Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore
lượt xem 35
download
Singapore là một ví dụ thành công nổi bật về phát triển. Chỉ riêng dữ kiện GNP bình quân đầu người đã tăng từ 921 USD vào lúc giành độc lập năm 1965 lên 23.285 USD năm 2000 là một bằng chứng hùng hồn cho điều này.2 Càng đáng ấn tượng hơn là Singapore đạt được thành công này trong lúc phải đối mặt với những trở ngại to lớn. Thành công này được mang lại bởi các thiết chế có đủ năng lực và kỷ cương để hoàn thành chức năng của mình và thúc đẩy tăng trưởng cùng với chất lượng cuộc sống...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Nieân khoaù 2005-2006 Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Trường Quản trị công John F. Kenedy Đại học Harvard Loạt bài nghiên cứu của đội ngũ giảng viên Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore John W. Thomas và Lim Siong Guan Tháng 8, 2001 RWPO2-010 Bài này có thể lấy xuống miễn phí từ trang web của Thư viện điện tử của Mạng lưới Nghiên cứu Khoa học Xã hội: http://ssrn.com/abstract_id=310862 Những quan điểm trình bày trong loạt bài nghiên cứu của đội ngũ giảng viên KSG là thuộc về tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Quản trị công John F. Kenedy hay Đại học Harvard. Tất cả những bài được đăng đều thuộc quyền sở hữu và được đăng ký bản quyền bởi tác giả. Có thể lấy xuống từ mạng các bài nghiên cứu này nếu chỉ dùng riêng cho mục đích cá nhân. Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 1
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Của John W. Thomas và Lim Siong Guan1 Singapore là một ví dụ thành công nổi bật về phát triển. Chỉ riêng dữ kiện GNP bình quân đầu người đã tăng từ 921 USD vào lúc giành độc lập năm 1965 lên 23.285 USD năm 2000 là một bằng chứng hùng hồn cho điều này.2 Càng đáng ấn tượng hơn là Singapore đạt được thành công này trong lúc phải đối mặt với những trở ngại to lớn. Thành công này được mang lại bởi các thiết chế có đủ năng lực và kỷ cương để hoàn thành chức năng của mình và thúc đẩy tăng trưởng cùng với chất lượng cuộc sống cao, và sự ra đời của các chính sách tạo năng lực, điều kiện để thành công diễn ra nhanh như thế. Trong tác phẩm kinh điển gồm ba bảng Asian Drama của mình, Gunnar Myrdal phân biệt rõ giữa nhà nước “cứng” và nhà nước “mềm”. Các nhà nước cứng có năng lực để đạt được phát triển bởi vì họ có thể đưa ra các quyết định chính sách cần thiết và thực thi chúng, áp đặt ngay cả những nghĩa vụ ít ai ủng hộ lên công dân của mình, trong khi các nhà nước mềm không thể làm điều đó.3 Theo kinh điển, Singapore là một nhà nước cứng. Nó được sinh ra từ khủng hoảng. Nó là một thuộc địa của Anh đã trở thành một bộ phận của nước Malaysia độc lập vào năm 1959 nhưng vào tháng 8 năm 1965 nó bị cắt ra khỏi Malaysia và bị ép buộc, trước sự chống đối của Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore và nhóm lãnh đạo chính trị cao nhất của ông, phải trở thành một nhà nước độc lập. Năm 1965, khi Singapore tách ra khỏi Malaysia, các triển vọng để Singapore tồn tại trông rất mong manh. Nó có rất ít đất và chẳng có tài nguyên thiên nhiên gì; các nước láng giềng lại có thái độ quá sức thù địch, và nó phụ thuộc nặng nề vào trợ cấp từ Anh Quốc để đổi lại việc cho phép Anh Quốc duy trì căn cứ quân sự chính của mình tại châu Á. Ngoài ra, nó còn có một cơ cấu dân số có tiềm năng nổ tung gồm người Hoa, người Mã và người Ấn. Tài sản duy nhất của nó là một ví trí chiến lược và giới lãnh đạo mạnh mẽ, thực dụng. Các lãnh đạo Singapore nhanh chóng đi đến kết luận rằng, để tồn tại, quốc gia của họ phải cứng rắn hơn, kỷ luật hơn, và có đầu óc thực dụng hơn những quốc gia khác. Nếp tư duy này đã thấm sâu vào quan điểm của giới lãnh đạo nước này từ năm 1965 cho đến ngày hôm nay. 1 John W. Thomas là Giảng viên ngành Chính sách Công tại Trường Quản trị công John F. Kenedy, Đại học Harvard, và Lim Siong Guan là Bí thư Thường trực về Tài chính và Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ của Chính phủ Singapore. Bài này được viết cho dự án Tầm nhìn Quản trị quốc gia vào thế kỷ 21 của Trường Quản trị công John F. Kenedy. 2 Cục Thống kê Singapore, trang web. 3 Myrdal, Gunnar, Kịch bản Á châu: Đào sâu vào Nghèo đói của các quốc gia, Bảng 1, 2, 3. New York, 1968, Vị thần cho Twentieth Century Fund. Ngược lại, ở các nhà nước mềm “các chính sách đã được quyết định lại thường không được thực thi, dù chúng đã được ban hành …. Các chính phủ nặng tính quốc gia dân tộc hơn đòi hỏi …. ít nghĩa vụ dù đó là phải làm những điều vì lợi ích của cộng đồng hoặc dù đó là tránh các hành động chống lại lợi ích đó”. Bảng 1 trang 66, Bảng 2 trang 895 đến 896. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 2
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Năm 1965, Lý Quang Diệu đã có tầm nhìn rõ ràng về các triển vọng của Singapore và phải làm gì để tồn tại: “Tôi đúc kết rằng một ‘nước đảo quốc đô thị nhỏ’ ở Đông Nam Á không thể được phép là ‘bình thường’ nếu nó muốn tồn tại. Chúng ta phải nỗ lực ‘phi thường’ để trở thành một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, mạnh mẽ và thích nghi tốt, có thể làm nhiều việc tốt hơn và với giá rẻ hơn các nước láng giềng của chúng ta, bởi vì họ muốn bỏ qua chúng ta và biến thành lỗi thời vai trò của chúng ta như cảng trung chuyển và bước trung gian cho thương mại của vùng này. Chúng ta phải khác biệt”.4 Trong những năm gần đây một xu thế phổ biến là chuyển đổi từ mô hình chính phủ xã hội chủ nghĩa mơ hồ với nhà nước là trung tâm sang mô hình chấp nhận rằng các chính phủ phải khuyến khích doanh nghiệp/công ty tư nhân theo mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cho dù dễ nhận thấy nhất ở những quốc gia đang phát triển, nó cũng là một xu thế có thể cảm nhận được ở Bắc Mỹ và châu Âu. Nó là một sự dịch chuyển đã mang lại nhiều thay đổi, trong đó có hai điều đặc biệt quan trọng. Thứ nhất, các quốc gia chịu sự cạnh tranh quốc tế ngày càng cao, điều này có nghĩa là các chính phủ và các nền kinh tế đất nước phải trở thành hiệu quả hơn rất nhiều để cạnh tranh một cách hữu hiệu; và thứ hai, sự tăng trưởng nhanh chóng trong khu vực tư nhân đã đẩy một cách tất yếu doanh nghiệp tư nhân vào các hoạt động mà theo truyền thống được xem là thuộc lĩnh vực của chính phủ. Vậy mà, rất lâu trước khi có các thay đổi của những năm gần đây, Singapore đã nhận biết rằng nó phải trở thành hiệu quả và đủ sức cạnh tranh quốc tế để có thể tồn tại. Một bộ phận của chiến lược này là sử dụng các cơ chế thị trường để làm cho chính phủ trở nên hiệu quả hơn, và để mở cửa nền kinh tế cho cạnh tranh toàn cầu. Đối với nhiều quốc gia, sự thâm nhập của thị trường vào những khu vực trước đây được xem là lãnh địa của chính phủ đã bị xem là xói mòn năng lực và ảnh hưởng của chính phủ. Tuy thế, Singapore đã nhận biết tiềm năng của các thị trường có thể nâng cao qui trình quản trị quốc gia và đã khai thác một cách có chọn lọc các cơ chế thị trường như những công cụ của chính phủ trong một khoản thời gian. Rất hiếm có những quốc gia ở đó thị trường được sử dụng một cách rộng rãi như thế trong việc quản trị những chức năng công truyền thống; và không một quốc gia nào đã từng suy nghĩ chín chắn hơn (là Singapore) trong tiếp cận của mình đối với vấn đề này, có tính chọn lọc hơn về phương cách sử dụng thị trường vào quản trị quốc gia, hay cẩn trọng hơn trong việc đánh giá tác dụng của các thị trường và tác động của chúng lên chất lượng của quản trị quốc gia. Bài này xem xét kinh nghiệm của Singapore trong việc sử dụng các cơ chế dựa trên thị trường để đẩy mạnh các mục tiêu của mình. Nhìn từ góc độ của Singapore bài này xem xét chín (9) tình huống trong đó chính phủ đã sử dụng các cơ chế thị trường để cải thiện việc quản trị quốc gia. Những tình huống này tạo ra cơ hội để người các nước khác có thể xem xét và học hỏi từ kinh nghiệm của Singapore. II. BỐI CẢNH: THỊ TRƯỜNG và CHÍNH PHỦ 4 Lee Kuan Yew, Tiến từ Thế giới Thứ ba lên Thứ nhất: Câu chuyện Singapore: 1965-2000, Singapore 2000, NXB Times Media Pte. Ltd. trang 24. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 3
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Trong công cuộc đeo đuổi mục tiêu trở thành có sức cạnh tranh quốc tế cao, bảo đảm tăng trưởng kinh tế và duy trì chất lượng cuộc sống cao, chính phủ Singapore sử dụng mọi công cụ có sẵn. Thành công của mình đã được khẳng định bởi Báo cáo Sức cạnh tranh Toàn cầu 2000, cho thấy rằng trong mục “Xếp hạng Tăng trưởng, Cạnh tranh” Singapore xếp hàng thứ nhất toàn cầu năm 1999 và hàng thứ hai năm 2000.5 Một phần, sức cạnh tranh của Singapore đã tiến triển bởi vì nước này đã không chờ mãi đến thập niên 1980 hay 1990 mới sử dụng các cơ chế thị trường, thời đại mà tư nhân hóa và thị trường trở thành mốt thời thượng như giải pháp cho những vấn đề quản trị quốc gia. Ngược lại, Singapore đã đưa thị trường vào trong việc quản trị quốc gia của mình ngay từ hồi những năm 1960, khi mà ý tưởng này rõ ràng là chưa được mấy ai ưa chuộng. Điều then chốt tuyệt đối để hiểu được thành công của Singapore trong việc áp dụng các hệ thống thị trường vào các vấn đề công chính là vai trò trung tâm của nhà nước trong việc đánh giá, kiểm soát, và điều tiết thị trường. Việc sử dụng thị trường của Singapore mang dấu ấn của chính phủ kiểm soát và giám sát mạnh mẽ. Các sáng kiến của tư nhân không thay thế cho chính phủ một cách bất ngờ hoặc bừa bãi – tư nhân hóa chỉ diễn ra vào thời điểm và khu vực mà Chính phủ đã tin chắc rằng khu vực tư nhân có thể làm việc đó tốt hơn. Chính phủ sẽ thử nghiệm và xác định khu vực nào các thị trường có thể hoàn thành chức năng với các mục tiêu xã hội. Chính phủ áp dụng cùng những tiêu chuẩn ngặt nghèo để thử nghiệm và đánh giá thành quả của thị trường cũng như đối với các chính sách của chính phủ. Thông thường, điều này có nghĩa là cả một qui trình thử nghiệm các phương án khác nhau và thực hiện các điều chỉnh, như đã làm với định giá cầu đường điện tử. Cũng cần phải lưu ý rằng các công cụ thị trường thường được sử dụng kết hợp với sự tham gia và điều tiết của khu vực công như trong trường hợp chính sách giao thông vận tải. Chính phủ có thể sử dụng các cơ chế thị trường để cải thiện quản trị quốc gia theo nhiều phương cách. Singapore sử dụng khu vực tư nhân hay thị trường để đạt được bốn nhóm mục tiêu. 1. Để phân bổ các nguồn lực khan hiếm – đặc biệt là mặt bằng, một tài nguyên rất khan hiếm ở một đảo quốc nhỏ; 2. Để thực hiện một số chức năng và dịch vụ thiết yếu mà khu vực tư nhân có thể làm tốt hơn khu vực công; 3. Để tạo ra trách nhiệm trong quần chúng bằng cách trao cho họ quyền làm chủ đối với quốc gia và sự thành công của nó; và 4. Để tạo ra các động cơ khuyến khích hành vi kinh tế và khuyến khích các công ty đa quốc gia đầu tư vào Singapore. Còn có các biến thể khác nhau trong mỗi nhóm mục tiêu trên. Người ta thừa nhận một cách rộng rãi rằng các hệ thống thị trường là hiệu quả hơn các hệ thống của chính phủ trong việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm. Thị trường, thông qua qui trình tối đa hóa lợi nhuận, nhìn chung tạo cho các chủ sở hữu nguồn lực và các hãng kinh doanh một động cơ khuyến khích mạnh mẽ để tiến hành các dự án tạo ra giá trị mới. Tính hiệu quả của cơ chế này, tuy 5 Diễn đàn Kinh tế Thế giới và Đại học Harvard, Báo cáo Sức cạnh tranh Toàn cầu 2000, New York, NXB Oxford University Press, 2000, trang 11, Bảng 1. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 4
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore thế, lại phụ thuộc vào thị trường cạnh tranh. Các thị trường không cạnh tranh thường thất bại trong việc phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả và chính phủ phải bước vào để sửa sai các hậu quả. Thất bại thị trường có nhiều hình thức. Một ví dụ điển hình là trường hợp có “ngoại tác”. Chính phủ muốn kiềm chế các ngoại tác tiêu cực như ô nhiễm và thúc đẩy các ngoại tác tích cực như giáo dục cơ sở bằng biện pháp điều tiết, đánh thuế hay trợ cấp, hoặc chính phủ trực tiếp cung cấp dịch vụ đó. Thị trường còn thất bại trong việc cung cấp các hàng hóa “công”. Các tính chất “không-tranh giành” và “không-loại trừ” của hàng hóa từ quốc phòng cho đến đèn đường (và hậu quả là không thể nào tính tiền vào người sử dụng) ngầm cho thấy rằng khu vực tư nhân sẽ thiếu động cơ khuyến khích để cung cấp các hàng hóa này. Dù chính phủ có tiềm năng để cải thiện tính hiệu quả kinh tế bằng cách sửa sai những thất bại thị trường này, chẳng có gì bảo đảm rằng xã hội sẽ thu lợi từ những hành động đó.6 Thất bại của chính phủ cũng có thể xảy ra do những lý do như: • “Hội chứng tiệc buffet”: Tiêu dùng quá mức các dịch vụ của chính phủ mà việc tài trợ lại có tính tập thể (thông qua thuế), do thiếu cơ chế hạch toán phí trên người sử dụng trực tiếp. • Tác động quyền lợi-đặc biệt: Vận động hành lang của các nhóm có quyền lợi riêng để thúc đẩy chi tiêu trong lĩnh vực chọn lọc, điều này làm cho việc phân bổ nguồn lực bị lệch khỏi các kết cục hiệu quả. • Thiếu dòng lãi/lỗ hay cơ chế chấm dứt: Sản lượng của chính phủ nhìn chung không được gắn liền với bất kỳ dòng kết toán lãi/lỗ nào để đánh giá thành quả. Hơn nữa, chẳng có cơ chế đáng tin cậy nào để chấm dứt các hoạt động của chính phủ khi chúng không thành công. Một khi chi tiêu công đã được cam kết cho một dòng hạn mục nào đó, thì rất khó để rút lại. Nói cho cùng, sự chọn lựa giữa thị trường và chính phủ là vấn đề phức tạp. Thông thường nó không có tính thuần khiết hay nhị phân, mà ngược lại đó là một vấn đề về mức độ và sự chú trọng.7 Lý do để chính phủ can thiệp biến đổi khác nhau tùy theo tình hình, phụ thuộc vào hoàn cảnh và nhóm hành động liên quan. Để hiểu đầy đủ hơn kinh nghiệm của Singapore chúng ta cần xem xét cụ thể những phương cách mà Singapore đã thực sự sử dụng các hệ thống thị trường để bảo đảm quản trị quốc gia tốt hơn, chúng ta sẽ làm điều này trong phần IV. 6 Lời nhận xét cách đây một thế kỷ của nhà kinh tế học người Anh Henry Sidgwick vẫn còn phù hợp với ngày hôm nay: “Không nhất thiết rằng khi nào thị trường tự do không đáp ứng được thì sự can thiệp của chính phủ là có lợi; vì những hạn chế tất yếu của chính phủ lại có thể, trong những trường hợp cụ thể, còn tệ hại hơn các khiếm khuyết của doanh nghiệp tư nhân”. 7 Charles Wolf Jr., trong sách của ông “Thị trường hay Chính phủ” nêu lên tính chất của sự chọn lựa như ‘chọn lựa giữa các phương án không hoàn hảo’. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 5
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore III. CÁCH TIẾP CẬN CỦA SINGAPORE Nền tảng của quản trị quốc gia Kể từ những ngày đầu mới độc lập, Singapore đã phải vừa làm vừa học, luôn luôn tỉnh táo trước cơ hội cũng như trước các đe doạ, đồng thời sửa sai và điều chỉnh chính sách trên suốt đường đi. Kết quả là, nhu cầu phải cứng rắn, kỷ luật, và có đầu óc thực dụng đã thấm sâu vào nếp tư duy của lãnh đạo Singapore. Điều này đã biến thành những nguyền tắc cơ bản của quản trị quốc gia. Thứ nhất: nguyên tắc tự lực cánh sinh. Chẳng có ai mắc nợ Singapore về sự tồn tại của nó. Singapore phải tạo dựng cuộc sống bằng sự siêng năng và khéo léo của người dân nước mình. Thứ hai: một niềm tin vững chắc vào tầm quan trọng của “Phần thưởng cho công việc; Làm việc để giành phần thưởng”. Chính phủ ngăn chặn tham nhũng và bè phái và thúc đẩy chế độ nhân tài để khai thác tốt nhất tài năng của con người. Các phúc lợi xã hội rất thấp, và tiền trợ cấp của chính phủ được tập trung vào giáo dục, y tế và nhà ở chung cư, kèm những điều kiện ‘cùng-chi trả’ để ngăn chặn việc sử dụng quá mức. Thứ ba: kiểm tra đánh giá kết quả, chứ không dựa vào sự đồng tình của quần chúng. Không được phép quyết định chính sách bằng ý thức hệ hay giáo điều. Cuối cùng, áp dụng những phương pháp nào cho ra kết quả có hiệu quả cao nhất. Thị trường trong quản trị quốc gia Những nguyên tắc cơ bản ở trên nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân tích hợp lý và các nguyên lý kinh tế trong việc hoạch định chính sách. Ngay từ đầu, các nhà lãnh đạo Singapore đã nhận biết cả tính hiệu quả của hệ thống thị trường trong việc thưởng công cho nỗ lực, sáng kiến và kinh doanh, lẫn tiềm năng sử dụng các sức mạnh thị trường để cải thiện hoạt động chức năng của chính phủ. Qua thời gian, Singapore đã phát triển đến mức dựa vào thị trường như phương cách chủ yếu để phân bổ nguồn lực. Chính phủ chỉ can thiệp khi nào xảy ra thất bại thị trường, nghĩa là khi có các ngoại tác tích cực hay tiêu cực, hoặc thiếu sự canh tranh và người bán và/hoặc người mua thiếu thông tin. Tuy nhiên, hình thức can thiệp mà chính phủ sử dụng lại tuân theo các nguyên tắc và qui trình của thị trường như trong Sơ đồ 1. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 6
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Sơ đồ 1: Sử dụng các thị trường vào quản trị quốc gia ở Singapore Hành động của Chính phủ: Cơ chế dựa trên thị trường Cơ chế phi thị trường Thất bại Thị trường Tiếp cận theo cầu Tiếp cận theo cung Ngoại tác Hệ thống tính tiền người sử Chính phủ điều tiết: Chính phủ phân tích cực dụng: Người dân chỉ trả - Khuyến khích thị trường bổ: Tiền thu thuế tiền cho những dịch vụ họ cạnh tranh tài trợ cho các cơ Ngoại tác trực tiếp sử dụng - Phân bổ nguồn lực bằng quan chính phủ tiêu cực cơ chế thị trường nào cung cấp dịch vụ miễn phí Thiếu sự Cùng-chi trả; Cùng-đầu tư cạnh tranh Chính phủ trợ cấp cho công Nâng cao hiệu năng hoạt ty và cá nhân trên cơ sở động bằng thái độ kinh Thông tin cùng chi trả hoặc cùng đầu doanh và giải pháp quản không hoàn hảo tư trị Có thể chia việc sử dụng các cơ chế thị trường thành hai nhóm biện pháp chính: phía cầu và phía cung. Các nguyên tắc chính yếu làm nền tảng cho mỗi nhóm có thể được liệt kê như sau: Phía cầu: Liên quan đến cách Chính phủ tính tiền các dịch vụ. Các nguyên tắc chính yếu là: • Nếu có thể xác định người sử dụng, áp dụng nguyên tắc “người sử dụng trả tiền”, với giá được định theo cầu của người sử dụng. • Trong trường hợp có các ngoại tác tích cực đáng kể (ví dụ trong trường hợp hàng hóa công), Chính phủ sẽ bước vào để trợ cấp. • Chính phủ trợ cấp dựa trên cơ sở cùng-đầu tư/cùng-chi trả. Điều này tạo ra các động cơ thị trường đúng đắn, vì nó dựa trên nguyên tắc độ sẵn lòng chi trả, theo đó giá phù hợp sẽ phát tín hiệu để đạt sự phân bổ/phân phối hiệu quả. • Mức độ trợ cấp của chính phủ (và mức cùng-chi trả tương ứng) phụ thuộc vào mức độ thiết yếu của dịch vụ liên quan và mức độ của các ngoại tác đi kèm. Ví dụ, dịch vụ nhà ở, giáo dục và y tế nhận được lượng trợ cấp lớn nhất trong ngân sách của chính phủ. Phía cung: Liên quan đến cách Chính phủ cung cấp các dịch vụ công. Các nguyên tắc chính yếu là: • Việc cung cấp dịch vụ sẽ được giành cho khu vực tư nhân nếu có sẵn các giải pháp thị trường. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 7
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore • Nếu sẽ hiệu quả hơn để duy trì chỉ một ít nhà cung cấp dịch vụ tư nhân (do Singapore có qui mô nhỏ và bị giới hạn về đất đai và mặt bằng), chính phủ sẽ phân bổ thông qua các cơ chế thị trường (ví dụ, đấu thầu để giành giấy phép hoạt động). Điều này cho phép chính phủ thu lại khoản tô kinh tế (rent: tiền thuê = siêu lợi nhuận) và sau đó tái phân phối cho công chúng. Điều này được ưa chuộng hơn là các công ty độc quyền tư nhân, vì họ có thể khai thác tô kinh tế từ người tiêu dùng dưới hình thức tỷ lệ lãi cao. • Các thị trường nội bộ được lập ra bên trong khu vực chính phủ để đưa vào các sức mạnh thị trường và áp đặt kỷ cương cùng những động cơ khuyến khích lên người cung cấp và người tiêu dùng các dịch vụ nội bộ. • Thái độ kinh doanh và giải pháp quản trị được áp dụng để nâng cao hiệu năng hoạt động của các tổ chức công. Sơ đồ 2 trình bày dưới dạng sơ đồ các nguyên tắc trên, tóm lược phương cách chúng được áp dụng như một bộ phận của bộ khung hoạch định chính sách chung. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 8
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Sơ đồ 2: Áp dụng thực tế của các Nguyên tắc thị trường Có thất bại thị trường không? Khu vực tư nhân cung cấp dịch vụ KHÔNG CÓ CÓ Chính phủ can Phía cầu Phía cung thiệp Xác định Có thể mua ngoài Trung ương tài Chính phủ phân được từng từ các nhà cung trợ thông qua bổ thông qua cơ người sử cấp cạnh tranh thu thuế chế thị trường dụng không? không? Người sử dụng trả tiền; giá Cơ quan chính phủ tính theo cầu sử dụng và cung cấp dịch vụ khả năng chi trả Tính đủ chi Triển khai các thị Có ngoại tác phí, không trường nội bộ và áp không? dụng thái độ kinh trợ cấp doanh vào quản trị (ví dụ, tính tiền giữa các ban ngành, Chính phủ trợ cấp, EVA), lấy cầu làm trên cơ sở cùng- nguyên tắc hạch chi trả toán IV. CÁC VÍ DỤ CHÍNH SÁCH CỤ THỂ TỪ KINH NGHIỆM CỦA SINGAPORE Các nguyên tắc thị trường được kết hợp vào nhiều chính sách, chương trình và hoạt động của chính phủ. Một số ví dụ như bảo hiểm xã hội; nhà ở chung cư; y tế; giáo dục; tắc nghẽn giao John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 9
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore thông và sở hữu và sử dụng xe ôtô; thuế đối với lao động người nước ngoài; công nghệ của những công ty có liên kết với chính phủ và phát triển chuỗi xí nghiệp; và các thị trường bên trong các cơ quan chính phủ. Ta sẽ thấy rõ thêm vấn đề khi tìm hiểu những chính sách này đã được xây dựng như thế nào, và lưu ý việc sử dụng các nguyên tắc thị trường trong từng loại chính sách. Bảo hiểm xã hội - Quỹ Tiết kiệm Trung ương Quỹ Tiết kiệm Trung ương (CPF) là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tiết kiệm khi có thu nhập, dựa trên nguyên tắc tiết kiệm, tự lực và cá nhân tự chịu trách nhiệm. CPF được thành lập năm 1955 nhằm khuyến khích tiết kiệm để có thu nhập cơ bản khi nghỉ hưu. Đây là quỹ tiết kiệm bắt buộc đối với tất cả người lao động ăn lương của chính phủ và tư nhân, nhưng được phép tùy chọn đối với các cá nhân làm nghề tự do. Hiện nay CPF có 2,8 triệu thành viên, và chỉ có 40.000 người Singapore ở độ tuổi trưởng thành không có tài khoản CPF. Ý định ban đầu chỉ thuần túy là tiết kiệm cho nghỉ hưu, CPF từ đó đã tiến triển thành một chương trình tiết kiệm toàn diện giúp tài trợ cho thành viên CPF về y tế, nhà ở, giáo dục và các nhu cầu khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, tính chất quan trọng nhất của nó đã không thay đổi kể từ 1955. Suất sinh lợi trên số dư tài khoản CPF của các thành viên phản ánh lãi suất thị trường,8 và có mối liên kết trực tiếp giữa tiền đóng vào và lợi ích tích lũy, vì tất cả tiền đóng vào đều được ghi vào tài khoản riêng của cá nhân, không có tái phân phối giữa các thành viên, điều này ngăn chặn những ý nghĩ cho rằng tiền hưu trí là một hàng hóa cho không. Mọi người lao động ăn lương phải đóng góp 20% thu nhập của mình vào CPF, và người sử dụng lao động phải góp thêm một khoản tương đương.9 Chính phủ không đóng góp gì cho CPF ngoài tiền phải đóng với vai trò là người sử dụng lao động trong khu vực công, và các ưu đãi về thuế – với CPF tiền đóng góp, tiền tích lũy và tiền rút ra đều được miễn thuế. Mặc dù tỷ lệ đóng góp CPF tổng cộng cho thấy một khoản chênh lệch lớn giữa chi phí lao động và tiền lương người lao động mang về nhà, nó vẫn được thực hiện thành công với sự bóp méo rất nhỏ đối với thị trường lao động do được chấp nhận rộng rãi bởi người sử dụng lao động và người lao động ăn lương. Ngoài ra, tính linh hoạt của thị trường lao động được bảo đảm bằng các biện pháp khác như áp dụng lương trọn gói khả biến và thành lập Hội đồng Tiền lương Quốc gia vào năm 1973 – một cơ quan gồm ba bên để củng cố những mối quan hệ giữa chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động (giới chủ) và đưa ra các chỉ đạo về điều chỉnh tiền lương hàng năm. Ngoài việc tạo ra một cơ chế để khuyến khích tiết kiệm cho nghỉ hưu, thiết kế của CPF còn bảo đảm rằng các nhu cầu cơ bản như nhà ở, y tế và giáo dục được đáp ứng. Các thành viên được tự do rút tiền tiết kiệm CPF của mình cho mục đích mua nhà, đầu tư tài 8 Lãi suất trên tài khoản của thành viên được tính dựa trên trung bình với trọng số 20% là lãi suất tiết kiệm và 80% là lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của ngân hàng thương mại. 9 Phần đóng góp CPF từ người sử dụng lao động đã được cắt giảm còn 10% vào tháng 01 năm 1999 để đáp ứng với sự trì trệ kinh tế trong giai đoạn 1997-1999, nhưng đã được phục hồi một phần lên 12% vào tháng 4 năm 2000 và sau đó lên 16% vào tháng 01 năm 2001. Nó sẽ được phục hồi hoàn toàn về mức 20% khi nền kinh tế phục hồi. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 10
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore chính, chửa bệnh, và học đại học hay cao hơn.10 Quyền đầu tư đã được tự do hóa đến mức theo đó nếu các thành viên tin họ có thể, bằng nỗ lực của riêng mình, thu được suất sinh lợi cao hơn cho số dư của mình trong CPF thì hiện nay được phép đầu tư rộng rãi vào nhiều loại sản phẩm tài chính được quản lý một cách chuyên nghiệp, kể cả tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, những loại hợp đồng bảo hiểm được phê duyệt, tài khoản trong các quỹ tín thác và quỹ quản lý vốn đầu tư. Tóm lại, ngoài những qui định cụ thể của nhà nước, CPF thực chất là một quỹ hưu trí tự lực cánh sinh. Để duy trì mục tiêu dài hạn hơn là bảo đảm an toàn về tài chính lúc tuổi già, Chương trình Tổng số Tối thiểu được đưa ra vào năm 1987 nhằm bảo đảm rằng tất cả mọi người nghỉ hưu đều có đủ tiền tiết kiệm để duy trì một mức sống khiêm tốn suốt tuổi già. Theo chương trình này, các thành viên khi bước vào tuổi 55 phải cắt riêng một Tổng số Tối thiểu là 38.200 USD, trong đó 14.700 USD phải được giữ bằng tiền và số 23.500 USD11 còn lại có thể được thế chân bằng một căn hộ/nhà. Tổng số Tối thiểu có thể được sử dụng để phát tiền hưu bổng thông qua CPF, hoặc dùng để mua một đẳng niên kim (một dòng tiền cố định) thuộc loại được phê duyệt hoặc tiền hưu bổng từ một ngân hàng thương mại. Điều này bảo đảm rằng ít nhất một phần của tiền tích lũy hưu trí được tách ra dưới hình thức tiền hưu bổng và không thể bị tiêu xài một cách nhanh chóng. Chương trình Nhà ở Chung cư Chương trình nhà ở chung cư của Singapore có thể được mô tả như một hệ thống phối hợp chính phủ với thị trường, nhằm mục đích cung cấp nhà ở rộng rãi cho dân chúng, mà không phải nâng nó lên đến mức quyền hay đặc quyền. Chương trình của Singapore được khởi xướng vào năm 1960, một năm sau khi giành quyền tự quản nội bộ từ Phủ Thuộc địa Anh Quốc. Chương trình bắt đầu rất khiêm tốn, cung cấp những căn hộ thô sơ để cho người nghèo thuê, những người đang sống trong những khu chen chúc tồi tệ. Một năm sau ngày thành lập, cơ quan quản lý nhà chung cư, Hội đồng Xây dựng Phát triển Nhà (HDB), chứng kiến sự hoàn thành của hơn 7.000 căn hộ thô sơ. Hoạt động xây dựng tiến triển nhanh chóng. Chất lượng của căn hộ cải thiện rất nhanh. Ngày nay các căn căn hộ không còn một tí gì để gọi là thô sơ nữa và trên 90% người dân Singapore sở hữu nhà chung cư mua bằng tài khoản tiết kiệm CPF. Thực sự, chương trình nhà ở chung cư thành công của Singapore nổi bật lên như một tương phản sắc nét so với nhiều trường hợp thất bại về nhà chung cư ở những nước khác. HDB được giao phó sứ mệnh cung cấp nhà ở chất lượng cao và vừa túi tiền cho đại đa số dân cư. Mức trần thu nhập tiêu chuẩn để thuê mua nhà HDB được xem xét và tăng lên theo định kỳ, theo bước mức tăng trưởng kinh tế, để bao gồm đến 90% hộ gia đình.12 HDB phân bổ căn hộ trên cơ sở đến trước, mua trước. Giá bán căn hộ của HDB dựa trên những cân 10 Rút trước thời hạn cho các hình thức tiêu dùng khác lại bị cấm, và tiền rút để đầu tư không được phép sử dụng cho mục đích tiêu dùng trước tuổi 55. 11 Qui đổi từ 65.000 đô la Singapore (25.000 đô la tiền mặt và 40.000 đô la bằng nhà ở) với tỷ giá hối đoái 1 USD = 1,7 $ SIN. Mức tỷ giá này sẽ được dùng trong suốt phần còn lại của bài nghiên cứu này. 12 Hiện nay, mức thu nhập để một hộ gia đình hội đủ điều kiện mua nhà chung cư là 10.000 USD mỗi tháng. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 11
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore nhắc về khả năng chi trả. Ví dụ, căn hộ mới có 4 phòng của HDB được định mức giá để 70% hộ gia đình có đủ tiền để mua.13 Các loại phòng lớn hơn được trợ giá với tỷ lệ lũy lùi. Ở mức đỉnh của thang giá, ‘Villa của Sếp’, được tính giá trọn chi phí, được chào bán để đáp ứng ước vọng mới và kỳ vọng ngày càng cao của thế hệ trẻ. Villa của Sếp là tương đương về thiết kế và tiện nghi với ‘villa’ tư nhân, và được xây dựng và bán bởi các công ty tư nhân. Cơ chế thị trường đi vào hệ thống nhà ở theo cách việc tiêu dùng nhà ở được gắn chủ yếu với túi tiền (khả năng chi trả). Loại căn hộ được mua là phụ thuộc hoàn toàn vào mức mà hộ gia đình đó sẵn sàng chi trả. Điều này thúc đẩy các gia đình nên đời nhà ở của mình khi mức thu nhập của họ tăng lên, dẫn đến việc sàng lọc những căn hộ cũ hơn xuống các nhóm thu nhập thấp hơn. Qui trình lên đời này đã phát triển đều đặn kể từ những năm 1970, phản ánh thành công kinh tế và sự giàu có ngày càng tăng của Singapore. Một phần nó cũng là hậu quả của chính sách bán lại nhà của HDB. Chủ sở hữu căn hộ HDB, sau năm năm cư trú, có quyền bán lại căn hộ cho bất cứ ai hội đủ điều kiện mua nhà chung cư (với mức giá do hai bên thỏa thuận, hoàn toàn không có sự can thiệp của HDB) và nộp đơn xin mua một căn hộ HDB mới cao cấp hơn bằng số tiền bán căn hộ. Chính phủ cho phép sức mạnh thị trường tác động hoàn toàn lên việc xác định giá trị bán lại của các căn hộ. Thông qua cơ chế bán lại này, nhà ở chung cư đáp ứng một cách hiệu quả vai trò như một tài sản đầu tư cho người dân Singapore. HDB có thể thu được lợi nhuận khá lớn từ chương trình nhà ở chung cư của mình, với thu nhập xuất phát từ bán các căn hộ, tiền cho thuê các cơ sở thương mãi và công nghiệp, và doanh thu từ các dịch vụ ngoại vi như chợ và bãi đổ xe. Lợi nhuận được tái đầu tư vào những vòng quay tiếp theo của chương trình xây dựng nhà. Điều này giúp giới hạn lượng tiền trợ cấp của chính phủ cần thiết để tài trợ cho hoạt động của HDB. Ví dụ trong tài khóa 2000, vốn của chính phủ cấp cho HDB là chưa đến 3% của ngân sách chính phủ hàng năm. Y tế Dịch vụ y tế có các ngoại tác tích cực đáng kể, và thường được nêu lên làm cơ sở để chính phủ can thiệp và chi tiêu. Hệ thống tài trợ y tế, tuy thế, lại khác nhau rất nhiều từ nước này sang nước khác, khi các chính phủ vật lộn tìm giải pháp cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao và hiệu quả về chi phí. Ở một đầu thái cực là hệ thống chăm sóc sức khỏe phổ quát được trợ cấp hoàn toàn bằng tiền thuế theo đó bệnh nhân chịu tiền rất ít hoặc không cùng-chi trả khi tiêu dùng dịch vụ này – Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh Quốc là một trường hợp điển hình. Tuy nhiên, hệ thống này có xu hướng khuyến khích tiêu dùng quá mức, hậu quả là phân phối giới hạn bằng cách xếp hàng chờ đợi. Ở đầu phía bên kia là hệ thống y tế Mỹ với nhà nước tham gia rất ít. Ngược lại, điều này dẫn đến các vấn đề như chi phí cao, không bao trùm hết dân cư và không đồng nhất về chất lượng chăm sóc y tế. Giải pháp tài trợ cho y tế của Singapore dựa trên hai nguyên tắc thị trường chính yếu: cá nhân tự chịu trách nhiệm, với cộng đồng và chính phủ hỗ trợ cho những ai gặp khó khăn, và chế độ bệnh nhân cùng-chi trả để ngăn chặn tiêu dùng quá mức và để tránh các khó khăn khôn lường của hệ thống y tế hoàn toàn miễn phí. 13 Số lượng phòng chỉ bao gồm phòng khách/phòng ăn và phòng ngủ; không tính nhà bếp và phòng tắm. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 12
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Thực hiện theo các nguyên tắc trên, chương trình tiết kiệm y tế bắt buộc được triển khai vào năm 1984 như một bộ phận của CPF để giúp người dân Singapore tích lũy đủ tiền tiết kiệm để trả chi phí khám chữa bệnh của mình. Theo chương trình này, một phần của tiền đóng góp CPF hàng tháng của cá nhân (6-8 phần trăm tùy theo độ tuổi) được cắt riêng sang tài khoản tiết kiệm y tế cá nhân. Cách tiếp cận này gán trách nhiệm trên cá nhân phải tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm y tế của mình một cách cẩn trọng. Nó còn giúp ngăn chặn việc sử dụng quá mức các dịch vụ y tế, bởi vì các cá nhân có thể giữ lại tiền tiết kiệm của mình cho đến lúc nghỉ hưu nếu họ không rút tiền tiết kiệm y tế. Tiết kiệm y tế bảo đảm quyền tự do chọn lựa của cá nhân về nhà cung cấp dịch vụ y tế và ngay cả loại phòng/khu trong một bệnh viện. Các dịch vụ y tế cơ bản tại các phòng khám đa khoa được chính phủ trợ cấp 50% chi phí. Phòng/khu trong bệnh viện được trợ cấp tùy theo mức độ tiện nghi mà người bệnh nhân chọn. Nói chung, tỷ lệ phần trăm của trợ cấp chính phủ tăng theo tỷ lệ nghịch với mức độ tiện nghi thoải mái. Ví dụ, phòng/khu Hạng-A chỉ có một giường bệnh, có TV, phòng tắm riêng, và điều hòa không khí được tính giá trọn chi phí, trong khi phòng/khu Hạng-C cửa mở nằm chung nhiều giường lại được trợ cấp khoảng 80% chi phí. Tuy nhiên, dù có chênh lệch về mức trợ cấp, mức độ chăm sóc là giống nhau cho mọi hạng và được chăm sóc bởi cùng đội ngũ nhân viên y tế như nhau. Tóm lại, bệnh nhân có thể “tự mình chọn” phòng/khu có hạng thích hợp tùy theo độ sẵn lòng chi trả của mình, mà không bị bắt buộc phải vào một nhóm trợ cấp cụ thể nào. ‘Lá chắn y tế’ – chương trình bảo hiểm quốc gia với giá rẽ – được triển khai năm 1990 để cung cấp bảo vệ tài chính cho người dân Singapore trước chi phí cao khi gặp phải bệnh tật nghiêm trọng hay kéo dài. Lá chắn y tế tự động bù đắp cho tất cả những người có tài khoản Tiết kiệm y tế dưới 75 tuổi trừ khi tự họ chọn không dùng đến. Không giống như hầu hết các chương trình bảo hiểm y tế quốc gia, Lá chắn y tế hoạt động trên nguyên tắc phí rủi ro, chứ không phải nguyên tắc xã hội, theo đó tiền đóng bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm được xác định dựa trên các nhân tố rủi ro sức khỏe thực tế trong dân cư. Như thế, người nào có rủi ro cao hơn phải đóng tiền bảo hiểm cao hơn. Điều này giúp hạn chế tối thiểu trợ cấp chéo ngấm ngầm giữa người mạnh khỏe và người bệnh hoạn. Cũng không có trợ cấp chéo giữa các nhóm độ tuổi khác nhau. Dù có Tiết kiệm y tế và Lá chắn y tế, vẫn còn một số ít người Singapore, chủ yếu là người nghèo và người già cả, không có khả năng chi trả tiền chữa bệnh. Trong những trường hợp đó, chính phủ là cánh tay cứu vớt cuối cùng với Quỹ y tế, một quỹ ký thác được thành lập như lưới an toàn để giúp người Singapore nghèo khổ chi trả tiền chữa bệnh. Quỹ y tế được thành lập vào tháng 4 năm 1993 với số vốn ban đầu là 118 triệu USD. Tổng vốn hiện nay lên đến 412 triệu USD. Chỉ có phần thu nhập lãi từ tổng vốn này được sử dụng. Bệnh nhân ở các bệnh viện công không có khả năng trả tiền bệnh viện ngay cả sau khi đã tận dụng Tiết kiệm y tế và Lá chắn y tế có thể nộp đơn xin Hội đồng Quỹ y tế trợ giúp. Giáo dục Giáo dục được thừa nhận rộng rãi, nhất là phổ thông cơ sở và trung học, là một hàng hóa gần như là công, bởi vì xã hội nhận biết những lợi ích rõ ràng của giáo dục tốt vượt xa hơn những lợi ích của cá nhân, tư nhân như được phản ánh qua định giá thị trường. Thông qua đầu tư của chính phủ vào giáo dục, trình độ giáo dục của người dân Singapore đã cải thiện đáng kể John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 13
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore trong thập niên vừa qua. Ngày hôm nay, 56% những người thuộc độ tuổi từ 25 đến 34 có trình độ giáo dục trên trung học. Tăng gần ba lần so với thập niên trước đó, xem Sơ đồ 3: Trình độ giáo dục của người dân Singapore (độ tuổi 25-34) C ấp đ ại h ọ c Bách khoa C ấp trung học C ấp cơ sở Cấp tiểu học Không có trình độ Trong khi chính phủ vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng như một nhà cung cấp dịch vụ giáo dục, chính phủ cũng đã sử dụng các cơ chế thị trường để nâng cao hệ thống trường công lập. Đặc biệt, cơ chế cùng-chi trả được thực hiện nhằm nhấn mạnh thực tế tốn kém nhiều chi phí cho giáo dục công lập. Mức độ cùng-chi trả của cá nhân tăng lên cùng với cấp học. Mức tiền tối thiểu cùng-chi trả được qui định cho học sinh cấp hai và cấp ba trung học, vì giáo dục cơ sở hầu như được chính phủ trợ cấp 100%. Ở những cấp học cao hơn, giáo dục đóng vai trò không chỉ là một lợi ích công mà còn là một hình thức nâng cao dòng thu nhập tương lai của cá nhân. Vì thế, tỷ lệ cùng-chi trả là cao hơn đối với sinh viên đại học và cao đẳng kỹ thuật (bách khoa) – Chính phủ trợ cấp khoảng 83% của chi phí hoạt động cho các trường cao đẳng kỹ thuật và 75-84% cho các chương trình cử nhân của đại học. Kế hoạch hiện nay là sẽ tăng học phí đại học trong vòng hai năm tới, phù hợp với chủ trương chính sách để cho sinh viên đại học chịu 25% của chi phí đào tạo. Đồng thời, nhiều chương trình cho vay và hỗ trợ tài chính được triển khai để bảo đảm rằng không một sinh viên nào phải đánh mất cơ hội học lên cao do khó khăn về tài chính. Ví dụ, Chương trình Giáo dục là một chương trình cho vay, theo đó các thành viên CPF có thể sử dụng tiền tiết kiệm CPF của mình để tài trợ tiền học đại học cho cho con cái hay cho chính mình. Về phía bên cung, giáo dục ở Singapore được tự do hóa dần dần với những sáng kiến mới như Trường học Tự quản. Nó cho trường học quyền tự chủ lớn hơn trong hoạt động, để các trường có thể tối đa hóa việc sử dụng các nguồn lực và thử nghiệm những ý tưởng và sáng kiến mới trong giáo dục vì lợi ích của học sinh trường mình. Tất cả trường học ở John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 14
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Singapore đều chịu sự đánh giá theo “Mô hình Trường học Xuất sắc” gắn liền với Giải thưởng Chất lượng Singapore giành cho Tổ chức Xuất sắc, một giải thưởng quốc gia hoàn toàn tương đương với giải thưởng Malcolm Baldridge Award của Hoa Kỳ. Tắt nghẽn giao thông và Sở hữu và sử dụng xe ôtô Đất là một nguồn lực rất khan hiếm ở Singapore, ở đó xấp xỉ 4 triệu người chia sẻ khoảng 660 km vuông đất (Singapore rộng khoảng bốn phần năm diện tích của đảo Mahattan của thành phố New York, và một phần ba diện tích của Tokyo). Ngoài cơ sở hạ tầng giao thông, đất còn cần dùng cho các mục đích nhà ở, thương mại, và công nghiệp, huấn luyện quân sự, hứng nước mưa, và các mục đích giải trí. Hơn nữa, không có những khu riêng biệt cho các mục đích sử dụng đất khác nhau – khu thương mãi và khu dân cư thường nằm sát nhau. Điều này có nghĩa là đường bộ phải đáp ứng tất cả các loại xe di chuyển quanh đảo này. Vì thế, tắt nghẽn giao thông có thể gây ra trở ngại nghiêm trọng cho nền kinh tế. Với diện tích mặt đường giới hạn, sẽ có ngoại tác tiêu cực đáng kể cứ mỗi lần có một người quyết định lái ôtô ra đường, nhất là vào giờ cao điểm. Tổng chi phí có thể gán cho người lái xe không chỉ bao gồm các chi phí tư nhân của việc lái xe (như tiền xăng, tiền bãi đổ xe và chi phí bảo trì xe) mà người đó chi trả trực tiếp, mà còn cả những chi phí công cộng do tắt nghẽn giao thông và hậu quả tổn thất hiệu năng trong nền kinh tế. Nếu không có sự can thiệp của chính phủ, sẽ tồn tại thị trường không hiệu quả, vì các nguồn lực (trong trường hợp này, diện tích mặt đường) được định giá quá thấp, sử dụng quá mức và phân bổ không tối ưu. Hiện nay chính phủ đang áp dụng một loạt các biện pháp hạn chế việc sở hữu và sử dụng các loại xe ôtô để quản lý cầu đối với diện tích mặt đường và kiểm soát tắt nghẽn giao thông: Các Biện pháp Hạn chế Sử dụng Ôtô Tính giá phí cầu đường điện tử (ERP): Tính giá phí cầu đường, khi được thực hiện dưới hình thức áp đặt tiền phí cao hơn trên những người lái xe đi lại vào những thời điểm và những vị trí nơi mà hệ thống đường đông nghẹt xe, khuyến khích người lái xe tìm cách giảm bớt tắt nghẽn giao thông bằng cách thay đổi phương tiện đi lại, thời gian, lộ trình, hoặc tần suất của mình. Nó tối ưu hóa việc sử dụng mạng lưới đường và giúp trải mỏng lưu lượng xe vào giờ cao điểm. Vì thế, tính giá phí cầu đường mang lại một giải pháp phía-cầu cho vấn đề diện tích mặt đường hạn chế.14 Hệ thống ERP là một cơ chế tính giá phí cầu đường nhằm tối ưu hóa lưu lượng xe cộ bằng giá cả “do thị trường thúc đẩy”. Các bảng thu tín hiệu ERP đầu tiên đã được gắn tại những đường cao tốc chính và tại các điểm ra vào Quận Thương mãi Trung tâm. Sau đó, ERP đã mở rộng dần để giảm bớt áp lực giao thông trên những tuyến đường vành đai, nơi mà tình trạng giao thông đã trở nên căng thẳng. Theo hệ thống ERP, người lái xe bị tính tiền cứ 14 Các giải pháp phía bên cung, ví dụ xây dựng thêm đường mới, có tính ít bền vững hơn. Theo thời gian, “cầu tiềm tàng” – những người vẫn thường đi lại bằng các phương tiện giao thông khác, vào những thời điểm hay địa điểm khác do tắt nghẽn giao thông trước đây – sẽ nhanh chóng tham gia sử dụng mạng lưới đường một khi mật độ giảm, đẩy mức độ tắt nghẽn lên mức cũ một lần nữa. Tính giá phí cầu đường làm nản lòng không chỉ cầu hiện hữu, mà còn cả cầu tiềm tàng. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 15
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore mỗi lần lái xe ngang qua điểm kiểm soát ERP có gắn bảng thu tín hiệu trong những giờ hoạt động. Giá phí ERP được điều chỉnh hàng quý dựa trên tình trạng giao thông để giữ cho tốc độ ở trong khoản tối ưu 45 đến 65 km/giờ đối với đường cao tốc và 20 đến 30 km/giờ đối với các trục đường chính. Kể từ ngày thực hiện, lưu lượng xe trên những tuyến đường có tính giá phí ERP đã giảm đáng kể. Nói chung, lưu lượng giao thông đã giảm bớt 15% và tốc độ giao thông được giữ trong khoản tốc độ tối ưu. Thuế xăng dầu được đánh ở mức 40% trên giá và được sử dụng chủ yếu như một công cụ quản lý giao thông. Các Biện pháp Hạn chế Sở hữu Ôtô Thuế Ôtô: Các biện pháp giới hạn sở hữu ôtô gồm có tiền phí đăng ký xe, phí đăng ký bổ sung, và thuế nhập khẩu. Ngoài ra, người sở hữu ôtô còn phải đóng thuế cầu đường hàng năm dựa trên công suất máy của xe. Phí đăng ký có mức cố định 82 USD. Phí đăng ký bổ sung và thuế nhập khẩu là những loại thuế lũy tiến tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị xe trên thị trường tự do. Mức thuế là 31% và 140% tương ứng. Điều này có nghĩa là xe càng đắt tiền chịu thuế càng cao hơn nhiều so với xe rẽ tiền hơn. Cơ cấu thuế lũy tiến phục vụ một chức năng hữu ích theo quan điểm công bằng xã hội. Hệ thống Hạn ngạch Ôtô được áp dụng vào tháng 5 năm 1990. Hệ thống này khống chế sự gia tăng số lượng xe ở một mức độ bền vững. Hạn ngạch ôtô được xem xét lại hàng năm, có tính đến diễn biến của lượng xe hủy đăng ký và tính bền vững của tốc độ gia tăng. Hiện nay, chỉ tiêu là giữ tốc độ gia tăng của ôtô khoảng 3% mỗi năm cho đến năm 2005 nhằm kiểm soát được tắt nghẽn giao thông. Chỉ tiêu này được điều chỉnh 5 năm một lần. Hệ thống này có các tính chất chủ yếu như sau: Bất cứ ai có ý định đăng ký một chiếc xe ôtô đều phải trước tiên bỏ thầu tranh một Chứng chỉ Đặc quyền (COE) trong một cuộc đấu thầu công khai. Phương pháp này được chọn bởi vì định giá là phương thức hữu hiệu nhất để phân phối hạn chế các nguồn lực khan hiếm, trong trường hợp này là quyền sở hữu một chiếc ôtô. Những người thắng thầu chỉ cần chi trả ở mức giá bỏ thầu thành công thấp nhất. Qui trình đấu thầu cạnh tranh này được tinh chỉnh qua các năm để bảo đảm phân phối hiệu quả. Đấu thầu trên mạng sẽ được tiến hành thử nghiệm vào quý hai năm 2001. Điều này sẽ mang lại nhiều thông tin cần thiết cho công chúng khi tham gia đấu thầu. COE có giá trị trong 10 năm. Quá thời hạn đó, người sở hữu hoặc là phải chấm dứt sử dụng xe hoặc là phải gia hạn COE đó thêm 10 năm nữa bằng cách đóng tiền hạn ngạch theo mức hiện hành. Nếu người đó hủy đăng ký chiếc xe, Cơ quan Giao thông Đường bộ sẽ tái sử dụng COE đó và nhập nó vào chung cho những người mua mới đấu thầu. Thực sự, đây là một hệ thống quyền sử dụng có thể gia hạn. Bằng cách ấn định hạn ngạch ôtô và định giá hạn ngạch thông qua đấu thầu, chính phủ thu hồi một cách hiệu quả tiền tô kinh tế thay vì để nó trở thành lợi nhuận của những người mua bán xe (trong khi một hệ thống bốc thăm/xổ số sẽ chỉ chuyển giao tô kinh tế cho những cá nhân may mắn). Tiền thu thuế liên quan đến ôtô và COE trở thành một phần của nguồn thu hoạt động của chính phủ và được tái phân phối trở lại cho công chúng thông qua chi tiêu của chính phủ. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 16
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Thuế đối với Lao động Người nước ngoài Singapore vẫn luôn luôn sử dụng đòn bẩy nhân lực nước ngoài ở mọi cấp độ để nâng cao tăng trưởng kinh tế. Sử dụng nhân lực nước ngoài là một chiến lược có chủ định để giúp Singapore có thể tăng trưởng vượt xa hơn mức mà nguồn lực bản địa có thể tạo ra. Hệ thống visa lao động nhắm mục đích thu hút nhiều nhóm nhân lực nước ngoài khác nhau thông qua thang đặc quyền giảm dần, với đặc quyền cao hơn giành cho những người có trình độ cao hơn. Có một chính sách rất thoáng mở về cấp visa lao động cho những người nước ngoài có kỹ năng và tài năng nếu họ muốn làm việc ở Singapore, với các biện pháp kiểm soát chặt chẽ tăng dần được áp dụng để điều tiết việc tuyển dụng lao động nước ngoài không có kỹ năng và kỹ năng thấp kèm chế độ giấy phép lao động phải được gia hạn sau 2 hoặc 3 năm. Hiện nay có hơn 500.000 người nước ngoài có giấy phép lao động ở Singapore, kể cả hơn 100.000 người nước ngoài giúp việc trong gia đình. Trong khi những người lao động này giúp bổ sung lực lượng lao động trong nước và góp phần vào tăng trưởng kinh tế, vẫn có những chi phí xã hội nghiêm trọng phát sinh từ sự hiện diện của một lực lượng đông đảo lao động nước ngoài không có kỹ năng ở Singapore. Vì thế, các cơ chế kiểm soát được triển khai để điều tiết dòng người lao động thiếu kỹ năng. Một hình thức kiểm soát là thuế đối với lao động người nước ngoài (đưa ra thực hiện vào năm 1980) với mục đích điều tiết dòng người lao động bằng cơ chế giá cả. Các sức mạnh thị trường được đưa vào theo cách để người lao động nước ngoài được phân phối vào nhiều ngành công nghiệp và khu vực kinh tế khác nhau, tùy theo khả năng chi trả của người chủ thuê mướn họ. Chương trình thuế lao động người nước ngoài nhằm bảo đảm rằng lao động nước ngoài không đè ép một cách giả tạo mức lương trong nước và trở thành một chọn lựa rẽ tiền hơn trong khi lao động trong nước chịu thiệt hại. Chương trình này rất hiệu quả trong việc giúp cải thiện mức lương của lao động cấp thấp trong nước. Các Công ty có Liên kết với Chính phủ (GLC) Đầu thập niên 1960, vào lúc mới độc lập, Singapore gặp tình trạng thất nghiệp tràn lan, thiếu hụt nhà ở trầm trọng, và sút giảm trong nền kinh tế cảng trung chuyển. Singapore thiếu nghiêm trọng trình độ chuyên môn về quản trị tư nhân, đầu óc kinh doanh và vốn trong nhiều khu vực của nền kinh tế. Vấn đề cấp bách là phải tái cơ cấu nền kinh tế từ dựa trên sản xuất thay thế hàng nhập khẩu sang dựa trên công nghiệp hóa theo định hướng xuất khẩu, hỗ trợ bởi vốn, thị trường, và công nghệ nước ngoài. Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ đã chọn cách tiếp cận can thiệp mạnh để giúp đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế. Các công ty đa quốc gia được mời đón với điều kiện thoải mái. Một số Công ty có Liên kết với Chính phủ (GLC) được thành lập trong một số khu vực cụ thể của nền kinh tế nơi đang thiếu doanh nghiệp tư nhân như đóng tàu, hàng không, vận tải biển và ngân hàng đầu tư phát triển. Ví dụ, hồi đó ngành ngân hàng còn phôi thai và manh mún. Hiếm có ngân hàng nào ở Singapore sẵn sàng cho vay với thời hạn quá 3 năm hoặc tài trợ vốn cho những công ty sản xuất mới ra đời. Chính phủ đã bước vào để giải quyết sự thất bại thị trường này bằng cách cung cấp tài trợ phát triển cho những công ty sản xuất, kể cả đầu tư vốn chủ sở hữu. Điều này cuối cùng đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS) vào năm 1968. Không bao lâu sau khi thành lập, DBS được niêm yết bán cổ phiếu trên Thị trường Chứng khoán, chủ yếu để thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân và buộc ngân hàng này phải John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 17
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore chịu sự khắc nghiệt và kỷ cương của thị trường trong hoạt động kinh doanh của mình. DBS là GLC đầu tiên được niêm yết trên thị trường chứng khoán và có mức vốn theo cổ phiếu trên thị trường 59 triệu USD hồi đó. Ngày nay nó là một trong những tập đoàn ngân hàng lớn nhất trong khu vực, và được xếp hạng trong số 100 ngân hàng hàng đầu trên thế giới, với mức vốn theo thị trường là 14 tỷ USD. Vì nhiều GLC đã lớn mạnh trở thành những thực thể thương mãi thành công hoạt động trên các thị trường cạnh tranh cả trong nước lẫn nước ngoài, không còn các lý do bức bách để Chính phủ phải nắm giữ cổ phần kiểm soát trong những công ty này. Số liệu thống kê mới nhất cho thấy rằng các GLC chỉ chiếm khoảng 13% của tổng giá trị gia tăng trong nền kinh tế. Qua thời gian, Chính phủ đã giảm bớt cổ phần của mình trong những GLC này. Ví dụ, Chính phủ hiện nắm giữ 37% cổ phần của DBS và sẵn sàng giảm nhiều hơn nữa. Vì có liên quan đến tài sản công, nên cần phải bán khoản đầu tư chỉ khi nào có giá đúng và điều kiện thị trường thuận lợi. Nhìn trong bối cảnh rộng hơn, cách tiếp cận chung là ‘công ty hóa’ tất cả các hoạt động nào của chính phủ có dòng kết toán lãi/lỗ, hoặc dưới dạng các công ty bình thường hoạt động trong khu vực tư nhân hoặc dưới dạng doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trước các Bộ thuộc Chính phủ.15 Các GLC thuộc nhóm thứ nhất. Chúng hoạt động không có trợ cấp chính phủ và được điều hành trên cơ sở thương mãi, chịu chung luật và qui định như bất kỳ công ty nào khác trong khu vực tư nhân. GLC có quyền tự chủ hoàn toàn đối với các quyết định kinh doanh và đầu tư. Chúng phải chịu tất cả các qui luật của cạnh tranh, và phải đáp ứng và phản ứng nhanh chóng trước các thay đổi trong môi trường kinh doanh. Chính phủ tin rằng không phải quyền sở hữu quyết định việc một công ty hoạt động hiệu quả như thế nào, mà chính là chất lượng của hội đồng quản trị và ban giám đốc công ty. GLC phải thu được suất sinh lợi kỳ vọng bình thường của các công ty kinh doanh. GLC là một minh họa rõ ràng cho việc Chính phủ sử dụng các giải pháp thị trường đã nâng cao tính hiệu quả như thế nào về phía bên cung. Kỷ cương của thị trường là động lực tốt nhất cho hoạt động hiệu quả. Các GLC đứng vững giữa những công ty có niêm yết chứng khoán của Singapore, và biết rằng chúng phải đạt đẳng cấp quốc tế thì mới tồn tại và thành công. Ba công ty niêm yết lớn nhất trên Thị trường Chứng khoán Singapore là GLC: Singapore Telecom, DBS Bank, và Singapore Airlines và rõ ràng đạt được vị thế này bằng cách hiệu quả và có lãi. Công nghệ và Phát triển Chuỗi xí nghiệp Chính phủ đóng một vai trò then chốt trong việc tiên liệu các cơ hội và xu thế trong tương lai, chọn các nước đi chiến lược trong những lĩnh vực mới và xây dựng năng lực dài hạn. Không giống như khu vực tư nhân, thường bị thúc đẩy bởi các mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn, Chính phủ có thể đi theo định hướng dài hạn hơn trong cách tiếp cận của mình đối với đầu tư và lập dự toán ngân sách cho các tài nguyên quốc gia. Chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình đầu tư khác nhau để xây dựng năng lực kinh tế trong nước và chuẩn bị tốt hơn cho Singapore trước các thay đổi trong nền kinh tế toàn cầu. Xin nêu hai ví dụ: 15 Có những Ủy ban Nhà nước với chức năng hoặc là điều tiết hoặc là phát triển chung. John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 18
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore Quỹ Phát triển Chuỗi xí nghiệp Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng căng thẳng hơn, một xu hướng phổ biến là càng ngày càng có nhiều hơn các liên minh chiến lược giữa các công ty để chia sẻ rủi ro đầu tư trong những chuỗi công nghiệp mới. Quỹ Phát triển Chuỗi xí nghiệp (CDF) được thành lập năm 1993 nằm dưới Hội đồng Phát triển Kinh tế để giải quyết những thiếu sót trong các chuỗi công nghiệp, mở rộng quan hệ đối tác với các công ty đa quốc gia (MNC), đẩy nhanh sự phát triển của những xí nghiệp trong nước có nhiều triển vọng. Vốn của quỹ này hiện nay đã lên đến 3,5 tỷ USD. Dự án đầu tư chiến lược có sử dụng vốn CDF được kỳ vọng phải có tính khả thi về thương mãi. Để áp đặt kỷ cương, dự án đầu tư còn được kỳ vọng phải tạo ra suất sinh lợi chỉ tiêu tối thiểu. Các dự án được tiến hành trên cơ sở cùng-đầu tư với khu vực tư nhân, một minh chứng rằng nếu dự án là đáng giá về mặt kinh doanh thì khu vực tư nhân sẽ sẵn lòng cam kết nguồn lực vào, và một sự thừa nhận rằng cán bộ chính phủ không phải là người phù hợp để tự mình quyết định liệu dự án nào là đáng được hỗ trợ nhất cho tương lai. Các dự án CDF đã giúp phát triển những ngành công nghiệp chiến lược có năng lực mới, cũng như những ngành công nghiệp hỗ trợ (phục vụ). Dự án cùng-đầu tư giữa CDF với United Microelectrics Corporation, một trong những công ty lớn nhất thế giới trong ngành chế tạo chất liệu xốp, là một trong những ví dụ. Dự án này đã thu hút nhiều công ty công nghiệp khác đến Singapore, tăng cường thêm năng lực cốt lõi của đất nước về qui trình công nghệ chế tạo chất liệu xốp và tạo ra rất nhiều việc làm mới. CDF có nhiều dự án cùng-đầu tư với các MNC lớn, như thành lập nhà máy polyethylene ‘mật độ cao’ với Chevron Phillips Chemical International Holdings và thành lập công ty khám phá dược phẩm với Chiron Corporation. Thông qua các dự án đầu tư đó, CDF còn giúp các công ty trong nước phát triển thành những doanh nghiệp thành công có đẳng cấp quốc tế và hỗ trợ cho các nỗ lực khu vực hóa và toàn cầu hóa của họ. Một ví dụ là Singapore Shinei Sangyo Pte Ltd, một công ty thiết kế và chế tạo trong nước, đã thành lập nhà máy ở Trung Quốc và Hoa Kỳ để phục vụ cho các khách hàng MNC. Quỹ Đầu tư Doanh nghiệp Công nghệ Mới (TIF) Một ngành đầu tư vốn mạo hiểm năng động sẽ tạo ra các tác động số nhân và lan truyền tích cực đến các khu vực còn lại của nền kinh tế. Vì thế, TIF được thành lập vào tháng 4 năm 1999 với số vốn 1 tỷ USD để phát đi tín hiệu cho sự cam kết của chính phủ xây dựng Singapore thành một trung tâm đầu tư vốn mạo hiểm và để làm chất xúc tác nhằm thu hút và nuôi dưỡng “khởi sự doanh nghiệp công nghệ” ở Singapore. Cũng như trường hợp các dự án CDF, chính phủ cung cấp tiền trên cơ sở cùng-đầu tư với khu vực tư nhân nhằm bảo đảm kỷ cương thị trường. Đầu tư thông qua TIF do tư nhân chủ đạo, còn chính phủ đóng vai trò hỗ trợ, nghĩa là chính phủ chỉ đầu tư vào những dự án mà khu vực tư nhân đã quyết định theo đuổi. TIF đã tạo ra một lực đẩy đáng kể cho ngành đầu tư vốn mạo hiểm ở Singapore. Các hãng đầu tư vốn mạo hiểm hàng đầu, như Warburg Pincus, đã bị thu hút vào Singapore thành lập doanh nghiệp. Ngoài ra, TIF còn tạo ra các cơ hội cùng-đầu tư giữa các hãng đầu tư vốn mạo hiểm nước ngoài và các công ty đặt trụ sở ở Singapore. Quan trọng hơn nữa là, ngành John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 19
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singapore đầu tư vốn mạo hiểm là một nguồn tài trợ quan trọng cho những công ty mới khởi sự doanh nghiệp trong những ngành mới có tiềm năng tăng trưởng nhanh. Đầu tư của chính phủ trong một ngành vì thế còn tạo ra sự lan truyền tích cực sang các khu vực khác của nền kinh tế. Thị trường bên trong các Cơ quan Chính phủ Có thể kết hợp một cách hiệu quả các cơ chế thị trường vào các hoạt động của chính phủ để khuyến khích tinh thần kinh doanh và sáng kiến đổi mới, và giảm tối thiểu tình trạng kém hiệu năng và lãng phí. Một trong những cơ chế mà Chính phủ đã triển khai là hệ thống tính tiền lẫn nhau giữa các ban ngành, vận dụng khái niệm thị trường để áp đặt động cơ khuyến khích và kỷ cương trên cả người cung cấp lẫn người tiêu dùng các dịch vụ nội bộ. Một ví dụ của việc tính tiền lẫn nhau giữa các ban ngành là tổ chức thực hiện các khóa đào tạo cho công chức bởi Trường Đào tạo Công chức (CSC). Do nhu cầu phải thiết kế phù hợp và chuyên môn hóa đào tạo và vai trò của đào tạo trong việc khắc sâu văn hóa công chức, những khóa đào tạo này không thể nào thuê/mua ngoài hoàn toàn từ khu vực tư nhân. CSC được thành lập năm 1971 để đào tạo công chức. Khởi đầu nó là một cơ quan thuộc chính phủ và được cấp ngân sách để thực hiện các khóa đào tạo. Cách tổ chức CSC cho thấy hai khiếm khuyết chính. Thứ nhất, vì CSC được cấp ngân sách để thực hiện đào tạo, nó được trả tiền bất kể gì đến cầu đối với lớp học và sự thỏa mãn của khách hàng. Thứ hai, vì các khóa học có vẻ là “miễn phí” đối với các bộ gởi nhân viên đi học, thì một mặt có nguy cơ xảy ra hội chứng tiệc buffet và, mặt khác, tác động của việc trói buộc các bộ với CSC để đáp ứng nhu cầu đào tạo của bộ mình. Tính tiền lẫn nhau giữa các ban ngành giúp giải quyết những khiếm khuyết này. Thay vì cấp ngân sách cho CSC, ngân sách được chia ra và phân cho các bộ sử dụng dịch vụ đào tạo. CSC phải “kiếm” ngân sách của mình bằng cách tính tiền các bộ gửi nhân viên đến học tại CSC. Vì thế có động cơ tức thời để CSC phải bảo đảm rằng các khóa học của mình đáp ứng được nhu cầu của các bộ và kiếm được công việc từ các bộ, không làm được điều này thì CSC phải ngưng hoạt động. Đồng thời, các bộ nhận thức rõ hơn về chi phí gởi nhân viên đi đào tạo và còn giành quyền kiểm soát lớn hơn cũng như quyền chọn lựa nên gởi nhân viên đến CSC hay các trung tâm đào tạo khác. Định chuẩn so sánh với khu vực tư nhân và áp dụng các giải pháp tốt nhất của họ là một cách khác mà Chính phủ đã học hỏi từ thị trường để thúc đẩy cao hơn nữa tính hiệu năng và hiệu quả bên trong khu vực công. Ví dụ, mức lương khu vực công được gắn với khu vực tư nhân để bảo đảm rằng khu vực công thu hút được một tỷ lệ hợp lý tài năng của đất nước, trong khi vẫn bảo đảm rằng mức lương khu vực công sẽ đeo đuôi chứ không dẫn trước khu vực tư nhân. Một cấu phần ngày càng quan trọng của tiền lương là tiền thưởng khả biến và tiền thưởng thành tích. Điều này cho phép lương được gắn chặt chẽ hơn với thành tích của cá nhân và hiệu năng của nền kinh tế nói chung. Các cơ quan chính phủ còn được khuyến khích định chuẩn các hệ thống và qui trình của mình theo các tiêu chuẩn như ISO 9000, Tiêu chuẩn Nhà phát triển Nhân dân, và Giải thưởng Chất lượng Singapore. Giải thưởng Chất lượng Singapore là một giải thưởng quốc gia cho tổ chức xuất sắc, với các chỉ tiêu định chuẩn rất giống với giải Malcolm Baldridge Award của Hoa Kỳ và Mô hình Doanh nghiệp Xuất sắc của châu Âu. Nói về quản trị, nhiều giải pháp khác nhau của khu vực tư nhân như Bảng cân bằng chỉ tiêu quản trị (Balanced Scorecard), Hạch toán từng công đoạn dựa trên thao tác John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đưa sản phẩm mới ra thị trường: Dễ hay khó?
5 p | 475 | 200
-
Tiêu đề " Đo lường mức độ trung thành của khách hàng đối với dịch vụ thông tin di độngNghiên cứu tại thị trường TP.HCM"
9 p | 438 | 145
-
Phát triển sản phẩm mới, dẫn dắt thị trường
6 p | 405 | 143
-
Bài giảng Marketing căn bản - Chương 1: Những vấn đề cơ bản của Marketing
15 p | 422 | 139
-
Thị trường CRM tại Việt Nam: Tiềm năng chưa mở
6 p | 287 | 106
-
Bí quyết thành công của các công ty Trung Quốc (Phần cuối) .Sử dụng những bàn
4 p | 300 | 101
-
Bài giảng Chiến lược Marketing - Chương 7: Phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị
38 p | 320 | 65
-
Kinh tế thị trường
7 p | 252 | 58
-
Bài thuyết trình " Định vị thị trường và các bước trong tiến trình định vị"
11 p | 907 | 56
-
PHÂN KHÚC, LỰA CHỌN THỊ TRƯỜNG MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH VỊ
28 p | 287 | 44
-
Chuyên đề: Những vấn đề về thị trường và marketing trong khởi sự doanh nghiệp - ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
55 p | 163 | 34
-
Sử dụng các cuộc khảo để tiếp cận khách hàng
7 p | 126 | 29
-
Kỹ thuật nghiên cứu thị trường của PR
9 p | 115 | 26
-
Đi tìm phân khúc hẹp trên thị trường để phát triển
5 p | 132 | 19
-
Bài giảng Marketing - Chương 9: Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu
17 p | 128 | 17
-
Thị trường marketing trực tuyến
23 p | 73 | 6
-
Những chiến lược của người dẫn đầu thị trường
9 p | 84 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn