intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TÀI LIỆU CHÍNH TRỊ - ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG, ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Chia sẻ: Mai Van Luc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

515
lượt xem
183
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong suốt lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, nước ta đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, bảo vệ đất nước. Tương ứng với mỗi thời đại lịch sử, với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần đoàn kết dân tộc, nhân dân ta đã giành thắng lợi, đánh bại nhiều quân thù xâm lăng ngoại quốc, bảo vệ vững chắc non sông bờ cõi dân tộc và truyền thống thượng võ anh hùng....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TÀI LIỆU CHÍNH TRỊ - ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG, ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

  1. LỜI TỰA Trong suốt lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và gi ữ nước c ủa dân tộc, nước ta đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, bảo vệ đất nước. Tương ứng với mỗi thời đại lịch sử, với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần đoàn kết dân tộc, nhân dân ta đã giành thắng lợi, đánh bại nhiều quân thù xâm lăng ngoại quốc, bảo vệ vững chắc non sông bờ cõi dân tộc và truyền thống thượng võ anh hùng. Trong thế kỷ XX vừa qua, nhân dân Việt Nam được cả thế giới biết đến như một dân tộc anh hùng, một đất nước nhỏ bé bên bờ Thái Bình Dương đã đánh bại hai cuộc xâm lược của hai tên “đế quốc xừng xỏ” đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc, từng bước đi lên con đường Xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất là sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập Đảng ta - đã thấy phải có Đảng cách mạng và Đảng có vững thì cách mạng mới thành công. Ngay từ khi mới thành lập, trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: "Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong đấu tranh mà trưởng thành". Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc tính đúng đắn của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đã nêu lên một bài học cơ bản: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh chỉ đạo cũng như xây dựng và bảo vệ đất nước của Đảng ta, đặc biệt trong những năm tháng khó khăn trong cuộc kháng chiến chống quân thù xâm lược, khi chính quyền 1
  2. cách mạng của ta đang còn non trẻ là việc làm thiết thực, trọng yếu, mang ý nghĩa sâu sắc đối với thế hệ trẻ ngày nay đồng thời thể hiện trách nhiệm cũng như nghĩa vụ đối với đất nước, với sự nghiệp của Đảng Cộng Sản. *. Chúng tôi đã cùng nghiên cứu và lập ra bài ti ểu lu ận này v ới mong muốn: - Nâng cao trình độ học thức và hiểu biết. Giúp mọi người hiểu rõ hơn về những đường lối lãnh đạo của - Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bảo vệ đất nước. Giúp các bạn nâng cao khả năng liên kết và làm việc nhóm. - Xây dựng tinh thần và lòng ham muốn học hỏi, tìm hiểu, nghiên - cứu ngày càng cao với bộ môn đường lối mà căn bản là tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nâng cao tinh thần yêu nước, hiểu biết thêm về truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc. 2
  3. A- Mở Đầu Đề Tài: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta giai đoạn 1946 – 1954. Trong giai đoạn kháng chiến chống thế lực thù địch theo khuynh hướng vô sản Đảng đã hoạch định tìm ra đường lối đúng đ ắn đ ưa dân tộc ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Giai đoạn 1946 – 1954 là một trong những thành công của Đảng ta trong việc tạo ra đường lối thúc đẩy và tập trung quần chúng thực hiện đường lối ấy. Đường lối giai đoạn 1946 – 1954 đã chứng tỏ: “ Đảng ta sau 15 năm ra đời đã trưởng thành”. Đường lối giai đoạn này thể hiện sự đúng đắn của Đảng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, bảo vệ và phát triển thành quả của cuộc Cánh Mạng Tháng 8 năm 1945, chống ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta. Đó là lý do để chúng tôi chọn đề tài này. Nếu giai đoạn 1945-1946 chúng ta tập trung kháng chiến chống thù trong, giặc “lăm le” bên ngoài. Phát triển, chống những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,… còn giai đoạn 1946-1954, một mặt kháng chiến chống Pháp lần 2, nó còn là giai đoạn c ực kỳ quan trọng vì đây là giai đoạn bước đầu xây dựng, bảo vệ và phát triển thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám, chống ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta trong gần một thế kỷ. Trong giai đoạn 9 năm (1946-1954) ấy, với việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây đụng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thục dân Pháp, và được sự giúp sức sau khi thất bại chiến dịch Biên Giới năm 1950. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Thực dân Pháp đã phải công nhận chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương. Nó khẳng định tinh thần, truyền thống yêu nước của dân tộc ta luôn vượt qua mọi khó khăn. Để hiểu được đường lối Đảng ta đưa ra trong giai đoạn (1946-1954) này chúng ta cần đi sâu: phân tích hoàn cảnh, mục tiêu, quá trình hình thành và phát triển đường lối, nội dung đường lối, tiến hành cu ộc kháng chiến. 3
  4. Đề tài này nhằm mục đích: phân tích kỹ hơn những đường lối của Đảng trong giai đoạn 1946-1954 đồng thời khẳng định sự quan trọng của Đảng trong thắng lợi của cuộc kháng chiến. Nó đã bảo vệ và phát triển thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp gần một thế kỉ . Đối tượng nghiên cứu: Chủ trương, Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng. Giới hạn: giai đoạn kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1954. Kết cấu bài: gồm 3 phần chính: Mở đầu, nội dung, kết luận. Trong đó phần nội dung được chia làm 3 phần. gồm 2 giai đoạn chính là: giai đoạn từ 1946 – 1950 và giai đoạn 1951 – 1954. và phần đánh giá thành quả và bài học kinh nghiệm. Kết hợp các nguồn tài liệu : Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ thị toàn Quốc kháng chiến,văn - kiện Đảng toàn tập, tập 8, NXB chính trị Quốc gia, 2000 Đảng cộng sản Việt Nam, chính cương lao động Việt - Nam,văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, NXB chính tri Quốc gia, 2000 Sách giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản - Việt Nam. Tham khảo tài liệu qua internet và các phương tiện truyền - thông. Tuy kết hợp một số nguồn tài liệu và sự hiểu biết nhưng chúng tôi khó tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để chúng tôi có được bài tiểu luận hoàn thiện hơn! 4
  5. B. Nội Dung I, Hoàn cảnh lịch sử Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta giành được chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mở ra thời đại mới, kỷ nguyên mới cho cách mạng Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam. Tuy vậy cũng bắt đầu những khó khăn mới trong việc quản lý cũng như xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng mới đạt được. Do đó, ngay sau cách mạng, việc bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh là những việc làm cấp thiết của Đảng để xây dựng và bảo vệ thành qu ả to lớn của cuộc cách mạng Tháng Tám. Nhờ những đường lối đúng đắn của Đảng đưa ra, chỉ một năm sau tức là năm 1946 chúng ta đã vượt qua những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát huy thành quả c ủa cuộc Cách Mạng Tháng Tám. Nhưng với bản chất thực dân tham lam, Pháp đã quay lại với quyết tâm cướp nước ta lần thứ 2. Ngay trong ngày 2-9-1945, trong không khí toàn Quốc hưởng ứng niềm vui làm chủ vệnh mệnh dân tộc, thực dân Pháp đã nổ súng vào đồng bào ta ở chợ Rẫy, Sài Gòn. Không những vậy, Pháp liên tục mở rộng địa bàn chiếm đóng, chúng đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào các địa điểm trọng yếu của ta, tàn sát đ ồng bào ta, quấy rối chính quyền cách mạng còn non trẻ của ta. Tháng 11-1946, Pháp mở cuộc tấn công và chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ngay tại Hà Nội. Về phía Đảng ta, Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với thực dân Pháp để gi ải quyết vấn đề bằng cách đàm phán thương lượng trong hòa bình. Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước đoạt vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19-12- 1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của Pháp có ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa 5
  6. hoãn không còn. “tiếp tục hòa hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước”. Do vậy trong thời điểm lịch sử phải quyết đoán giữa: đấu tranh bảo vệ hòa bình hoặc giao chính phủ cho Pháp, thất hứa với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mênh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19-12-1946 tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Toàn quốc nổi dậy! Rạng sáng ngày 20-12-1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài Tiếng Nói Việt Nam. Mở đầu thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian nan của dân tộc. Phân tích tình hình lúc đó nhận thấy, thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến thực dân Pháp xâm lược là nhân dân ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa do đó được nền tảng, sự ủng hộ và cổ vũ về tinh thần to lớn. Bên cạnh đó, sau những lần hòa hoãn với Pháp chúng ta đã có thời gian để chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt, nên về lâu dài ta có khả năng đánh thắng kẻ đi xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và ở các nước Đông Dương không dễ gì có thể khắc phục được ngay, đó cũng chính là nhân tố thuận lợi cho cách mạng ta. Tuy nhiên cũng phải kể đến những khó khăn của ta trước tình th ế đương thời, đó là sự tương quan lực lượng về quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận nền độc lập và ra tay giúp đỡ. Trong khi quân Pháp có vũ khí tối tân, đã chi ếm đóng được hai nước láng giềng Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng và nắm một số vị trí thiết yếu, ở một số đô thị, thành phố ở Miền Bắc. Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn đó là cơ sở để Đảng xác định đường lối cho cuộc kháng chiến. II, Đường lối lãnh đạo toàn quốc kháng chiến (1946-1950). 1,Phát động toàn Quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng a, Quyết định kháng chiến toàn quốc Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhi ều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội, chúng ngang nhiên 6
  7. chiếm ngân hàng trụ sở bộ Tài chính, bộ Giao thông. Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện Pháp đàm phán thương lượng. Ngày 18, 19-12-1946, Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư đòi chính phủ ta phải xóa bỏ công sự trong thành phố, giải giáp lực lượng vũ trang và đòi để chúng kiểm soát, giữ trật tự Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng sức mạnh quân sự nếu ta không thực hiện các yêu sách đó. Trước tình hình đó Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại Vạn Phúc, Hà Đông (do chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì) nhận định khả năng hòa hoãn đã hết và chỉ thị cho địa phương “ tất cả sẵn sàng”. Vào lúc 20h ngày 19-12-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đông loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20-12-1946, “lời kêu gọi toàn Quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi trên đài tiếng nói Việt Nam, kêu gọi đồng bào không phân biệt già, trẻ, trai, gái,.. không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo,.. cùng nhau đứng dậy cầm vũ khí kháng chiến đánh giặc. Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích đúng tình hình thuận lợi và khó khăn trong thời điểm này “lời kêu gọi toàn Quốc kháng chiến” đó là: ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên đất mình có chính nghĩa, có “ thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng có sự chuẩn bị về mọi mặt, về lâu dài như: Về chính trị, đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới, chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc Hội, hội đồng nhân dân các cấp được thành lập, hiến Pháp được thông qua. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương được tăng cường, các đoàn thế nhân dân, các cơ quan tư Pháp, tòa án, các công cụ chuyên chính như Bảo vệ Quốc đoàn cũng được xây dựng và mở rộng. Về kinh tế, văn hóa, nguy cơ nạn đói không trầm trọng them, tình trạng căng thẳng lương thực đã giảm, đời sống nhân dân được cải thiện. Ngân khố Quốc gia đã có 370 kg vàng và 60 tri ệu ti ền Đông dương. Bước đầu xây dựng nền tài chính độc lâp. Tệ nạn xã hội giảm đáng kể tình hình an ninh trật tự được bảo đảm. Thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và tại trong tình hình tại Đông dương không dễ gì có thể khắc phục được ngay. Nhưng trên đó cũng có những khó khăn như tương quan lực lượng quân sự. Tình thế ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Thực dân Pháp lại có những vũ khí tối 7
  8. tân, đã chiếm đóng được 2 nước Lào, Campuchia và các thành thị lớn ở miền Bắc…. Chính những đánh giá đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn đó là că cứ phân tích cho Đảng xác định tình hình t ương quan để tìm ra phương hướng đúng đắn và thích hợp cho cuộc kháng chiến. Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp. Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, chỉ thị về cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng ta đã nhận định kẻ thù chính nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam bộ, trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp với đấu tranh chính trị quân sự với ngoại giao đồng thời với cả đấu tranh tư tưởng để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam Trong tình hình đó, Ngày 19-10-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng mở hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ những nhận định “ không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp ”, hội nghị đề ra những chủ chương, biện Pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến mới. Ngày 5-11-1946, trong chỉ thị công việc khẩn cấp bấy giờ, Hồ Chí Minh đã nêu lên những trọng tâm của chiến lược toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào cuộc thắng lợi cuối cùng. b) Đường lối kháng chiến của Đảng: Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiên tập trung trong 3 văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày kháng chiến bùng nổ. Đó là văn kiện “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” ngày 19-12-1946 của chủ tịch Hồ Chí Minh, “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” ngày 22-12-1946 của ban thường vụ trung ương Đảng, tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh. Qua đó ta xác định nội dung của đường lối kháng chiến thể hiện qua các văn bản trên là: Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp đang dùng vũ lực cướp lại nước ta, giành độc lập tự do là sự thống nhất thực sự, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân. 8
  9. Cuộc kháng chiến chống Pháp là tiếp tục sự nghiệp của Cách mạng Tháng Tám, nên có tính chất dân tộc giải phóng. Lúc này, nhiệm vụ giải phóng là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách nhất. đông thời cuộc kháng chiến chống Pháp còn mang tính dân chủ" mới. Trong quá trình kháng chiến, phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ và lúc này là từng bước thực hiện “người cày có ruộng”. chăm lo đời sống nhân dân, tạo tiềm lực kinh tế vững chắc cho kháng chiến. củng cố vững chắc niềm tin vào Đảng, vào chính quyền nhà nước theo chủ nghĩa xã hội. Mục đích kháng chiến là: Kế tục và phát triển sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám, “ đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập”. Tính chất cuộc kháng chiến: “ cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài ”. “ là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Chính sách kháng chiến: “ liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với các nước Miên, Lào và các dân t ộc yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến,…Cuộc đấu tranh ấy phải dựa vào sức mình là chính, phải tự cấp tự túc về mọi mặt”. Chương trình nhiệm vụ kháng chiến: “ Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí… động viên nhân lực, vật lực, tài l ực thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo vệ lãnh thổ, thống nhất Bắc – Trung - Nam. Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc…”. Về phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Kháng chiến toàn dân: “ bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, Đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp ”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. Đây là chi ến lược quan tr ọng, 9
  10. cơ bản, cốt lõi nhất, xuyên suốt toàn bộ cuộc kháng chiến. Nhằm tạo ra sức mạnh to lớn đối trọng với bọn xâm lược Pháp. Dùng sức mạnh toàn dân để tiến hành kháng chiến ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Chủ trương được đề ra dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin “ cách mạng là sự nghiệp của toàn dân”. Kháng chiến toàn diện: chủ trương đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc trên mọi phương diện. Cụ thể: • Về chính trị, đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí, động viên nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước, đoàn kết với hai dân tộc Lào và Campuchia anh em, với nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, với các nước châu Á và các dân tộc bị áp bức, các dân tộc yêu chuộng hòa bình, dân chủ trên thế giới, cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bè bạn, củng cố chế độ cộng hòa dân chủ, lập ra Ủy ban kháng chiến các cấp. • Về quân sự, cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công; triệt để dùng “ du kích vận động chiến”, tiến công địch khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự, bảo vệ sức dân kháng chiến lâu bền. • Về kinh tế, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc, tự cấp, xây dựng kinh tế theo hướng “ vừa kháng chiến vừa kiến quốc”; gia sức phá kinh tế địch, không cho chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. • Về văn hóa, đánh đổ văn hóa nô dịch, ngu dân xâm lược c ủa thực dân Pháp, xây dựng nền văn hóa mới, xóa nạn mù chữ, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; động viên các nhà văn hóa tham gia kháng chiến. • Thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ: Là chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “ thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, thực hiện chủ trương này để làm cho chỗ yếu cơ bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày càng hạn chế; chỗ yếu của ta từng bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta đánh địch, đánh thắng địch. • Dựa vào sức mình là chính: “ phải tự cấp tự túc về mọi mặt” là dựa vào sức của toàn dân, vào đường lối của Đảng, vào các điều kiện nhân hòa, địa lợi, thiên thời của đất nước ta, đồng 10
  11. thời ta ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù. • Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, song kháng chiến nhất định thắng lợi. Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung này là đúng đắn là sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm truyền thống của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến là niềm tin, động lực, sức mạnh cho toàn thể nhân dân Việt Nam chiến đấu và đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn đinh và phát huy đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sự can thiệp c ủa đế qu ốc Mỹ. 2) Tiến hành kháng chiến giai đoạn 1946-1950 Ngay trong quá trình đàm phán ở hội nghị giữa ta và Pháp đang diễn ra ở Phongtennobo; Pháp đã mở rộng chiến tranh ra nhiều nơi. Ở chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, địch liên tục tiến công chiếm đóng vùng giải phóng. Tại Miền Bắc tháng 11-1946 chúng ta đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12 năm 1946 chúng đánh Đồ Sơn, Đình Lậm. Sau các vụ ném lựu đạn vào nhiều khu vực dân cư thành phố. T ừ giữa tháng 12 trở đi chúng đã gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Sự kiện tàn sát nhân dân ta tại Hàng Bùn và phố Yên Ninh tháng 12 năm 1946 chứng tỏ thực dân Pháp đã sẵn sàng bước sang cuộc phiêu lưu quân sự mới. Ngày 18, 19 tháng 12 nam 1946, ban thường vụ Trung ương Đảng họp do Hồ Chí Minh chủ trì đã nhận định tình hình và chỉ thị cho các điạ phương “ tất cả hãy sẵn sàng”. Chiều ngày 19-12-1946 , bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị vũ trang sẵn sàng chiến đấu theo thơi gian quy định. 20h, ngày 19-12-1946 mệnh lệnh chiến đấu bắt đầu. Quân dân thủ đô đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngay khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền đi khắp cả nước. “ lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, cùng với nguồn tư liệu khác như :“ chỉ thị toàn quốc kháng chiến”, “kháng chiến nhất định thắng lợi” đã nổi bật những vấn đề căn bản nhất về đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là : chỉ ra cuộc kháng chiến nhân dân ta đang tiên hành và sự tiếp nối con đường Cách Mạng Tháng Tám bằng hình thức con đường 11
  12. Cách mạng, chính nghĩa để bảo vệ độc lập và thông nhất dân tộc. Đáp lời kêu gọi cứu nước của chủ tịnh Hồ Chí Minh theo đường lối kháng chiến đúng đắn do Đảng vạch ra, thanh niên cả nước cùng toàn dân nhất tề đứng lên giết giăc cứu nước. Đất nước ta lúc này chuyển sang thời chiến và bắt đầu triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, các cơ quan chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. cả nước vùng dậy tạo nên một làn sóng kháng chiến mạnh mẽ quét tất cả nhưng nơi quân Pháp chiếm đóng, thể hiện tinh thần đoàn kết kháng chiến toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân của Đảng bước đầu phát triển và giành thắng lợi. Ở Miền Bắc tiêu biểu là cuộc chiến đấu của nhân dân Hà Nội. Với lòng căm thù giặc sôi sục, với ý chí bất khuất, kiên cường, quân dân và thanh niên thành phố đã tấn công quyết liệt vào quân cướp nước. chỉ trong vòng 2 tháng ( từ 19-12-1946 đến 17-2-1947) đã tiêu diệt 2000 tên địch, với 200 trận chiến đấu, phá hủy trên 100 xe quân sự trong đó có 22 xe tăng bọc thép, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay, bắn chìm 5 canô c ủa địch. Quân và dân Hà Nội đã đánh bại hoàn toàn âm mưu và kế hoạch của thực dân Pháp là “ đánh úp”các cơ quan đầu não của nhà nước cách mạng, bóp chết lực lượng vũ trang non trẻ của ta. Ta đã giữ giam chân địch suốt 60 ngày đêm tại chiến trường Hà Nội, bảo vệ an toàn các c ơ quan lãnh đạo của Đảng và nhân dân di tán ra vùng tự do. Đồng thời góp phần tạo điều kiện để cả nước chuẩn bị và tổ chức cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Bị thiệt hại nhiều mà không tiêu diệt được quân chủ lực của ta, tháng 5-1947 Quân Pháp tạm co về thành thị lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Địch có ý đồ tổ chức cuộc tấn công lớn, bất ngờ lên Việt Bắc. Do đó, Ngày 7-10-1947: thực dân Pháp huy động mười hai nghìn quân tinh nhuệ mở cuộc tấn công lên Việt Bắc, để tấn công vào cơ quan đầu não của ta. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, nhân dân ta đã kháng cự và đẩy lui nhiều cuộc càn quét của địch nhằm vào cơ quan đầu não của ta. Ngày 22-12- 1947 một phần lớn quân Pháp buộc phải rút khỏi Miền Bắc. Hơn 7000 tên xâm lược bị chết, bị thương và bị bắt, 10 máy bay, 10 tàu chi ến, hàng trăm xe và nhiều ca-nô bị tiêu diệt, nhiều vũ khí rơi vào tay quân ta. Chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp thất bại. Quân va dân ta đã chiến đấu anh dũng kịp thời chuyển sang phản công thắng lợi. Bộ đội ta trưởng thành một bước có trình độ tác chiến. Đảng có thêm kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh. Nhân dân phấn khởi tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. 12
  13. Đồng thời, Đảng chú trọng xây dựng thực lực kháng chiến về mọi mặt: Tháng 7-1948, Đảng ta đã tổ chức hội nghị văn hóa toàn quốc nhằm xây dựng nền văn hóa mới-nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Ngay 28-9-1948 ban thường vụ trung ương có chỉ thị gửi các cấp bộ Đảng về việc củng cố thanh niên cứu quốc, phát triển đoàn thanh niên Việt Nam để thống nhất mặt trận thanh niên. Chỉ thị Trung ương đã nêu nhiệm vụ cho các cấp bộ Đảng: Đoàn thanh niên cứu đoàn thể tập hợp các thanh niên yêu nước, tích cực cấp tiến, có tinh thần dân chủ rõ rệt, đoàn thanh niên cần phải đoàn kết, và tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp thanh niên trong cả nước. Năm 1946, Đảng đề ra dường lối giáo dục theo đường lối giáo dục mới. Lực lượng vũ trang dược chăm lo phát triển. Đến năm 1947, b ộ đội chủ lực đã phát triển cả về số lượng và chất lượng chuyên môn. Đảng quan tâm đến công tác đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế giới với cuộc kháng chiến , đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan, Miến Điện (Mianma) cử các đại biểu đi tham gia các hội nghị quan trọng của quốc tế và khu vực. Do chúng ta có những thắng lợi to l ớn trên mặt trận Quân sự, sau chiến thắng chiến dịch Biên Giới (năm 1950). Từ đó, Pháp đã công nhận nước Viêt Nam có chủ quyền riêng, nhà nước riêng, tiếng nói và ngôn ngữ riêng. Chính vì vây, đầu năm 1950, lần lượt các nước: Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân ch ủ nhân dân ở Đông Âu đã chính thức công nhận Nhà nước và đặt quan hệ ngoại giao với Viêt Nam. Qua đó bước đầu đã thấy những thành tựu đáng kể thể hiện sự đúng đắn trong đường lối kháng bảo vệ và xây dựng đất nước của Đảng và nhà nước ta lúc bấy giờ. Về phía địch, Từ những năm 1948, sau những thất bại trước và sau năm 1945, thực dân Pháp đã chuyển từ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sang chiến lược đánh lâu dài, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Viêt trị người Việt ”. Chúng tiến hành bình định vùng chiếm đóng, mở các cuộc hành quân nhỏ, nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến, mở rộng ngụy quân. Trước tình hình đó, Ban chấp hành trung ương Đảng họp mở rộng, đề ra nhiệm vụ và các biện Pháp về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, nhằm thúc đẩy kháng chiến lên giai đoạn mới. trong lúc này, Pháp đang gặp khó khăn rất nhiều ở Đông Dương, và các phong chào khởi nghĩa chiến tranh ở các nước có tư tưởng tiến bộ, nhất là dân tộc Pháp tiến 13
  14. bộ. Nhận ra tình hình đó, Đảng đã chuẩn bị cho giai đoạn mới: giai đoạn đẩy manh kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng. III, Trong giai đoạn kháng chiến 1951 – 1954. 1, Đường lối, phương hướng cách mạng. Đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới, với sự ủng hộ về tinh thần và giúp đỡ về vật chất của các nước Xã hội chủ nghĩa cho kháng chiến chống chủ nghĩa Đế quốc ở các nước Đông Dương là một nhân tố tích cực và cuộc kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Bên cạnh đó, nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao... Song l ợi d ụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ở trong nước, sau 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng, tình hình có những chuyển biến căn bản. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đưa nhân dân ta từ người mất nước lên người làm chủ đất nước. Nhưng do dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta l ại phải tiếp tục cầm súng đứng lên đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập. Qua hơn 5 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã liên tiếp thu được nhiều thắng lợi to lớn, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ngày càng sa lầy vào cuộc chiến khó tránh khỏi thất bại. Thế và lực của cuộc kháng chiến từ sau chiến thắng Biên giới có bước phát triển vượt bậc, kinh nghiệm chiến đấu của quân ta đã được trau dồi, thế trận chiến tranh toàn dân đã được củng cố hoàn thiện va phát triển. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến bước sang giai đo ạn mới lại có những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách để đưa cách mạng tiến lên, Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường l ối cách mạng, Đảng ta phải có những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình mới, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. Đáp ứng yêu cầu đó, Đảng cộng sản Đông Dương họp Đại hội đại biểu lần thứ hai từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951, tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chí Minh trình bày và ra nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành 3 Đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của 3 dân tộc đi tới thắng l ợi. Ở Việt 14
  15. Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam, mở ra giai đoạn mới với sự trưởng thành hơn về tổ chức cũng như đường lối của Đảng và thể hiện rõ quyết tâm kháng chiến thắng lợi bảo vệ đất nước. Sự trưởng thành và vững mạnh trong kháng chiến của Đảng thể hiện qua báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính trị trước đây của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung cơ bản là: - Tính chất xã hội: “xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Vi ệt Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp”. - Đối tượng cách mạng: cách mạng Việt Nam có 2 đ ối tượng: Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động. - Nhiệm vụ cách mạng: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc l ập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít v ới nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hòan thành giải phóng dân t ộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược”. - Động lực của cách mạng: gồm “ công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần t ử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức”. - Đặc điểm cách mạng: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân lao động làm động lực, công nông và lao đ ộng trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng đó 15
  16. không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa”. - Triển vọng của cách mạng: “ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”. - Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “ Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhi ệm v ụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây d ựng c ơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau”. - Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng : “Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân”. “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích c ủa Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”. - Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đ ẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi . - Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt – Trung – Xô và đoàn kết Việt – Miên – Lào. Đại hội cũng thảo luận và nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam. Điều lệ mới của Đảng bao gồm có phần mục đích, tôn chỉ, 13 chương và 71 điều. Điều lệ xác định rõ mục đích của Đảng là “phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiên lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”. Đ ảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một đảng vô sản kiểu mới, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt căn bản của Đảng; phê bình, tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu hoạt động của Đảng. 16
  17. Quang cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng.(ảnh: sưu tầm) Đường lối, chính sách của Đại hội thể hiện quyết tâm kháng chiến và đồng thời xây dựng đất nước, chăm lo đời sống cho nhân dân, lợi dụng sức dân để làm kháng chiến của Đảng ta. Bên cạnh đó vi ệc thực hiện ngoại giao, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, đoàn kết các nước láng giềng anh em nhằm tăng bạn bớt thù, tập trung vào nhiệm vụ kháng chiến của dân tộc. Đó là con đường đúng đắn và còn được bổ sung, phát triển qua các hội nghị Trung ương tiếp theo. Tại hội nghị trung ương Đảng lần thứ nhất (3/1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế và trong nước, nhấn m ạnh ch ủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, “ củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích”; “gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính”, “thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và góp vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp ”, “tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới”, “củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức”. Bồi dưỡng sức dân và đảm bảo cung cấp cho quân đội, thực hiện phương châm tác chiến là tiêu diệt địch, phát triển lực lượng ba thứ quân, tăng cường công tác địch vận. Hội nghị Trung ương lần thứ 2 ( tháng 9 – 1951) đã ra quyết định về tình hình và nhiệm vụ chung về công tác củng cố nội bộ, về nhiệm vụ kinh tế tài chính trước mắt. Hội nghị còn bàn về công tác vùng địch chiếm đóng. 17
  18. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 ( tháng 4 – 1952) đã quyết định chỉnh Đảng, chỉnh quân coi đó là nhiệm vụ trung tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội. Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 (1/1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân. Đến hội nghị Trung ương lần thứ 5 (11/1953), Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. “Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì làm sau”. “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai cấp đ ấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị phải thật đ ầy đ ủ, k ế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ…”. Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951 –1954. 2, Đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi: Tình hình kháng chiến từ năm 1951 diễn biến thay đổi l ớn yêu c ầu Đảng ta cần có sự chuẩn bị, xây dựng thực lực kháng chiến trên tất cả các mặt về chính trị, kinh tế, nông nghiệp và quân sự. Thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng đã lãnh đạo toàn quân toàn dân tăng cường đoàn kết, ra sức phát triển lực lượng về mọi mặt, củng cố hậu phương, phát triển cuộc đấu tranh trong vùng địch chiếm đóng và mở nhiều cuộc tiến công quân sự trên khắp các chiến trường. Đầu tháng 3 – 1951, Đại hội toàn quốc lần thống nhất Việt Minh và Liên Việt đã họp quyết định thống nhất hai tổ chức thành lập Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Lực lượng vũ trang đã trưởng thành về cả chính trị và tổ chức, đặc biệt là bộ đội chủ lực. Đảng chủ trương vũ trang toàn bộ và xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt (quân dân du kích, b ộ đ ội 18
  19. địa phương, bộ đội chủ lực), chú trọng chất lượng, đồng thời chú ý nâng cao giác ngộ giai cấp trong lực lượng, nâng cao sự hi ểu bi ết v ề đường lối kháng chiến, trình độ kĩ thuật, chiến thuật. Quân đội được tăng cường vũ khí, đạn dược, thuốc men. Năm 1949, thành lập đại đoàn 308, đến cuối năm 1952 đã xây dựng được 6 đại đoàn bộ binh, 1 đ ại đoàn công pháo, nhiều trung đoàn bộ binh độc lập và các liên khu vũ trang tập trung có khoảng 33 vạn người. Cuộc vận động chỉnh quân về chính trị và quân sự vào mùa hè năm 1953 đã nâng cao nhận th ức chính trị và trình độ kĩ thuật, chiến thuật của các cán bộ chiến sĩ. Công tác hậu cần được tăng cường, lương thực, vũ khí, thuốc men được bổ sung, đường xá được xây dựng thêm… Để bồi dưỡng sức dân, củng cố hậu phương kháng chiến, năm 1952, Đảng phát động tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm đạt kết quả tốt. Chỉ tính riêng từ liên khu V trở ra, sản lượng lương thực năm 1953 đạt 2,7 triệu tấn, nhà nước đã ban hành một số sắc l ệnh về thu ế nông nghiệp, thuế công thương, xuất khẩu … Trong gần một năm ( 1953 – 1954), chúng ta đã thực hiện 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở một số xã vùng tự do. Cải cách ruộng đất chỉ mới là thí điểm nên đã bộc lộ nhiều khuyết điểm mang tính giáo điều do chỉ đạo xử lý không đúng. Tuy vậy, chính sách triệt để giảm tô và chia ruộng đất cho dân cày đã động viên tinh thần cho nhân dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến cuộc Đông – Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Về xây dựng Đảng, cuộc vận động chỉnh Đảng trong 2 năm 1952, 1953 giúp cho cán bộ, Đảng viên quán triệt thêm đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu dài dựa vào sức mình là chính. Ngoài ra, Đảng tiến hành phát triển cơ sở Đảng trong lực lượng vũ trang, trong các làng, xã, xí nghiệp. Trong 2 năm 1948 – 1949, kết nạp hơn 50 v ạn Đảng viên. Đến đầu năm 1951, số lượng Đảng viên phát triển đến 76 vạn. Tuy nhiên kết quả chỉnh Đảng phần nào bị hạn chế do có những thiếu sót trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện. Để cứu vãn tình thế sau thất bại ở chiến dịch Biên giới, bọn hiếu chiến Pháp phải dựa vào sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ. Lợi dụng tình thế đó, đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào Đông Dương, vừa giúp Pháp vừa tìm cơ hội để hất cẳng Pháp. Với thế chủ động trên chiến trường, quân ta liên tiếp mở các chiến dịch: chiến dịch Trung du ( 12 – 1950), chiến dịch đường 18 ( 3 – 1951), chiến dịch Hà – Nam – Ninh ( 5 – 1951), … Tháng 10 – 1951, quân Pháp mở cuộc hành binh đánh chiếm thị xã Hòa Bình, hòng giành lại quyền chủ động trên chiến trường 19
  20. chính. Tận dụng cơ hội này, quân ta đã bao vây, tiến công chia cắt đồng thời đưa một bộ phận bộ đội chủ lực tiến vào sau lưng địch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ để tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá ngụy quyền, củng cố “ chính quyền nhân dân “. Những đòn tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và chiến tranh du kích đã phát triển lên một bước mới. Cuối tháng 2 – 1952, địch buộc phải rút lui chạy khỏi Hòa Bình, chiến dịch Hòa Bình kết thúc thắng lợi. Ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, mở rộng khu du kích liên hoàn từ Bắc Giang, Quảng Yên, Kiến An, Thái Bình đến Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông. Âm mưu giành lại thế chủ động của Pháp trên chiến trường chính trị bị thất bại hoàn toàn. Tháng 10 – 1952, thực hiện Nghị quyết Bộ chính trị, quân ta mở chiến dịch Tây Bắc. Sau 3 tháng chiến đấu ( từ ngày 4 – 10 đến 30 – 12 – 1952) quân ta đã tiêu diệt được 6000 tên địch, giải phóng đại bộ phận Tây Bắc, phá tan âm mưu “ Xứ Thái tự trị” của Pháp, củng cố đại đoàn kết dân tộc theo chủ trương của Đảng. Tháng 4 – 1953, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội giải phóng Lào mở chiến dịch thượng Lào, giải phóng Xiêng Khoảng, một phần tỉnh Sầm Nưa. Căn cứ kháng chiến thượng Lào nối li ền với vùng Tây Bắc Việt Nam, tạo thế uy hiếp mạnh đối với quân Pháp. Để giành một thắng lợi quân sự làm cơ sở cho một giải Pháp chính trị có “danh dự ” cho Pháp, tướng Nava được bổ nhiệm là tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Nava vạch ra một kế hoạch quân sự dựa trên sự nỗ lực cao nhất của chính phủ Pháp và sự viện trợ lớn nhất của Mỹ với một đội quân cơ động mạnh và phương tiện chiến tranh nhiều nhất. Căn cứ vào sự phân tích tình hình và âm mưu của địch, chủ trương quân sự của Trung ương đề ra trong Đông Xuân 1953 – 1954 là: Đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, đánh nơi địch sơ hở, giữ vững chủ động, buộc địch phải phân tán lực lượng, tiêu diệt địch và bảo toàn lực lượng của ta. Trong đó thành quả to lớn chứng minh cho sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua chiến thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khẳng định sức mạnh của quân và dân ta về mặt quân sự. Trong chiến dịch, Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, kho xăng, đạn dược, quân trang quân dụng, đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nơi được Pháp và Mỹ coi là “pháo đài không thể công phá”. Buộc Pháp phải thừa nhận thất bại của chúng tại Mặt trận Đông Dương, đưa Pháp lên 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2