  dễ  nhớ  và  nhớ lâu  sự  kiện mà tâm  hồn, trái  tim các  em cũng sẽ thực sự rung  cảm.  Chẳng hạn khi dạy bài 21: “Xây dựng chủ  nghĩa xã hội ở  miền Bắc, đấu  tranh chống đế  quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn  ở  miền Nam (1954 – 1965)”,   mục I. Tình hình và nhiệm vụ  cách mạng nước ta sau hiệp định Giơnevơ  năm  1954 về Đông Dương, giáo viên có thể xây dựng đoạn kể chuyện về Ngô Đình  Diệm để  giúp học sinh thấy được nguồn gốc tội ác mà Diệm đã gây ra cho   nhân dân miền Nam, hiểu được bản chất của chế  độ  thực dân mới, căm thù  chế  độ   Mĩ ­  Diệm và có thái độ  bất bình với những hành động phi nhân tính   của chúng. “Ngô Đình Diệm quê ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.   Thuở  nhỏ học tại Huế. Năm 1918 học trường Hậu Bổ. Tốt nghiệp và bắt đầu   làm quan từ năm 1920 tại Thừa Thiên Huế, Quảng Trị. Năm 1945, bị Nhật loại   không cho làm thủ  tướng chính phủ  thân Nhật. Sau cách mạng tháng Tám,   Diệm bị lực lượng cách mạng tạm giữ  một thời gian rồi được phóng thích về   sống ẩn ở Đà Lạt với em là Ngô Đình Nhu. Năm 1950, Diệm sang Mĩ sống tại   các chủng viện lớn  ở  Mĩ và học đại học Michêgan Hoa Kì. Năm 1954, được   Bảo Đại mời làm thủ tướng – do Mĩ chỉ đạo thay Bửu Lộc. Sau khi cầm quyền   11
  12. năm 1955 đã lật đổ Bảo Đại. Từ đó Ngô Đình Diệm trực tiếp đối đầu với cách   mạng Việt Nam, ra sức phá hoại hiệp định Giơnevơ và ý đồ chia cắt đất nước.   Được nuôi dưỡng từ  thế  lực ngoại bang, qua bàn tay trùm gián điệp hồng y   Spellman, y và gia đình là tiêu biểu cho tầng lớp tư  sản, đại địa chủ  đội lốt   thiên chúa giáo, có nhiều nợ máu với nhân dân và mang ý thức phục thù. Do đó   để  duy trì chính quyền, Ngô Đình Diệm đã thi hành nhiều chính sách và biện   pháp đi ngược lại truyền thống dân tộc.  Ngay khi được Mĩ đưa về làm thủ tướng rồi làm tổng thống bù nhìn, Ngô   Đình Diệm thực hiện chính sách “gia đình trị” gồm 4 anh em ruột: Ngô Đình   Thục (giám mục), Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và Trần Lệ  Xuân (vợ  Nhu)   với các nhân vật trong gia đình thông gia (Trần Văn Trương) cùng các thế lực   đàn áp nhân dân và các lực lượng đối kháng, coi “sự  nghiệp truyền đạo là   thành lũy chống cộng sản”. Trong thời gian cầm quyền, Diệm thực hi ện nhi ều   chính sách chống Phật giáo, âm mưu đưa Thiên chúa giáo lên vị trí Quốc đạo và   sử  dụng tôn giáo này là công cụ  đắc lực để  phá hoại phong trào cách mạng   miền Nam. Thi hành chính sách “tố  cộng, diệt cộng”, luật 10/59 lê máy chém   khắp miền Nam, đàn áp lực lượng cách mạng. Ngày 2/11/1963, anh em Ngô   Đình Diệm bị các thế lực khác do Mĩ dàn dựng và tổ chức giết chết trong cuộc   đảo chính”. Hay khi dạy mục III – Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ – Diệm, giữ  gìn và phát triển lực lượng cách mạng, tiến tới Đồng Khởi (1954 – 1960), khi   nói về chính sách tố  cộng, diệt cộng của chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền  Nam Việt Nam, giáo viên có thể  sử  dụng mẩu chuyện trong tác phẩm:  “Chân   dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh”, tập 2. Nxb Lao Động; để kể chuyện về  tấm gương anh hùng Trần Thị Lý: “Chị  Trần Thị  Lý tức là Trần Thị  Nhậm, bí danh Bích Ngọc quê  ở  tỉnh   Quảng Nam – mảnh đất mang truyền thống “Trung dũng kiên cường đi đầu   diệt Mĩ”. Tháng 1 năm 1955, chị Lý nhận nhiệm vụ mới, phụ trách đường dây hoạt   động bí mật của tỉnh tại Đà Nẵng. Thời gian này địch kiểm soát gắt gao. Chính   quyền Diệm lê máy chém đi khắp nơi với chính sách “tố cộng, diệt cộng”, dùng   mọi thủ đoạn đánh phá tràn lan, đánh vào các vùng trọng điểm, chà xát nhiều   lần trên khu vực...Mặc dù bị  địch kiểm soát gắt gao nhưng Lý vẫn kiên trì bền   bỉ, ban ngày nằm hầm hoặc rút ra ngoài đồng, ngoài khu vực lùng sục của địch,   đêm đêm trở về bám dân, gây cơ sở cách mạng.  Bước vào năm 1957, chính quyền Diệm ban hành đạo luật “đặt Cộng sản   ra ngoài vòng pháp luật”. Không khí khủng bố, giết chóc bao trùm khắp nông   thôn, thành thị. Bọn phản động hoành hành khắp nơi, dồn dân đến nghẹt thở.   12
  13. Chị  Lý trong lúc đang làm nhiệm vụ đã bị  giặc bắt. Chúng tra tấn chị  dã man,   chúng dùng dao sắc rạch người chị  theo đường ô quả  trám, toàn thân thể  chị   nhuộm một màu máu đỏ. Đâu chỉ có vậy, chúng còn dùng mọi phương tiện, kỹ   thuật của chiến tranh tàn ác: “điệt giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung” hòng làm   nhụt ý chí của chị. Hai vai chị  tím bầm, dập nát, đôi chân bị  thương nặng,   những vết dao cắt, lửa nung dâm vào vùng bùng thành những hố  sâu hoắm.   Trên cơ thể mảnh dẻ của người con gái xứ Quảng ấy đầm đìa máu với hơn 50   vết thương trên người. Nhưng ở chị dường như có một nghị lực phi thường, chị   chịu đựng bao nhiêu cực hình đó không một tiếng thở than rên xiết. Chị quên đi   cái đau đớn để giữ  vững bảo toàn bí mật cho cách mạng. Tháng 10 năm 1958,   Trần Thị Lý bị tra tấn tới kiệt sức, địch cho rằng chị không thể sống được nữa   nên đem vứt chị  ngoài nhà lao. Trần Thị  Lý được cơ  sở  đưa về  nhà chăm sóc,   sau đó được đưa ra khỏi Gò Nổi và được tổ chức đưa ra miền Bắc chữa trị các   vết thương. Trong những năm tháng chị điều trị tại Bệnh viện Việt Xô, nhà thơ   Tố Hữu đã viết tặng chị bài thơ “Người con gái Việt Nam” để tôn vinh sự kiên   trinh, bất khuất của chị: “Em là ai? Cô gái hay nàng tiên Em có tuổi hay không có tuổi Mái tóc em đây, là mây hay là suối Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông Thịt da em hay là sắt là đồng ?” ... “Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng Em đã sống lại rồi em đã sống ! Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung Không giết được em, người con gái anh hùng !” ... “ Từ cõi chết, em trở về, chói lọi Như buổi em đi, ngọn cờ đỏ gọi Em trở về, người con gái quang vinh Cả nước ôm em, khúc ruột của mình.” (Trích “Người con gái Việt Nam – Tố Hữu”).  Hoặc giáo viên có thể  sử  dụng Báo cáo của ông Tôn Quang Phiệt về  vụ  thảm sát ở nhà giam Phú Lợi (01­12­1958) để kể chuyện cho học sinh, giúp học  sinh hiểu rõ hơn về  chính sách khủng bố  của Mĩ – Diệm  ở  miền Nam trong  những năm 1957 – 1959: “Trại tập trung Phú Lợi thuộc tỉnh Thủ Dầu Một, cách Sài Gòn 33 cây số   ở một vùng rừng hẻo lánh. Trại rộng 120 mẫu tây, xung quanh có tường cao 3   thước. Có một hệ thống đồn bốt gồm 12 tháp canh với một tiểu đoàn bảo an vũ   trang đầy đủ và mật thám, cảnh sát bao vây xung quanh. Hôm đó như  thường lệ, đến bữa ăn anh chị  em cùng nhau ra ăn cơm.   13
  14. Nhưng vừa ăn xong thì ai nấy đều ôm bụng kêu la, nằm xuống dẫy dụa, có   người thể chất yếu hoặc trúng độc mạnh thì chết lịm ngay.  Cảm biết là nhà cầm quyền miền Nam bỏ thuốc độc, cả trại náo động kêu   la  ầm  ỹ  đòi bọn chúng mở  cửa nhà giam cứu chữa. Nhưng bọn cai ngục đã   được chỉ  thị  ra lệnh cho lính khóa chặt các cửa nhà giam, đồng thời bủa lính   bao vây trại, canh giữ nghiêm ngặt các ngả đường ra vào. Một số  ít anh chị  em đã cố  đu người lên xà nhà dỡ  nóc nhà trèo lên kêu   cứu, đòi chính quyền miền Nam phải đem thuốc men cứu chữa. Nhưng bọn Mỹ   ­ Diệm đã cho lính bắn xả vào giết chết một số. Tính ra chỉ trong ngày 1­12, hơn 1.000 anh chị em đã bị chết rất thê thảm.   Số  còn lại thì nằm mê man bất tỉnh. Trong lúc anh chị  em trong các trại giam   kêu la ầm ĩ thì đồng bào xung quanh dò hỏi biết tin rất kinh hoàng và căm phẫn,   nhiều người kéo nhau tản cư về phía Sài Gòn, Chợ Lớn. Đến ngày 2­12 thêm một số anh chị em nữa bị chết. Hơn 4.000 anh chị em   còn lại đã nhất tề  tuyệt thực đấu tranh đòi Mỹ  ­ Diệm phải cứu chữa những   người còn lại. Nhiều anh em cố  gượng leo lên dỡ  nóc nhà kêu cứu. Tiếng la   thét vang dậy cả khu trại. Bọn Mỹ  ­ Diệm lập tức điều động thêm về  Phú Lợi một trung đoàn bộ   binh bao vây chặt chẽ trại tập trung, lùng khắp các xóm làng lân cận, hạ  lệnh   giới nghiêm, cấm nhân dân tụ họp bàn tán. Chúng lại cho xe vòi rồng đến phun nước đàn áp cuộc đấu tranh. Từ  sân   tập bắn, hàng loạt súng liên thanh nổ dồn vào phía các nhà giam. Anh chị em đã   yếu sức bị  chết thêm một số, có anh chị  em bị  nước phun ngã từ  trên xà nhà   xuống gẫy tay chân hay vỡ sọ mà chết lập tức. Bọn Mỹ ­ Diệm muốn làm cho phi tang đã đưa dầu xăng phun vào trại và   ném bùi nhùi đốt. Có một nhà giam bốc cháy, một số  anh chị  em còn sống bị   chết thiêu. Nhiều xác chết từ hôm 1­12 đã bị cháy tiêu. Đồng bào xung quanh châu thành rất căm phẫn Mỹ ­ Diệm và thương xót   cho các nạn nhân, đã mua thuốc men kéo đến đòi được giúp đỡ những người bị   nạn. Các gia đình có thân nhân bị giam giữ rất là xao xuyến đã đòi các báo chí   Sài Gòn cho biết tin tức. Nhưng bọn Mỹ ­ Diệm cố tình bưng bít không cho các   báo đả động đến việc này. Muốn đánh lừa dư luận bọn Mỹ ­ Diệm cho tung tin là ở  Bình Dương có   bệnh ôn dịch, tù nhân bị bệnh mà chết. Nhưng ai cũng biết là nói láo, vì sau khi vụ  này xảy ra, người ta đã đem   cơm cho chó ăn thì chó chết, bỏ  cho cá ăn thì cá chết. Cuối cùng chính quyền   miền Nam lại tung tin là các tù nhân uống thuốc độc tự tử để đánh lừa dư luận.   Nói láo nữa! đồng bào chúng ta  ở  miền Nam là những người yêu nước đã có   14
  15. một truyền thống anh dũng bất khuất, dẫu bị khổ sở dưới sự khủng bố của Mỹ   ­ Diệm vẫn đấu tranh để  sống, để  đuổi Mỹ  ­ Diệm ra khỏi miền Nam, để   thống nhất nước nhà, không khi nào có cái tư  tưởng tự  sát. Luận điệu Mỹ  ­   Diệm nhất định không lừa dối được ai, không lừa dối được nhân dân ta, không   lừa dối được dư luận thế giới”. Dạy về  diễn biến phong trào Đồng Khởi (1959­1960), giáo viên có thể  sử  dụng truyện ngắn Rừng xà nu của tác giả  Nguyễn Trung Thành để  kể  chuyện   về  cuộc đấu tranh của nhân dân ngôi làng của người Giẻ  Triêng có tên là làng  Xốp Nghét của xã Xốp, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum để giúp cho học sinh về  cuộc sống, chiến đấu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên kháng chiến chống  đế quốc Mĩ xâm lược: “Hồi  ấy, bị  bọn Mỹ  – ngụy tàn ác tấn công, nhưng làng vẫn bí mật nuôi   giấu cán bộ cách mạng. Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho Quyết, rồi được   Quyết dạy chữ. Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện, Tnú bị phục bắt,   bị tra tấn nhưng anh không khai.  Ở  tù 3 năm, Tnú vượt ngục, trở  về  làng thay   anh Quyết chỉ huy buôn làng chuẩn bị vũ khí chiến đấu và cưới Mai. Tin làng Xô Man chuẩn bị  vũ khí chờ  thời cơ  nổi dậy đến tai lũ chó săn   nguỵ   quân   Cộng   hoà.   Dục   đưa   lính   đến   lùng   sục   vây   ráp.   Cụ   Mết,   Tnú   cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú, địch bắt Mai cùng với đứa   con nhỏ chưa đầy tháng. Từ vị trí ẩn nấp, Tnú chứng kiến cảnh vợ  con bị nguỵ  quân đánh đập. Sôi   sục căm thù, Tnú nhảy xổ  vào cứu vợ  nhưng rồi Mai cũng chết, đứa con cũng   chết anh cũng bị bắt... Địch tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay Tnú trước   mặt dân làng. Tnú chịu đựng không kêu la. Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay,   Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy  ở  bụng. Máu anh mặn chát  ở  đầu   lưỡi. Răng anh cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Tnú không thèm kêu van,   người cộng sản không thèm kêu van. Tnú thét lên một tiếng. Tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều   tiếng thét dữ  dội hơn. Dân làng đồng thanh “giết”, nhất tề  nổi dậy. Dục và   quân địch đã bị cụ Mết và thanh niên tiêu diệt sạch. Làng Xô Man giành phần   thắng. Tnú gia nhập bộ đội giải phóng miền Nam…” Khi dạy  bài 21,  mục V.1 Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ  ở  miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”” của Mĩ, giáo  viên có thể  sử  dụng đoạn trích trong tác phẩm “Những mẩu chuyện lịch sử”   Nxb Giáo dục để  kể  câu chuyện về  “Con quái vật M.113” giúp học sinh hiểu  sâu sắc về  các chiến thuật mới: “trực thăng vận”, “thiết xa vận” mà Mĩ sử  15
  16. dụng trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam: “Đã từ  lâu, vùng Đồng Tháp Mười như  một mũi đinh nhọn chĩa vào mắt   bọn xâm lược. Chúng rất cay vì bình định vùng này mà không làm nổi. Kể  cả   khá nhiều trận, Mĩ – Diệm tấn công bào khu vực sình lầy song lần nào cũng   hậm hực thua đau. Chúng bàn nhau: “chiến thuật trực thăng vận” không thể áp   dụng  ở  vùng đầm lầy rậm rạp mênh mông này được vì không có chỗ  cho máy   bay hạ cánh đổ quân mà dùng chiến thuật nhảy dù càng nguy hiểm. Phải tìm ra   một thứ vũ khí gì mới có thể vùng vẫy trên bùn nước. Cho đến ngày 4/6/1962, theo hãng A.P, đế quốc Mĩ đã sáng chế ra một thứ   vũ kí mới toanh rất lợi hại đưa sang Việt Nam để  tấn công vùng Đồng Tháp   Mười. Đó là loại xe bọc thép lội nước mà bọn Hakin đặt cho một cái tên khá   hấp dẫn “Thiết vận xa M.113”. Theo miêu tả  thì loại xe này vừa chạy rất   nhanh  ở  trên ruộng khô, lại có thể  lặn ngụp trong bùn nước, ao đầm. Mỗi xe,   trang bị đầy đủ có thể trở nặng hàng mấy tấn, trên nóc đặt một khẩu trọng liên   50 ly, đằng trước có một tấm khiên bằng kim loại rất dày có thể chịu được sức   công phá của đạn súng cỡ 50 và 75 ly. Đặc biệt loại xe M.113 còn  được trang   bị  tia hồng ngoại có thể  chiếu sáng ban đêm với tầm phóng khá xa, phát hiện   được mọi chướng ngại vật ngang đường. Tên đại úy Mĩ W. Bơ­ric­kơ, cố  vấn của đại đội thiết xa vận M.113 đã   phỉnh phờ bọn lính: “binh sĩ hành quân được ngồi trong thiết xa vận M.113 thì   sẽ  được bảo đảm yên trí như  ngồi trong hầm phòng ngự  boong ke rất vững   chãi. Có thể nói chắc chắn rằng, loại xe này có thể giúp cho binh sĩ hoạt động   với một niềm tin mới và một tính chiến đấu mới. Ngoài tác dụng xung kích, loại   M.113 này còn có một giá trị tâm lí đặc biệt vì nó sẽ làm cho du kích việt cộng   khiếp hãi khi nhìn thấy “con quái vật bằng thép” này bất ngờ xuất hiện và gầm   rú trên đồng ruộng, kênh rạch”. Khi dạy bài 21, mục V.2. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến  tranh đặc biệt” của Mĩ, sau khi giáo viên tường thuật xong các thắng lợi của ta,   để nhấn mạnh hơn sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ cách mạng miền Nam,   giáo viên có thể  sử  dụng đoạn trích về  anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trong sách   “Những mẩu chuyện lịch sử” của Nxb Giáo dục để xây dựng bài kể chuyện cho   học sinh về tấm gương hy sinh của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi:    “Nguyễn Văn Trỗi  quê  ở  xã Thanh Quýt, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng   Nam. Gia đình nghèo, mẹ mất sớm, bố đi làm xa, anh sớm có ý thức tự lập, năm   15 tuổi đã ra Đà Nẵng, rồi vào Sài Gòn tìm việc, lúc đầu làm nghề đạp xe xích   lô, sau xin vào học nghề thợ điện. Anh sớm giác ngộ  cách mạng. Trong những năm 1963 – 1964, phong trào   đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc Mĩ và bọn bù nhìn tay sau phát triển   16
  17. rất mạnh, chính phủ  Mĩ phải cử  nhiều phái đoàn quân sự  cao cấp sang miền   Nam Việt Nam xem xét tình hình tìm cách đối phó.  Các chiến sĩ biệt động nội thành khẩn trương triển khai các trận đánh   địch. Anh Trỗi mới lập gia đình nên tổ  chức muốn giành cho anh một thời gian   nghỉ  ngơi và thu xếp việc nhà nhưng anh đã xung phong nhận nhiệm vụ  đặc   biệt: đặt mìn tại cầu Công Lí để  giết tên Mác Na­ma­ra, Bộ  trưởng Bộ  Quốc   phòng Mĩ, khi xe của hắn đi qua, Anh đã bị  kẻ  thù bắt lúc đang thi hành nhiệm   vụ (9­5­1964). Giặc Mĩ và tay sau dùng mọi thủ  đoạn dã man, thâm độc, từ  dụ  dỗ, mua   chuộc đến tra tấn, khủng bố  đề  hòng anh khai ra các cơ  quan bí mất của ta   trong nội thành. Nhưng trước sau anh chỉ nhận có một mình mưu giết Mác Na­ ma­ra. Anh lớn tiếng khẳng định: “còn giặc Mĩ trên đất nước Việt Nam thì   không ai có hạnh phúc nổi cả!”. Cuối cùng, chúng đưa anh ra pháp trường. Thái độ  hiên ngang của anh   trước mũi súng quân thù đã làm cho chính bọn chúng khiếp đảm, run sợ, còn   nhân dân và nước và nhân dân tiến bộ  thế  giới đều kính phục, ngưỡng mộ.   Những người du kích Vê­nê­xuê­la đã bắt cóc một tên Đại tá Mĩ để  đổi mạng   cho anh, nhưng bọn Mĩ lật lọng không giữ lời cam kết. Chúng xử bắn anh ngày   15­10­1964 ở Sài Gòn. Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã ghi trên tấm  ảnh Nguyễn Văn Trỗi trên pháp   trường như sau: Vì Tổ  quốc, vì nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng   đấu tranh chống đế  quốc Mĩ đến hơi thở  cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của anh   hùng Trỗi là một tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước,   nhất là cho các cháu thanh niên học tập”. Nhà thơ  Tố  Hữu đã có những vần thơ  ca ngợi chiến công của người anh   hùng yêu nước ấy trong bài thơ: “Hãy nhớ lấy lời tôi” Có những phút giây làm nên lịch sử Có cái chết hoá thành bất tử Có những lời hơn mọi bài ca Có những con người như chân lý sinh ra Nguyễn Văn Trỗi Anh đã chết rồi. Anh còn sống mãi .... Phút giây thiêng anh gọi bác ba lần Súng đã nổ, mười viên đạn Mĩ Anh gục xuống. Không! anh thẳng dậy Anh vẫn còn hô: Việt Nam muôn năm:! Máu tim anh nhuộm đỏ đất anh nằm”. 17
  18. Khi dạy về  phong trào đấu tranh chính trị  của nhân dân miền Nam trong   đấu tranh chống “Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ, giáo viên có thể  sử dụng tư liệu trong tác phẩm “Chuyện kể về các nữ anh hùng thời đại Hồ Chí   Minh”, Báo Quân đội nhân dân (2004) kể  chuyện về  Nữ  anh hùng Út Tịch –  Người mẹ cầm súng để khắc sâu cho học sinh hình tượng và vai trò của người  phụ nữ ­ “đội quân tóc dài” trong đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh đặc   biệt” của Mĩ: “Chị  Nguyễn Út Tịch sinh năm 1920, quê  ở  xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kẻ,   tỉnh Trà Vinh. Xuất thân trong một gia đình cố nông, ngay từ nhỏ chị đã đi ở đợ   cho địa chủ, chịu biết bao cay đắng, áp bức của đế  quốc, phong kiến. Khi lấy   chồng, cả  hai vợ  chồng chị  vẫn phải đi  ở  đợ  cho đến ngày cách mạng tháng   Tám thành công. Hai vợ chồng chị hăng hái tham gia cách mạng từ năm 1945. Vừa giỏi việc nước, vừa đảm việc nhà, tuy đã 6 con nhưng chị Út Tịch vẫn   đánh giặc rất hăng hái, có nhiều mưu mẹo tài tình. Khi có thai 8 tháng vẫn chỉ   huy du kích đánh hai đồn giặc. Trong một trận địch càn vào xã, lúc đó Út Tịch   vừa sinh con được hai tháng nhưng khi nghe tiếng súng, chị  vội ôm con giấu   dưới hầm bí mật sau vườn, rồi tay cầm súng, vai vác xẻng, men theo chiến hào,   chị chảy tất tưởi về phía có tiếng súng nổ.  Chị bò đến một mô đất cao, đào ngay công sự rồi giương súng nhả đạn về   phía địch. Khi giáp trận, chị nhanh như con sóc, chạy hết nơi này đến nơi khác,   lợi dụng địa hình, nổ súng giết giặc.  Vừa phát hiện một tên giặc đang trút đạn vào ấp, chị lặng lẽ luồn ra phía   sau, nhằm đúng đầu nó bóp cò. Súng địch câm họng. Trong khi cố trườn lên bờ   đê lấy súng địch, do sức yếu bị  trượt chân ngã lăn xuống ruộng ngất xỉu, tỉnh   dậy chị lại tiếp tục chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc. Người con gái miền Nam anh hùng, Nguyễn Thị Út mưu tài dũng lược, đảm   đang được nhà nước tặng thưởng huân chương Quân công giải phóng hạng Ba   và danh hiệu cao quý, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (8/5/1965). Hay giáo viên có thể  sử  dụng đoạn trích trong tác phẩm  “Vụ  ám sát Ngô  Đình Diệm và J.F. Kennedy”,  Nxb Công an nhân dân, 2003  (tr.61­63) để  kể  chuyện về  vụ  Dương Văn Minh đảo chính giết anh em Diệm – Nhu, mở  đầu   cho cuộc khủng hoảng triền miên của chính quyền Sài Gòn: “ Vào lúc 1 giờ chiều ngày 1­11­1963, cuộc lật đổ bằng quân sự, cuộc đảo   chính chống chính quyền Diệm do tướng Việt Nam Dương Văn Minh (biệt danh   là Minh Lớn) cầm đầu. Để  phòng ngừa, Minh Lớn ra lệnh giết một tướng chỉ   huy hải quân thân Diệm rất có thế lực và nhiều chỉ huy đặc biệt Nam Việt Nam   ngay trước khi cuộc đảo chính chính thức xảy ra, bóp chết mọi ý đồ tập hợp lại   lực lượng và rồi giao tranh bắt đầu bằng cuộc tấn công chớp nhoáng vào các   18
  19. trung tâm truyền tin, các đài phát thanh, Sở cảnh sát và Dinh Tổng thống lộng   lẫy của Diệm. Trong khi đó, các đơn vị quân đội chủ lực có thể được sử dụng   để bảo vệ  Diệm đã bị  khôn khéo điều động ra khỏi vùng giao tranh. Khi cuộc   nổi dậy bắt đầu, Lodge liền được tổ  đặc trách CIA thông báo. Khi Diệm  cho   gọi đích thân bị đại sứ này và yêu cầu được biết thái độ  của Mĩ, Lodge đáp: “   Tôi cảm thấy không đủ thông tin để có thể trả lời ngài”. ­ Sao ông đại sứ  lại có thể  trả  lời người đứng đầu một nước đồng minh   như thế? ­ Lodge cho rằng ông không biết gì về  lập trường của chính phủ  ông!   Diệm gác điện thoại. Cuộc đảo chính diễn tiến như  một bộ máy đồng hồ. Khi đụng độ  dữ  dội   nổ  ra tại Dinh Tổng thống, Diệm và Nhu tìm cách tẩu thoát qua một đường   hầm ngầm, sau đó được một người bạn  ở  Chợ  Lớn che dấu (Chợ  Lớn là nơi   Nhu có nhiều người quen thông qua một mạng lưới thuốc phiện). Thật thú vị   để nói thêm ở đây, như một chi tiết bổ sung cho bản chất của Diệm, Nhu, rằng   các lực lượng bảo vệ  trung thành của Tổng thống trong dinh tiếp tục chiến   đấu thêm nhiều tiếng đồng hồ  nữa và hi sinh mà không hay biết rằng vị  Tổng   thống mà họ đang chiến đấu bảo vệ đã bỏ chạy từ lâu.  Khi đã đến được chỗ  an toàn cách xa dinh, lẽ ra Diệm có thể  gọi một cú   điện thoại theo cách không thể truy ra người gọi để khuyên các lực lượng bảo   vệ  của mình trong dinh đầu hàng phe đảo chính để  giữ  mạng sống. Nhưng   Diệm không làm thế, ông ta quyết định để cho họ chết. Nhưng chính Diệm cuối cùng cũng phải đầu hàng – vì quá ít lựa chọn – và   cuộc giao tranh chấm dứt. Sau một hồi mặc cả, Diệm đồng ý tiết lộ  chỗ  trốn   của mình và công khai đầu hàng Minh Lớn và các tướng lĩnh của ông nếu như   họ hứa để cho Diệm và Nhu an toàn chạy ra nước ngoài. Minh đồng ý. Lúc đó Diệm cho ông biết ông và Nhu đang lẩn trốn trong một nhà thờ   công giáo ở Chợ Lớn, và ông đảm bảo rằng họ sẽ chờ quân của ông Minh tới   bắt đưa về tổng hành dinh để ông chính thức thoái vị. Minh phái các vệ sĩ của   ông và một trung đội quân ra đi thi hành lệnh bắt Diệm. Khi họ đến nhà thờ,   Diệm và Nhu hòa dịu nộp mình. Sau đó hai ông được hộ  tống ra khỏi nhà thờ   và đưa vào trong một chiếc xe bọc thép.  Ngay khi cánh cửa chiếc xe bọc thép vừa đóng lại, Diệm và Nhu liền bị   đánh đập, trói gô bốn vó, rồi bị bắn cho tới chết”. Khi dạy về  việc chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường   miền Nam, giáo viên có thể kết hợp kể chuyện về 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc,  dựa trên tác phẩm cùng tên của tác giả Nghiêm Văn Tân: 19
  20.   “Tiểu đội 4 thuộc Đại đội 552, Tổng đội Thanh niên xung phong 55 Hà   Tĩnh gồm 10 cô gái còn rất trẻ tuổi từ 17 đến 24 do chị Võ Thị Tần làm Tiểu đội   trưởng là đơn vị  làm việc thường trực tại Ngã ba Đồng Lộc, chịu trách nhiệm   san lấp bom ở đoạn đường này để không đứt mạch giao thông nối hậu phương   với tiền tuyến. Bình thường tiểu đội hoạt động về đêm để lấp hố bom mà máy   bay đã bắn phá vào ban ngày. Sau cuộc tổng tấn công và nổi dậy tết mậu thân   năm 1968, ngã ba Đồng Lộc đã trở thành mạch máu giao thông quan trọng, nối   liền hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn Miền Nam. Đế  quốc Mỹ biết   được điều đó nên đã tìm mọi cách cắt đứt con đường này. Thế nhưng những cô   gái thanh niên xung phong đã dũng cảm xả  thân quên mình, quyết “sống bám   cầu, bám đường”. Họ  đã luôn chiến đấu với khẩu hiệu “máu có thể  chảy, tim   có thể  ngừng nhưng mạch máu giao thông không bao giờ  tắt”. Mưa bom bão   đạn không thể làm khuất phục ý chí chiến đấu của họ.  …Hôm đó, 10 cô gái ra đến hiện trường đã nhanh chóng triển khai công   việc, người đào, người xúc, hồ  hởi làm việc, vừa làm vừa chuyện trò trêu đùa   nhau. Bỗng có một tốp máy bay vượt qua trọng điểm. Tất cả  chị  em nhanh   chóng nép mình vào triền đồi, nơi thành hố  bom cũ tạo nên một cái rãnh lớn.   Tốp đi sau của tiểu đội 5 cũng dừng lại quan sát. Một lúc sau, hết tiếng máy   bay cả tiểu đội tiếp tục đứng dậy làm việc. Bất ngờ, một trong tốp chiếc máy   bay lúc nãy quay lại, thả một loạt bom. Một quả bom rơi trúng trước cửa hầm   các chị đang còn trú  ẩn. Tiếng nổ chát chúa, đất đá tung toé, khói bom mù mịt,   đen ngòm trùm lên cả đội hình 10 cô. Tốp thanh niên xung phong tiểu đội 5 đi sau chạy ào đến gào thét, bộ đội,   nhân dân  ở  gần đó cũng lao ra gọi tên từng người. Đến nơi, chỉ  còn thấy hố   bom sâu hoắm, một vài chiếc cuốc, xẻnh văng ra nhưng không còn thấy một ai,   không nghe thấy một tiếng người. Cả  10 cô gái thanh niên xung phong đã anh   dũng hy sinh. Suốt đêm hôm đó và cả  ngày hôm sau, đồng đội đã đào bới, tìm   kiếm thi thể các chị, đem về tắm rửa sạch sẽ. Tất cả đều như  đang vừa đi vào   giấc ngủ dài. Đồng đội đã đặt các chị vào khu đồi Bãi Dịa với lòng xót thương   vô hạn.   Riêng chị Hồ Thị Cúc, mãi sang ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy chị cũng   ở  trong căn hầm đó, do đất đá vùi sâu quá nên đồng đội không tìm ra nổi. Lúc   tìm thấy chị trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc, 10 đầu ngón   tay bị bầm tím vì đang bới đất để tìm đường ra….”  Khi dạy cho học sinh thành tựu của nhân dân miền Bắc trong chiến đấu  chống chiến tranh phá hoại lần thứ  nhất của đế  quốc Mĩ (1964 – 1968), giáo  viên có thể  sử  dụng tư  liệu trong tác phẩm “Những mẩu chuyện lịch sử” của   Nxb Giáo dục để  kể  chuyện về  anh hùng Nguyễn Viết Xuân nhằm khắc họa   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1