Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015<br />
<br />
SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA TÁN SỎI NGOÀI CƠ THỂ VÀ NỘI SOI TÁN<br />
SỎI NGƯỢC CHIỀU BẰNG LASER TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN<br />
ĐOẠN LƯNG<br />
Nguyễn Lê Hoàng Anh*, Nhữ Thị Hoa**, Trà Anh Duy***, Nguyễn Ngọc Thái***, Nguyễn Tiến Đệ***,<br />
Nguyễn Tuấn Vinh***<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Sỏi niệu quản (NQ) là bệnh phổ biến ở Việt Nam. Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị sỏi<br />
NQ bao gồm không xâm hại và mổ mở lấy sỏi. Trong đó, tán sỏi ngoài cơ thể (TSNCT) và nội soi tán sỏi ngược<br />
chiều (NSTSNC) là ít xâm hại nhất. Một vài nghiên cứu cắt ngang trên thế giới ghi nhận hiệu quả điều trị của<br />
hai phác đồ này tương đương nhau, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ thành công được thống kê từ những nghiên cứu<br />
riêng lẻ từng phương pháp có vẻ khác biệt. So sánh hiệu quả của hai phương pháp này trong cùng một khảo sát<br />
cho phép bác sĩ lâm sàng lựa chọn phác đồ tối ưu trong điều trị sỏi NQ đoạn lưng tại Việt Nam.<br />
Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích tỷ lệ sạch sỏi theo hai phương pháp, NSTSNC và TSNCT trên các trường<br />
hợp sỏi NQ đoạn lưng đường kính 5 – 20 mm điều trị tại bệnh viện Bình Dân từ 11/2011 đến 02/2013.<br />
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Cắt ngang phân tích 307 đối tượng, trong đó 160 bệnh nhân được<br />
điều trị sỏi NQ đoạn lưng bằng TSNCT (3 lần) và 147 trường hợp được NSTSNC bằng tại bệnh viện Bình Dân<br />
từ 11/2011 đến 02/2013. Thăm khám, phỏng vấn trực tiếp và ghi nhận kết quả xét nghiệm từ hồ sơ bệnh án để<br />
thu thập các thông tin lâm sàng, cận lâm sàng theo bảng câu hỏi cấu trúc. Tần số, tỉ lệ, số trung bình được đo<br />
lường và phân tích bằng kiểm định χ2, kiểm soát các yếu tố tương tác, gây nhiễu bằng phân tích hồi quy logistic<br />
trong xác định mối liên quan giữa biến phụ thuộc và độc lập.<br />
Kết quả: Tỷ lệ sạch sỏi của TSNCT sau tán lần 1, 2 và 3 lần lượt là 61,2%, 85,6% và 91,3% với bước nhảy<br />
giảm dần (24,4% so với 5,7%) Tỷ lệ sạch sỏi của NSTSNC là 84,4%. Gánh nặng sỏi tỷ lệ nghịch với tỷ lệ thành<br />
công của TSNCT (p = 0,001) nhưng không ảnh hưởng đến NSTSNC (p = 0,4). Phân tích hồi qui đa biến cho thấy<br />
tỷ lệ sạch sỏi sau 1 lần TSNCT kém hơn NSTSNC 0,27 lần (KTC 95% = [0,14 – 0,51], trở nên tương đương sau<br />
tán lần 2 (RR = 1,26 [0,62 – 2,57]; p>0,5) và cao gấp 2,22 lần NSTSNC (KTC 95% = [1,02 – 4,84]) nếu TSNCT<br />
lần 3.<br />
Kết luận: Hiệu quả TSNCT tăng dần theo số lần tán và sau 3 lần tán, tỷ lệ sạch sỏi cao hơn NSTSNC.<br />
Không nên tán quá 3 lần. Các yếu tố: gánh nặng sỏi >76 mm2 (>10 mm), NQ bị tắc nghẽn (trên UIV) và vị trí sỏi<br />
trên L3 sẽ làm giảm hiệu quả sạch sỏi của TSNCT và NSTSNC.<br />
Từ khóa: Tán sỏi ngoài cơ thể, nội soi tán sỏi ngược chiều, sỏi niệu quản đoạn lưng, gánh nặng sỏi, độ ứ<br />
nước thận.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
COMPARING OF THE EFFECT OF EXTRACORPOREAL SHOCK WAVE LITHOTRIPSY (ESWL)<br />
AND URETERORENOSCOPY BY LASER (URS) IN PROXIMAL URETERAL STONE TREATMENT<br />
Nguyen Le Hoang Anh, Nhu Thi Hoa, Tra Anh Duy, Nguyen Ngoc Thai, Nguyen Tien De,<br />
Nguyen Tuan Vinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 124 - 130<br />
Introduction: Ureteral stone is a popular problem in Vietnam. Nowadays, there are a lot of methods to treat<br />
* Bộ môn Giải Phẫu học, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TP HCM *** Khoa Niệu bệnh viện Bình Dân<br />
** Bộ môn Ký Sinh Trùng – Vi nấm học, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TP HCM<br />
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Lê Hoàng Anh<br />
ĐT: 0907439328<br />
Email: hoanganh250684@yahoo.com<br />
<br />
124<br />
<br />
Chuyên Đề Thận – Niệu<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ureteral stone, including non-invasive techniques and surgical ones. ESWL and URS are the least invasive<br />
procedures, were proven to have the same effect. However, according to the separate studies of each method in Viet<br />
Nam, there seems to be differences. The comparative research into their effectiveness will allow the physician to<br />
choose the best method to treat proximal ureteral stone in Vietnam<br />
Objective: Analyze the success proportion of the two methods, URS and ESWL, among patients having<br />
proximal ureteral stone with diameter of 5-20 mm at Binh Dan hospital from 11/2011 to 02/2013.<br />
Method and subjects: A cross-sectional-study was conducted among patients hospitalizing from 11/2011 to<br />
02/2013 because of proximal ureteral stone (5-20 mm), in which, 160 patients treated by ESWL and 147 patients<br />
by URS. Data were collected via physical check, interview and from medical records. Frequency, proportion, mean<br />
were measured. Using χ2test, logistic regression for analysing results.<br />
Results: The sucess proportions of ESWL after the first, second and third trial are 61.2%, 85.6% and 91.3%,<br />
respectively,. The clearance of URS is 84.4%. The higher stone burden, the lower the clearance of ESWL (p<<br />
0.001), but not related to URS (p0.5) but on<br />
the third trial, 2.22 times more than of URS (KTC = 95% = [1.02 – 4.84]).<br />
Conclusion: The effect of ESWL is directly proportional to number of trials but not exceeds 3 times. After 3<br />
trials, stone clearance of ESWL is higher than that if URS. Stone burden >76 mm2 (>10 m), ureteral blockage<br />
(above UIV) and stone location above L3 will decrease the clearance of both ESWL and URS.<br />
Key words: Extracorporeal shock wave lithotripsy, ureterorenoscopy, proximal ureteral stone, stone burden,<br />
hydronephrosis.<br />
trường hợp sạch sỏi, tương đương với TSNCT(11).<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ngoài ra, kỹ thuật này cho phép quan sát đến<br />
Sỏi đường tiết niệu là một bệnh phổ biến ở<br />
đài bể thận, giúp chẩn đoán các bệnh lý khác ở<br />
Việt Nam cũng như trên thế giới. Sỏi NQ thường<br />
đường tiết niệu trên. Với những ưu điểm vừa<br />
được hình thành tại thận, sau đó di chuyển<br />
nêu, TSNCT và NSTSNC nhanh chóng chiếm ưu<br />
xuống niệu quản và có thể bị kẹt lại ở một trong<br />
thế trong xử trí sỏi NQ nói chung và sỏi NQ<br />
ba vị trí hẹp tự nhiên của NQ.<br />
đoạn lưng nói riêng, trên thế giới cũng như ở<br />
Hiện nay, nhiều phương pháp được áp dụng<br />
Việt Nam. Thật vậy, 86,1% trường hợp sỏi NQ<br />
để giải quyết sỏi NQ như: điều trị nội khoa,<br />
đoạn lưng kích thước từ 5 – 20 mm được điều trị<br />
TSNCT, NSTSNC, lấy sỏi qua da, mổ mở lấy sỏi.<br />
thành công bằng TSNCT (sau 3 lần tán) trong<br />
TSNCT đã làm cuộc cách mạng trong điều trị sỏi<br />
đánh giá của T.A. Duy(10). Ng. V. Trí Dũng đã ghi<br />
tiết niệu và đã trở thành lựa chọn đầu tiên trong<br />
nhận hiệu quả sạch sỏi của NSTSNC bằng laser<br />
điều trị sỏi NQ đoạn lưng có đường kính < 10<br />
là 94,6% đối với sỏi NQ đoạn lưng đường kính <<br />
mm, với tỷ lệ sạch sỏi khá cao, 93%(9,11). So với<br />
20 mm(7). Dường như hiệu quả của 2 phương<br />
NSTSNC, tuy không xâm hại nhưng TSNCT đòi<br />
pháp này có khác biệt. Phải chăng TSNCT đạt<br />
hỏi thời gian chờ sỏi di chuyển xuống sau tán và<br />
được tỷ lệ sạch sỏi thấp hơn NSTSNC trong điều<br />
đôi khi phải tán nhiều lần trong trường hợp sỏi<br />
trị sỏi NQ đoạn lưng ở Việt Nam? Vì vậy, nghiên<br />
to. NSTSNC, mặc dù xâm hại nhưng ngày càng<br />
cứu cắt ngang phân tích được thực hiện để đánh<br />
được hoàn thiện bởi các máy nội soi NQ thế hệ<br />
giá hiệu quả của hai phương pháp tán sỏi nêu<br />
mới và phương tiện tán sỏi ngày càng tiên tiến<br />
trên đối với sỏi NQ đoạn lưng kích thước từ 5 –<br />
hơn như siêu âm, laser. Nhờ đó, việc tiếp cận và<br />
20 mm, trước khi một thử nghiệm lâm sàng<br />
tán sỏi NQ đoạn lưng dễ dàng hơn với 82%<br />
(RCT) được tiến hành để khẳng định vấn đề.<br />
<br />
Chuyên Đề Thận – Niệu<br />
<br />
125<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU<br />
Cắt ngang phân tích 307 đối tượng, trong đó<br />
160 bệnh nhân được điều trị sỏi NQ đoạn lưng<br />
bằng TSNCT và 147 trường hợp được NSTSNC<br />
tại bệnh viện Bình Dân từ 11/2011 đến 02/2013.<br />
TSNCT được thực hiện 3 lần cách nhau một<br />
tháng. Thăm khám, phỏng vấn trực tiếp dựa trên<br />
bảng câu hỏi cấu trúc. Các kết quả sinh hóa,<br />
KUB, UIV được ghi nhận từ hồ sơ bệnh án. Tần<br />
số, tỉ lệ, số trung bình được đo lường và phân<br />
tích bằng kiểm định χ2, kiểm soát các yếu tố<br />
tương tác, gây nhiễu bằng phân tích hồi quy<br />
logistic trong xác định mối liên quan giữa các<br />
biến phụ thuộc và độc lập.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
<br />
Nam<br />
TPHCM<br />
LĐ trí óc<br />
Có<br />
Có<br />
Có<br />
<br />
TSNCT n (%) NSTSNC n (%)<br />
Tuổi<br />
143 (89,4)<br />
121 (82,3)<br />
Giới tính<br />
109 (68,1)<br />
73 (49,7)<br />
Khu vực<br />
73 (45,6)<br />
31 (21,1)<br />
Nghề<br />
37 (23,1)<br />
21 (14,3)<br />
Tiền căn mổ sỏi<br />
20 (12,5)<br />
33 (22,5)<br />
Tiền căn tiểu sỏi<br />
33 (20,6)<br />
31 (21,1)<br />
Điều trị nội<br />
89 (55,6)<br />
94 (63,9)<br />
<br />
> 10 mm<br />
> 10 mm<br />
<br />
>1<br />
Trên L3<br />
<br />
p<br />
<br />
Sần sùi<br />
<br />
0,07<br />
<br />
Mạnh<br />
<br />
0,001<br />
6 tuần trước khi nhập viện tương đương giữa 2<br />
nhóm phác đồ điều trị.<br />
<br />
> 77,6mm<br />
<br />
So sánh đặc điểm của 2 nhóm TSNCT và<br />
NSTSNC<br />
<br />
21 – 59<br />
<br />
TSNCT n (%) NSTSNC n (%)<br />
Thời gian từ khi đau cho đến lúc điều trị<br />
> 6 tuần<br />
38 (23,8)<br />
48 (32,7)<br />
<br />
TSNCT n (%) NSTSNC n (%)<br />
p<br />
Chiều ngang sỏi<br />
20 (12,5)<br />
8 (5,4)<br />
0,03<br />
Chiều dài sỏi<br />
102 (63,8)<br />
110 (74,8)<br />
0,03<br />
Gánh nặng sỏi<br />
65 (56,0)<br />
51 (44,0)<br />
0,28<br />
Số lượng sỏi<br />
6 (3,8)<br />
17 (11,6)<br />
0,009<br />
Vị trí sỏi so với cột sống<br />
104 (65)<br />
57 (38,8)<br />
< 0,001<br />
Bề mặt sỏi<br />
59 (36,9)<br />
52 (35,4)<br />
0,8<br />
Độ cản quang sỏi<br />
52 (32,5)<br />
22 (14,9)<br />
0,001<br />
<br />
Có sự khác biệt thống kê giữa 2 nhóm<br />
phương pháp tán sỏi đối với kích thước, số<br />
lượng, vị trí theo cột sống và độ cản quang của<br />
sỏi (p < 0,05). Chưa phát hiện sự phân bố chênh<br />
lệch giữa 2 nhóm về các đặc tính khác liên quan<br />
đến sỏi.<br />
<br />
Hiệu quả tán sỏi của từng phương pháp<br />
<br />
0,92<br />
0,14<br />
<br />
Giới tính, khu vực sống và tiền căn tiểu sỏi<br />
phân bố không đều giữa 2 nhóm phác đồ<br />
TSNCT và NSTSNC (p < 0,05).<br />
Bảng 2. Sự phân bố đặc điểm lâm sàng và cận lâm<br />
sàng giữa 2 nhóm TSNCT và NSTSNC.<br />
TSNCT n (%) NSTSNC n (%)<br />
p<br />
Tắc nghẽn NQ<br />
Tắc hoàn toàn<br />
45 (28,1)<br />
73 (49,7)<br />
độ 1<br />
81 (50,6)<br />
110 (74,8)<br />
77,6 mm<br />
Sỏi từ L3 trở lên<br />
<br />
0,36 [0,16 – 0,80]<br />
1,30 [0,55 – 3,10]<br />
0,45 [0,21 – 0,92]<br />
0,42 [0,19 – 0,90]<br />
<br />
0,01<br />
0,57<br />
0,03<br />
0,03<br />
<br />
Sau khi kiểm soát các biến số khác, tỷ lệ sạch<br />
sỏi ở những trường hợp TSNCT cao hơn 2,22 lần<br />
so với nhóm NSTSNC.<br />
Bảng 7. Biến chứng trong các phương pháp tán sỏi<br />
Biểu đồ 2. Tỷ lệ sạch sỏi sau NSTSNC<br />
NSTSNC giải quyết tốt 84,4% trường hợp sỏi<br />
NQ đoạn lưng.<br />
Bảng 4. Phân tích đa biến mối liên quan giữa tỷ lệ<br />
sạch sỏi và 2 phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể (sau 1<br />
lần tán) và nội soi tán sỏi ngược chiều.<br />
Biến số<br />
Phương pháp TSNCT<br />
Tắc nghẽn NQ /UIV<br />
2<br />
Gánh nặng sỏi > 77,6 mm<br />
Thận ứ nước<br />
Sỏi từ L3 trở lên<br />
<br />
Phân tích đa biến<br />
RR (KTC 95%)<br />
p value<br />
0,27 [0,14 – 0,51]<br />
< 0,001<br />
0,49 [0,26 – 0,93]<br />
0,03<br />
0,22 [0,12 – 0,40]<br />
< 0,001<br />
0,88 [0,46 – 1,70]<br />
0,71<br />
0,41 [0,22 – 0,74]<br />
0,004<br />
<br />
Ở nhóm tắc nghẽn NQ hoàn toàn trên UIV,<br />
gánh nặng sỏi > 77,6 mm2 và vị trí sỏi từ L3 trở<br />
lên, tỷ lệ thành công của TSNCT chỉ bằng 0,27<br />
lần so với NSTSNC.<br />
Bảng 5. Phân tích đa biến mối liên quan giữa tỷ lệ<br />
sạch sỏi và 2 phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể (sau 2<br />
lần tán) và nội soi tán sỏi ngược chiều.<br />
Biến số<br />
Phương pháp TSNCT<br />
Tắc nghẽn NQ /UIV<br />
Thận ứ nước<br />
2<br />
Gánh nặng sỏi >77,6mm<br />
Sỏi từ L3 trở lên<br />
<br />
Phân tích đa biến<br />
RR (KTC 95%)<br />
p<br />
1,26 [0,62 – 2,57]<br />
0,52<br />
0,35 [0,17 – 0,72] 0,004<br />
1,13 [0,50 – 2,52]<br />
0,50<br />
0,34 [0,17 – 0,69] 0,003<br />
0,36 [0,17 – 0,74] 0,005<br />
<br />
Phân tích đa biến phát hiện những đối tượng<br />
tắc nghẽn NQ hoàn toàn trên UIV, gánh nặng sỏi<br />
> 77,6 mm2, vị trí sỏi L3 trở lên có tỷ lệ sạch sỏi<br />
như nhau giữa NSTSNC và sau 2 lần TSNCT (p =<br />
0,52).<br />
Bảng 6. Phân tích đa biến mối liên quan giữa tỷ lệ<br />
sạch sỏi và 2 phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể (sau 3<br />
lần tán) và nội soi tán sỏi ngược chiều.<br />
Biến số<br />
Phương pháp TSNCT<br />
<br />
Phân tích đa biến<br />
RR (KTC 95%)<br />
p<br />
2,22 [1,02 – 4,84]<br />
0,04<br />
<br />
Chuyên Đề Thận – Niệu<br />
<br />
TSNCT<br />
NSTSNC<br />
<br />
Đau quặn<br />
thận n (%)<br />
9 (5,6)<br />
<br />
Tắc NQ do sỏi Nhiễm trùng<br />
vụn n (%)<br />
huyết n (%)<br />
17 (10,6)<br />
4 (2,7)<br />
<br />
Biến chứng trong TSNCT là đau quặn thận<br />
chiếm 5,6% và tắc NQ do sỏi vụn chiếm 10,6%;<br />
trong NSTSNC có 4/147 trường hợp nhiễm trùng<br />
huyết.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
So sánh đặc điểm của hai nhóm đối tượng<br />
TSNCT và NSTSNC<br />
Phân tích đặc điểm giữa 2 nhóm đối tượng<br />
TSNCT và NSTSNC, các bảng 1, 2 và 3 mô tả sự<br />
bất đồng giữa 2 nhóm đối với một số các biến về<br />
dân số, tiền căn, lâm sàng và các đặc tính của sỏi.<br />
Đây là hạn chế tất yếu của một thiết kế cắt ngang<br />
nhưng không hoàn toàn vượt quá tầm kiểm soát!<br />
Công cụ hồi qui logistic sẽ giúp điều chỉnh<br />
những sai biệt này.<br />
<br />
Hiệu quả sạch sỏi của phương pháp<br />
TSNCT<br />
Đối với TSNCT, biểu đồ 1 mô tả tỷ lệ sạch sỏi<br />
cộng dồn sau mỗi lần tán. Kết quả sau lần 1, lần 2<br />
và lần 3 lần lượt là 61,2% - 85,6% - 91,3%, tăng<br />
dần theo số lần tán nhưng khoảng gia tăng tỷ lệ<br />
sạch sỏi, hay “bước nhảy”, giữa 2 lần tán giảm<br />
dần (24,4% so với 5,7%). Đặc điểm này cũng<br />
được thể hiện trong khảo sát của T.A. Duy:<br />
65,8% - 81,3% - 86,1% với bước nhảy là 15,5% và<br />
4,8%(10); Lee & cs.: 36,5% - 65,4% - 84,6% với bước<br />
nhảy 28,9% và 19,2%(5)… Tuy nhiên, số liệu lần 1<br />
và lần 2 của Lee thấp hơn nhiều vì tác giả đánh<br />
giá chỉ sau 1 tuần kể từ lúc thực hiện TSNCT,<br />
trong khi nghiên cứu hiện tại và T.A. Duy đánh<br />
giá sau 1 tháng, thời gian đủ để mảnh sỏi vỡ di<br />
chuyển xuống và được bài xuất ra ngoài. Fong&<br />
<br />
127<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
cs. cũng cùng nhận định với 50% và 78% đối<br />
tượng được tán thành công sau 1 và 3 tháng(1).<br />
Như vậy, khi so sánh hiệu quả của các phương<br />
pháp tán sỏi, cần lưu tâm đến thời điểm đánh<br />
giá, và thời điểm nào là thích hợp để quyết định<br />
chuyển sang phác đồ khác?<br />
Mặc dù, kết luận sạch sỏi vào tháng thứ 3 sau<br />
tán có vẻ chính xác hơn, giúp quyết định hướng<br />
xử trí tiếp theo, nhằm giải quyết sỏi NQ đến mức<br />
cao nhất, nhưng kéo dài sự tồn đọng sỏi vụn<br />
trong NQ sẽ có khả năng tiến triển xấu hơn do<br />
bế tắc, như: dãn nở NQ phía trên sỏi, dãn đài bể<br />
thận gây thận ứ nước, ứ mủ, dần dần phá hủy<br />
nhu mô thận, nhanh chóng đưa đến suy thận.<br />
Theo y văn, sỏi niệu quản được giải quyết trước<br />
7 ngày sẽ hạn chế tối đa sự hủy hoại chức năng<br />
thận; nếu NQ tắc nghẽn hoàn toàn do sỏi và<br />
không được xử trí sớm, sự mất chức năng thận<br />
không xảy ra trước 2 tuần, nhưng có thể mất<br />
hoàn toàn vào tuần thứ 6(12). Một nghiên cứu tiến<br />
hành trên 134 bệnh nhân sỏi NQ một bên đã ghi<br />
nhận tình trạng mất chức năng thận không hồi<br />
phục trên 1/3 bệnh nhân bị tắc nghẽn kéo dài<br />
hơn 4 tuần(3). Ngược lại, nếu việc kiểm tra sạch<br />
sỏi được thực hiện sau tán một tuần, e rằng quá<br />
vội và chỉ định can thiệp tiếp theo sẽ thiếu chính<br />
xác, thậm chí lãng phí.<br />
Một khía cạnh khác cần được quan tâm khi<br />
xem xét hiệu quả của TSNCT đó là “bước nhảy”.<br />
Do các bước nhảy có khuynh hướng đi xuống,<br />
những lần TSNCT tiếp theo liệu có đạt được yêu<br />
cầu chi phí – hiệu quả? Càng tán, sỏi càng vỡ, và,<br />
một khi sỏi không thể vỡ hơn qua TSNCT, chắc<br />
hẳn phải tồn tại lý do khác. Có thể sỏi quá cứng,<br />
không còn đáp ứng với TSNCT. Khi đó, chuyển<br />
phác đồ khác là hợp lý.<br />
Với những lý do trên, số lần TSNCT nên<br />
dừng ở bước thứ 3 hoặc thứ 4. Và thời gian đánh<br />
giá hiệu quả sạch sỏi là sau một tháng, như nhận<br />
định của nhiều tác giả(1,10).<br />
<br />
Hiệu quả sạch sỏi của phương pháp<br />
NSTSNC<br />
Phân tích hiệu quả NSTSNC, biểu đồ 2 cho<br />
<br />
128<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015<br />
thấy tỷ lệ sạch sỏi là 84,4% tương đương 82,4%<br />
của Lee trên 156 trường hợp NSTSNC(5). Nhìn<br />
chung, kết quả này không phải là thấp, vì theo<br />
Hội Niệu Hoa Kỳ, tỷ lệ sạch sỏi khi tán sỏi NQ<br />
đoạn trên với ống soi cứng sẽ thay đổi từ 77%<br />
(đối với sỏi ≤ 10 mm) đến 81% (đối với sỏi > 10<br />
mm)(8). N.H. Đức công bố 92,5% trường hợp sạch<br />
sỏi sau NSTSNC, có vẻ cao hơn mô tả trên biểu<br />
đồ 2, nhưng mẫu khảo sát của N.H. Đức chỉ bao<br />
gồm 40 trường hợp NSTSNC sỏi NQ đoạn lưng,<br />
nhiều khả năng mẫu chưa đủ lớn để bộc lộ bản<br />
chất thật sự của dân số chọn mẫu(6). Khả năng<br />
thành công của NSTSNC cũng phụ thuộc vào<br />
phương tiện tán. Với một ống soi mềm và nhỏ<br />
hơn, kết hợp với holmium laser đã đưa tỷ lệ<br />
thành công trong điều trị sỏi NQ lên đến 97% đối<br />
với trường hợp sỏi lớn(2). Trong khi máy tán bằng<br />
xung hơi có thể bắn sỏi ngược lên thận trong quá<br />
trình tán. Khảo sát của Lee cho thấy kết quả rất<br />
khả quan đối với sỏi < 10 mm (93,8%), nhưng chỉ<br />
55% ở nhóm ≥ 10 mm(5) vì hầu hết (82%) mẫu<br />
đánh giá của Lee được NSTSNC bằng xung hơi<br />
nên khó tránh khỏi hiện tượng sỏi bị đẩy ngược<br />
lên thận, làm tăng số trường hợp thất bại.<br />
Nhìn chung, thời đại hiện nay là thời đại<br />
của TSNCT và NSTSNC. Tuy hiệu quả kém<br />
hơn kỹ thuật mổ mở, lần lượt là 83% và 72% so<br />
với 97%(13) nhưng đặc điểm không hoặc ít xâm<br />
hại, không đòi hỏi gây mê, khắc phục được<br />
thời gian nằm viện lâu và triệu chứng đau hậu<br />
phẫu(9), các kỹ thuật tán sỏi dần dần vượt qua<br />
phẫu thuật lấy sỏi.<br />
<br />
Phân tích tỷ lệ sạch sỏi theo 2 phương pháp<br />
tán sỏi<br />
Sau khi đánh giá khả năng tương tác gây<br />
nhiễu của các biến số phân bố không đồng đều<br />
giữa 2 nhóm phác đồ, các yếu tố tắc nghẽn NQ<br />
trên UIV, gánh nặng sỏi, vị trí sỏi so với cột sống<br />
và độ ứ nước thận là những thuộc tính có khả<br />
năng tác động ít nhiều đến hiệu quả của các phác<br />
đồ tán sỏi. Vì thế các biến số này sẽ được đưa<br />
vào phân tích hồi qui đa biến để có thể phản ánh<br />
rõ nét hơn mối liên quan giữa sạch sỏi và<br />
phương pháp tán sỏi. Các bảng 4, 5 và 6 cho thấy<br />
<br />
Chuyên Đề Thận – Niệu<br />
<br />