intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường THPT

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:38

43
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giải pháp "Tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường THPT" để nhằm trao đổi với đồng nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên để giải quyết một vấn đề lịch sử cụ thể. Nhằm giúp giáo viên lịch sử có thể áp dụng vào giảng dạy môn lịch sử một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử trong chương trình lịch sử cấp THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường THPT

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu:      Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người không   chỉ  về  trí tuệ  mà còn cả  về  tư  tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây  dựng con người phát triển về "Đức ­ Trí ­ Thể ­ Mĩ" ở những mức độ khác nhau.  Nếu Văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ  ca để  càng yêu   quý hơn con người, dân tộc Việt Nam thì thông qua Lịch sử   ở  trường trung học  phổ  thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ  bản, cần thiết   về  lịch sử  dân tộc và lịch sử  thế giới, góp phần hình thành ở  học sinh thế  giới quan  khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách  mạng, bồi dưỡng các năng lực tư  duy, hành động và thái độ   ứng xử  đúng đắn  trong cuộc sống xã hội. Bởi “ Bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử  có những yếu tố nghệ thuật”.        Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ,  nhưng hiện nay,  việc dạy và học lịch sử  trong nhà trường phổ  thông hiện còn  những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện   nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử  đối với học sinh   và một thực tế  đáng  buồn là học sinh không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp   thu kiến thức một cách hời hợt,  rời rạc, nông cạn về  kiến thức lịch sử, không  nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về  kiến thức liên môn… Vì đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá  nhiều sự kiện khô khan, Lịch sử  là một môn học nghiên cứu về  quá khứ  mà quá   khứ  là cái đã qua không thể  thay đổi nên chỉ  học cho qua chứ  không có gì vận  dụng vào thực tế. 
  2.    Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ  bản không phải do bản  thân môn Lịch sử  mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa  đáp  ứng được 2 yêu cầu môn học đề  ra. Giáo viên dạy Lịch sử  chưa phát huy  được thế  mạnh của bộ  môn, chưa chỉ  ra cho các em nhận thức được đây là bộ  môn khoa học, cần phải só sự  học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa  thực hiện được không khí của lịch sử  trong giờ học nên để  học sinh rơi vào tình  trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí  học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề.      Dạy học theo theo chủ đề  tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng  trong dạy học học nói chung và dạy học lịch sử  nói riêng. Đây được coi là một  quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời  nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học lịch sử nhận   thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên   hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn  rời rạc trong kiến thức.    Dạy học liên môn trong môn lịch sử  là hình thức liên kết những kiến thức với  môn lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Tin học, Giáo dục công dân......để học sinh tiếp   thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử  vào cuộc sống và ngược lại từ  cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử.      Từ  những lí do trên, tôi chọn giải pháp "Tích hợp kiến thức liên môn nhằm  nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử   ở  trường TH PT" để  nhằm trao đổi với  đồng nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên để  giải quyết một vấn đề  lịch   sử cụ thể. Nhằm giúp giáo viên lịch sử có thể áp dụng vào giảng dạy môn lịch sử  một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ  môn lịch sử  trong   chương trình lịch sử cấp THPT. 2. Tên sáng kiến: "Tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy  học Lịch sử ở trường THPT"
  3. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Nguyễn Thị Tuấn ­ Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Viết Xuân ­ Số điện thoại: 0354337379 ­ Email: Nguyenthituan.gvnguyenvietxuan@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến ­ Nguyễn Thị Tuấn, giáo viên Lịch sử Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh  Tường – Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nghiên cứu phương pháp tích hợp kiến thức liên  môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học 2017 ­   2018 7. Mô tả về bản chất của sáng kiến  7.1. Về nội dung của sáng kiến    ­ Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói   chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện   đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo   dục.     ­ Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn  học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là  con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ  với nhau “Từ  những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong  việc xây dựng chương 3 trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết   hệ  thống, nó chỉ  trạng thái liên kết các phần tử  riêng rẽ  thành cái toàn thể, cũng  như quá trình dẫn đến trạng thái này”       Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng   dạy trong các trường phổ  thông. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới,  giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy  
  4. việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó  khăn lúng túng      Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết   về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người.  Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử  trong nhà trường phổ  thông   hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử  rất khô khan với   nhiều sự  kiện lịch sử  nặng về  chiến tranh cách mạng, ít đề  cập về  lịch sử  văn  hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng  thú học sử  đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm   được mối quan hệ  hữu cơ  giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về  kiến thức liên môn. Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện t ại và  tương lai đặt cho giáo viên lịch sử  nhiệm vụ: Làm thế  nào nâng cao chất lượng   dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học lịch sử cho học sinh. Để hoàn thành  nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy lịch sử không chỉ có kiến thức vững vàng về  bộ môn lịch sử mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn địa lý,   văn học, nghệ thuật, khoa học…để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú   và hấp dẫn thêm bài giảng.      Trong chương trình phổ thông, giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp  trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng hứng thú cho học sinh.    Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong   việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức   trong sách giáo khoa thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết để thu   hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ  của dân tộc, của thế  giới. Để  tạo  nên những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức  liên  môn vào giảng dạy lịch sử  là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài giảng trở  nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh. 
  5.     Lịch Sử, Ngữ  văn, Địa lí, GDCD... có liên hệ  với nhau, kiến thức môn này sẽ  hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ  đó  học sinh có thể  nhận thức một cách rõ ràng, như  khi học tác phẩm Tắt Đèn của  Ngô Tất Tố, học sinh sẽ hiểu về những thuế, những sưu  dịch mà nhân dân phải  gánh chịu, hiểu được những chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, đặc  biệt hiểu và thông cảm sâu sắc cho tình cảnh người nông dân Việt Nam, làm việc   cực nhọc “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng vẫn không đủ  sống, mà ta  nghĩ là bằng ngôn từ của mình giáo viên khó có thể khắc họa hết những tủi nhục,   những đắng cay mà người dân phải gánh chịu trong thời kỳ pháp thuộc. Và cũng  khó tìm thấy một ngôn từ nào để diễn tả cho hết sức mạnh như vũ bão của quân   ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược hơn những lời thơ  của   Nguyễn Trãi:                  Đánh một trận sạch không kình ngạc,                  Đánh hai trận tan tác chim muông                  Cơn gió to trút sạch lá khô                 Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ                                           (Bình Ngô đại cáo­ Nguyễn Trãi)      Cũng bằng phương pháp trên ta áp dụng khi dạy về "Cuộc kháng chiến chống  Tống thời Lý" (bài 19 ­ lịch sử 10)     Năm 1077, 30 vạn quân Tống tràn sang nước ta đã bị  đánh tan trên trận tuyến   sông như Nguyệt. Học đến đây giáo viên tích hợp kiến thức môn Địa lý, sử dụng  bản đồ để học sinh hình dung được địa hình và vị trí của sông Như Nguyệt (Bắc  Ninh). 
  6. Ngoài ra, giáo viên có thể  sử  dụng thêm thơ  ca  bài “Thơ  thần”  mà  Lý Thường  Kiệt cho người đọc bên đền Trương Hống, Trương Hát với tư cách là nghệ thuật   chiến tranh tâm lí của Lý Thường Kiệt:            “Sông núi nước Nam vua Nam ở              Rành rành định phận ở sách trời              Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm            Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”     Bài thơ  như  một lời hiệu triệu, nức lòng toàn quân, toàn dân, khiến cho tinh   thần, ý chí quyết tâm của quân dân ta ngày càng tăng. Đồng thời cũng là lời cảnh  cáo đanh thép với kẻ  thù về  những hành động sai trái của chúng, khiến kẻ  thù   khiếp vía.   Hoặc khi dạy phần "Phong trào đấu tranh chống quân xâm lược Minh và khởi  nghĩa Lam Sơn" (bài 19 ­ lịch sử  10). Khi giảng diễn biến trận Chi Lăng –Xương  Giang, giáo viên có thể  trích dẫn các câu thơ  trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của  Nguyễn Trãi:          “… Ngày 18 trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
  7.          Ngày 20 trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu           Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong          Ngày 28 Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn          … Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước…         Bị ta chặn ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vở mật…” Giặc rơi vào thế cùng quẫn, HS có thể vận dụng kiến thức môn GDCD để nói về  việc nghĩa quân đã "thể  đức hiếu sinh" cấp ngựa, thuyền cho chúng về  nước  thông qua câu thơ:           Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,           Lấy chí nhân để thay cường bạo... Những câu thơ đã thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo của quân ta “mở đường hiếu  sinh”  cho giặc. Việc làm đó vừa khiến cho giặc nể phục, coi trọng ta mà cũng  không dám sang xâm lược nước ta nữa. Mùa xuân năm 1428, khởi nghĩa thắng lợi,  Nguyễn Trãi viết “Cáo bình Ngô” khẳng định:           “Xã tắc từ đây bền vững             Giang sơn từ đây đổi mới”   Trong trận Ngọc Hồi ­ Đống Đa (bài 23 ­ lịch sử 10 ­ cơ bản), giáo viên tích hợp  môn Địa lý để trình bày về diễn biến
  8.    Lược đồ trận Ngọc Hồi ­ Đống Đa Đồng thời tích hợp kiến thức môn Ngữ văn để nói về hình ảnh người anh hùng áo  vải Tây Sơn với ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ nền độc lập dân tộc           “Đánh cho để dài tóc            Đánh cho để đen răng            Đánh cho nó chích luân bất phẩn             Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn             Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”    Bên cạnh đó phần nào cũng vạch rõ bộ mặt phản dân bất tài của bè lũ Lê Chiêu   Thống….Với thắng lợi lẫy lừng đó không thể  không nhắc đến công lao to lớn   của Quang Trung ­ Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải mà chính vợ ông là công   chúa Ngọc Hân đã ghi lại sự nghiệp của chồng mình như sau :           “Mà nay áo vải cờ đào            Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình”   Khi dạy bài 19:“Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ   năm 1858 đến trước năm 1873) (Lịch sử lớp 11­ cơ bản) về tình hình Việt Nam  giữa thế  kỷ  XIX, trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là nước độc lập  có chủ 
  9. quyền,  kinh tế  có những bước phát triển nhưng đã bộc lộ  những suy yếu.....Ở  phần này giáo viên có thể sử dụng một số câu ca dao, tục ngữ, một số câu thơ để  làm nổi bật sự khủng hoảng của chế độ phong kiến dưới triều Nguyễn  vào giữa  thế kỉ XIX như: “Vạn niên là Vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu dân”       Hay câu ca dao: “Con ơi mẹ bảo con này cướp đem là giặc, cướp ngày là quan” Hay những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Công Trứ: “Thế thái nhân tình gớm chết thay Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”… Hay những câu thơ: “ Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo Giữa trời vách đá cheo leo Ai mà chịu rét thì trèo với thông”  Khi giảng về  hành động của Pháp sau khi bị  thất thủ   ở  Đà Nẵng, Pháp tấn   công vào Nam Kỳ  thì học sinh có thể  vận dụng kiến thức Địa Lí để  trả  lời câu  hỏi Vì sao thực dân Pháp sau khi thất thủ ở Đà Nẵng lại tấn công Nam kỳ?   và để  hiểu rõ hơn tâm trạng hốt hoảng, hoang mang khi triều đình đã không chủ  động  đánh giặc khi thực dân Pháp tấn công của người dân  giáo viên có thể sử dụng bài  thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu. Khi nhận xét về  thái độ  chống Pháp của triều đình và của nhân dân ta,  giáo  viên  có   thể   sử   dụng   những   câu   thơ   trong   bài   thơ: “Văn   tế   Nghĩa   sĩ   Cần   Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Cũng qua bài thơ này cho  học sinh hiểu rõ được  tương quan so sánh lực lượng giữa ta và Pháp (từ quân số, sự thiện chiến, vũ khí  trang bị…).
  10. Dạy phần "Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945" (lịch sử  lớp 12), giáo viên  có thể  nhấn mạnh khí thế  bừng bừng như  thác đổ  của cuộc khởi nghĩa đang lan   rộng khắp các địa phương trong toàn quốc bằng đoạn trích:     “ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy      Nước non ơi hết thảy vùng lên       Bắc, Trung, Nam khắp ba miền      Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…”  Học sinh sẽ chú ý lắng nghe, khi được gọi nhận xét, các em có khả năng nhận   xét được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mình  đang học bằng hình ảnh miêu tả của bài thơ. Đồng thời còn giúp các em đánh giá   đúng vai trò của quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử  ­ Là động  lực chính đưa cách mạng đến thành công.  Hay khi dạy bài 20 “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp xâm   lược kết thúc” (Lịch sử  12), giáo viên dùng kiến thức môn Địa lý để xác định cho  học sinh thấy vị trí địa lý của Điện Biên Phủ  là một thung lũng rộng lớn nằm  ở  phía tây rừng núi Tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị  trí then chốt  ở  Đông   Dương và Đông Nam Á sau đó trình bày diễn biến trên bản đồ. Sau khi khái quát  về kết quả của chiến dịch  Điện Biên phủ, giáo viên có thể trích dẫn mấy câu thơ  của Tố Hữu như sau:           “… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt          Máu trộn bùn non          Gan không núng, chí không mòn…”.  Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm  hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta thấy  rằng các em rất xúc động về  những hình  ảnh mà mình thu nhận được. Điều này  có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của 
  11. các thế hệ đi trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương  đất nước trong nhận thức của các em.  Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên phủ” giáo viên trích câu thơ:           “Chín năm làm một Điện Biên            Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”  Khi dạy bài 9: "Vương quốc Campuchia và vương Lào" (lịch sử  lớp 10 ­ cơ  bản), giáo viên tích hợp môn Kiến trúc bằng cách cho học sinh xem các hình ảnh:  Đền Ăng­co­vát (Căm pu chia), tháp Thạt Luổng (Lào)... để  học sinh thấy được  trình độ  kiến trúc của con người thời phong kiến. Qua đó thấy được lịch sử  phát  triển của các triều đại phong kiến thời đó. Hoặc khi dạy bài 20:  "Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ  X ­ XV" (lịch sử  lớp 10 ­ cơ  bản), giáo viên có thể  tích hợp kiến thức môn Mĩ  thuật, kiến trúc, điêu khắc như  cho học sinh xem hình  ảnh chùa Một Cột, tháp   chùa Phổ Minh (Nam Định), lan can đá chạm rồng tại thềm điện Kính Thiên (Hà   Nội)....để  học sinh thấy được nghệ  thuật kiến trúc, điêu khắc của Đại Việt từ  thế kỉ X ­ XV.
  12. Chùa Một cột Đôi rồng đá thềm trước Điện Kính Thiên
  13. Bài 36:  "sự  hình thành và phát triển của phong trào công nhân" (lịch sử  lớp 10­ cơ bản): giáo viên tích hợp môn GDCD bằng cách cho học sinh xem bức  ảnh “ Lao động trẻ  em trong hầm mỏ  ở Anh”. Giáo viên đưa ra câu hỏi cho học  sinh thảo luận: Vì sao giới chủ lại thích sử dụng lao động trẻ em? Liên hệ với trẻ  em ngày nay, công ước về quyền trẻ em… Từ đó thấy được tính ưu việt của chế  độ  ta. Đồng thời liên hệ  ngay  ở  địa phương: Một số  trẻ  em chưa đến tuổi lao  động cũng đã bỏ học đi làm và bị bóc lột sức lao động mà không biết. Hay trong bài 22:  “ Xã hội Việt Nam trong cuộc  khai thác thuộc địa lần  thứ  nhất của thực dân Pháp" (lịch sử  lớp 11­ cơ  bản), giáo viên cho học sinh  xem các bức tranh “Nông dân, công nhân Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc” Từ  đó học sinh thấy rõ chính sách khai thác, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp đối  với nước ta.  Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về Văn học, như phải hiểu hoàn cảnh  tác phẩm đó ra đời như  thế nào mới hiểu hết được dụng ý nghệ  thuật cũng như  nội dung sâu sa mà tác giả  muốn gửi đến người đọc là gì. Ngược lại Văn học,   Địa lý, GDCD, kiến trúc, Mĩ thuật... làm cho các sự  kiện, các kiến thức của lịch   sử dễ dàng thấm vào tiềm thức của con người. Nói về sự hỗ trợ của Lịch sử đối  với các môn học khác, G. Elton đã nói “Nhà sử học cũng có thể dạy cho các khoa  học khác rất nhiều điều. Anh ta có thể giúp các khoa học này hiểu thế giới quan   của nhiều phương án xây dựng sơ  đồ, vạch rõ những mối quan hệ  tương hỗ  mà  một chuyên môn hẹp khó nhận thấy, giúp các khoa học xã hội hiểu rằng đối  tượng mà chúng có quan hệ  là những con người. Trong khi tiếp nhận các khoa  học khác tính chính xác và tầm rộng của sự  khái quát, đồng thời Lịch Sử  có thể  hoàn thành nghĩa vụ của mình bằng cách xây dựng một thái độ nghiêm túc đối với  các tài liệu và tránh những khái quát không có cơ sở vững chắc”.  ­  Minh họa thiết kế giáo án tích hợp kiến thức liên môn vào một bài cụ thể
  14. TIẾT 26 ­ BÀI 20 XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CÁC THẾ KỈ X – XV (Lịch sử 10 ­  chương trình cơ bản) I. Mục đích yêu cầu 1. Về kiến thức Giúp người học hiểu và nắm được những kiến thức cơ bản về nguồn gốc,   thành tựu và đặc điểm của văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV ­ Gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta không ngừng  nỗ  lực xây dựng một nền văn hóa dân tộc đặc sắc.  Ở  các thế  kỉ  X – XV, công  cuộc xây dựng văn hóa diễn ra đều đặn, nhất quán. ­ Tích hợp kiến thức  về Nho giáo, Phật giáo, môn văn học, môn mĩ thuật để giúp  học sinh  hiểu sâu sắc về những thành tự  văn  hóa mà nhân dân ta sáng tạo trong   các thế  kỉ  X – XV là sự  kế  thừa và phát triển nền văn hóa Việt Cổ  thời Hùng  Vương dựng nước (văn minh sông Hồng) đồng thời có sự  giao thoa với các nền   văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, tạo ra một nền văn hóa đa dạng. ­ Thông qua tích hợp kiến thức văn học, mĩ thuật, âm nhạc, kiến trúc, khoa học  quân sự  cùng những kiến thức thực tiễn, lịch sử  địa phương để  giúp học sinh  hiểu được đặc điểm của văn hóa Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mang đậm   tư tưởng yêu nước, tự hào và độc lập dân tộc. 2. Về tư tưởng tình cảm Qua tích hợp kiến thức về  tôn giáo (Nho giáo, Phật giáo) văn học, nghệ  thuật, khoa học quân sự…giúp học sinh khắc sâu lòng yêu nước, bồi dưỡng niềm   tự hào về văn hóa dân tộc . Từ đó nâng cao  ý thức trân trọng, bảo tồn và phát huy  sáng tạo các giá trị văn hóa – lịch sử của quê hương, đất nước. 3. Về kĩ năng:
  15. ­ Rèn luyện kĩ năng quan sát, tư duy, phát hiện những nét đẹp trong văn hóa. II. Thiết bị  và tư liệu dạy học ­ Tranh ảnh minh họa có liên quan đến bài học: Phật Tổ, Khổng Tử, Lão Tử, các  chùa tiêu biểu  ở  nước ta từ  thế  kỉ X – XV (chùa Dâu, chùa Phật tích, chùa Keo,  chùa Một Cột…), chân dung Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi… ­  Thơ  văn:  bài  Nam  Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), trích  đoạn trong “Hịch  Tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Bình Ngô Đại Cáo” (Nguyễn Trãi)... ­ Tư liệu về Nho giáo, Phật giáo, chùa Một Cột, tháp Bình Sơn, súng thần cơ… ­ Phiếu học tập và phiếu kiểm tra đánh giá cuối giờ học. III. Tiến trình tổ chức giờ dạy – học 1. Ổn định lớp 10 D2 2. Dẫn dắt vào bài mới Các em thân mến! Nhà thơ  Nguyễn Khoa Điềm đã viết về  đất nước một   cách thật bình dị mà sâu sắc: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi Đất nước có trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn….” Đất nước có từ  ngày xửa ngày xưa, đất nước là hình hài của quá trình lao   động, chiến đấu không ngừng của bao thế  hệ  cha ông. Quá trình  ấy đã kết tụ  thành những giá trị  văn hóa bản địa vững chắc, khẳng định sự  trường tồn của   quốc gia dân tộc.  Bài học hôm nay sẽ  cho chúng ta hiểu sâu hơn về  sự  hình thành và phát  triển của văn hóa dân tộc từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. 3. Hoạt động dạy và học Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung kiến thức cơ bản Hoạt động 1­  hoạt động nhóm: I. Tư tưởng, tôn giáo ­ Giáo viên:  chia lớp học thành 03 nhóm học 
  16. tập, giao nhiệm vụ cho từng nhóm.  Nhóm 1:  tìm hiểu về  sự  phát triển của Phật  giáo ở nước ta thời Lý, Trần. Nhóm 2: Tìm hiểu sự phát triển của Nho giáo  ở nước ta từ  thế kỉ X – XV. Nhóm 3: Tìm hiểu sự phát triển của Đạo giáo  ở nước ta từ thế kỉ X – XV. ­  Các nhóm: thảo luận và cử  đại diện trình  bày phần nhiệm vụ được giao. ­ Giáo viên: bổ sung, chốt kiến thức: + Về Phật giáo: 1. Phật giáo Giáo viên sử  dụng các hình  ảnh minh họa:   Chùa   Diên   Hựu,   chùa   Phổ   Minh,   Tháp   Báo  Thiên, tượng Phật Bà Quan Âm, chân dung sư  Vạn Hạnh, sư Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu. Giáo   viên   nhấn   mạnh   sự   phát   triển   của   Phật giáo ở nước ta thời Lý, Trần. Phật giáo được du nhập vào nước ta từ  rất  sớm, nhanh chóng được tiếp nhận rộng rãi  ở  nước ta trong những thế  kỉ  đầu công nguyên  và đóng vị trí quan trọng thời Lý – Trần. Thời Lý,  cả  vua quan và dân đều sùng phật,  ­   Thời   Lý:   cả   vua   quan   và   dân  sử cũ viết:  đều sùng bái đạo Phật, nhiều nhà  “Lý Thái Tổ  lên ngôi mới được 2   sư   đóng   góp   tích   cực   vào   sự  năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa   nghiệp xây dựng đất nước. lập   mà   trước   đã   dựng   8   chùa   ở   phủ   Thiên Đức….cấp độ  điệp cho hơn 1000  
  17. người ở kinh sư làm tăng” (Đại Việt sử kí toàn thư) Các vua Lý đã nối tiếp nhau dựng chùa,  đúc  chuông,   tô   tượng,  in   kinh  phật.  Thời  kì  này, các sư  tăng và tín đồ  Phật giáo phát triển  cả  về  số  lượng lẫn chất lượng. Theo nhà sử  học Lê Văn Hưu, đời Lý, nhân dân ta có quá  một nửa làm sư sãi, nơi nào có người ở nơi đó  có chùa. Nhiều nhà sư  tham gia tích cực vào  sự nghiệp dựng nước và giữ nước như nhà sư  Ngô Chân Lưu, sư Đỗ Thuận, sư Vạn Hạnh… Thời Trần: Vua Trần Nhân Tông khi lên làm  ­   Thời   Trần,   xuất   hiện   phái  Thái Thượng Hoàng đã xuất gia đầu Phật và  Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Chùa  lập ra phái Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Trong  trở  thành trung tâm vă hóa  ở  các  nhiều   năm,   các   kì   thi   tam   giáo   vẫn   ngự   trị  làng, xã. trong thi cử, sĩ tử  đi thi phải thông hiểu cả  ba  giáo lí Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo.  Ở  các  làng, chùa là trung trâm, vừa là nơi dạy chữ,   vừa là nơi tổ chức hội hè. Có thể  nói, Phật giáo tác động sâu sắc tới tư  tưởng, tâm lí, phong tục và nếp sống của nhân  dân,   có   ảnh   hưởng   lớn   đến   kiến   trúc,   điêu  khắc và nghệ thuật nước ta trong các thế kỉ X  – XIV.  Hoạt động 2 – cá nhân:  ­ Hỏi: Tại sao Phật giáo phát triển mạnh mẽ   ở nước ta thời Lý – Trần?
  18. Giáo viên chốt đáp án (trên cơ  sở  tích   hợp kiến thức về  nội dung giáo lý Phật giáo   để nhấn mạnh khả năng hòa nhập, bắt rễ sâu   rộng   của   đạo   Phật   trong   nhân   dân):     Phật  giáo vào nước ta theo con đường truyền bá tự  nhiên, giáo lý Phật giáo đề cao tư tưởng từ bi,   hỉ, xả, phù hợp với đặc điểm tâm lí, lối sống  của  người   Việt   nên  nhanh   chóng   được   tiếp  thu; Thời Lý – Trần, trong chặng đường đầu  xây   dựng   nhà   nước   độc   lập,   tính   quân   chủ  chuyên chế  chưa sâu sắc, nhà nước tạo điều  2. Nho giáo kiện cho Phật giáo phát triển mạnh + Về Nho giáo Giáo   viên   tích   hợp   kiến   thức   về   Nho   ­ Thời kì đầu còn xa lạ  với nhân  giáo   để   nhấn   mạnh:  Nho   giáo   vào   nước   ta  dân theo   con   đường   quan   phương   cùng   với   sự  thống trị  và nô dịch của các triều đại phong  kiến phương Bắc. Vì vậy, cho đến đầu thời kì  quốc gia phong kiến độc lập, nó mới chỉ dừng  ­  Từng   bước   được   giai   cấp  lại ở một bộ phận giai cấp thống trị, còn xa lạ  phong   kiến   nâng   cao,   trở   thành  với nhân dân. nội dung chi phối giáo dục, khoa  Cùng   với   bước   đường   xây   dựng   nhà  cử,   đến   thế   kỉ   XV,   nho   giáo  nước   quân   chủ   chuyên   chế   trung   ương   tập  chiếm vị trí độc tôn. quyền, hệ tư tưởng Nho giáo từng bước được  giai cấp phong kiến nâng cao, được đặt thành  những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ vua –  ­ Khi du nhập vào nước ta, nho  tôi, cha – con, chồng – vợ, trong đó người trên  giáo   ít   nhiều   bị   điều   chỉnh   phù 
  19. (vua, cha, chồng) phải thương yêu, chăm sóc  hợp   với   văn   hóa   bản   địa   của  và bao dung người dưới, còn người dưới (tôi,  người Việt. con, vợ) phải thương yêu, kính trọng và phục  tùng người trên. Nho giáo là nội dung chi phối   giáo dục, thi cử. Từ  cuối thế  kỉ  XIII đến đâu  thế   kỉ   XIV,   Nho   giáo   phát   triển   mạnh,   đến  thời Lê Sơ, nhà nước hạn chế Phật giáo, Nho  giáo chiếm vị  trí độc tôn. Sự  phát triển của  giáo dục Nho học cũng góp phần củng cố  vị  trí của Nho giáo. Tuy   nhiên,   Nho   giáo   khi   du   nhập   vào  Việt Nam cũng ít nhiều bị điều chỉnh phù hợp   với văn hóa bản địa, tín ngưỡng, tâm lí của  người Việt. 3. Đạo giáo Hoạt động 3 – cá nhân: ­   Hỏi:   Tại   sao   đến   thời   Lê   Sơ,   Nho   giáo  chiếm địa vị độc tôn? ­  Hòa   lẫn   vào   tín   ngưỡng   dân  ­ Học sinh trả lời gian ­  Giáo viên chốt  đáp án, trên cơ  sở  tích hợp   kiến thức về  nội dung giáo lý Nho giáo, nhấn  mạnh   vai   trò   của   Nho   giáo:   Tư   tưởng   Nho   giáo   góp   phần   duy   trì   tôn   ti   trật   tự   xã   hội,  củng cố  chế  độ  quân chủ  chuyên chế, được  giai cấp phong kiến nâng lên vị  trí  độc tôn.  Giáo dục Nho học phát triển góp phần củng  cố vị trí của Nho giáo. + Về Đạo giáo:
  20. Giáo viên sử  dụng hình  ảnh minh họa:  ảnh  tượng Đạo Sĩ Yên Kì Sinh.        Đạo  giáo được truyền bá vào nước ta từ  rất sớm cùng với Nho giáo và Phật giáo. Đạo  sĩ Yên Kì Sinh sang nước ta đặt lò luyện linh  đan ở Yên Tử (Đông Triều Quảng Ninh). Đạo  4. Tín ngưỡng: giáo  ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân và  ­  Tín ngưỡng truyền thống tiếp  hòa   lẫn   với   tín   ngưỡng   dân   gian. Đạo   giáo   tục phát triển. phù thủy rất tương  đồng với tín ngưỡng ma   thuật nên sự hòa trộn xảy ra rất mãnh liệt. Hoạt động 4 – cá nhân: ­ Hỏi: Tại sao Đạo giáo du nhập vào nước ta   lại hòa lẫn với tín ngưỡng dân gian ­ Học sinh trả lời: ­ Giáo viên chốt đáp án: trên cơ  sở  tích hợp  kiến  thức  giáo  lý   Đạo  giáo  để   nhấn  mạnh:  Đạo giáo tương đồng với tín ngưỡng ma thuật  nên khi du nhập vào Việt Nam đã hòa lẫn vào  tín ngưỡng dân gian. Hoạt động 5 – Giáo viên thuyết trình về tín  ngưỡng Tín ngưỡng:  Giáo viên thuyết trình Những tín ngưỡng từ  thời Việt Cổ như: thờ cúng tổ  tiên, thờ  người   có công với làng với nước, thờ  thần, thờ  các  hiện vật tiêu biểu cho nguồn gốc dân tộc tiếp  tục phát triển và ngày càng phổ  biến.   Giáo 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2