intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thuyết trình: Lịch sử Vật lý

Chia sẻ: Dương Đăng Mạnh | Ngày: | Loại File: PPT | Số trang:49

154
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thuyết trình: Lịch sử Vật lý giới thiệu tới các bạn về sự khủng hoảng của Vật lý; sự ra đời của Vật lý (thuyết tương đối, thuyết lượng tử). Mời các bạn tham khảo bài thuyết trình để biết cách soạn thảo một bài thuyết trình hay cũng như biết rõ hơn về Lịch sử ngành Vật lý.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thuyết trình: Lịch sử Vật lý

  1. Sự khủng hoảng của Vật Lý và sự  ra đời của Vật Lý học hiện đại
  2. I.   Sự khủng hoảng của vật lý. II.  Sự ra đời của vật lý hiện đại. 1. Thuyết tương đối:   2. Thuyết lượng tử. IV.   Kết luận.
  3. I. SỰ KHỦNG HOẢNG CỦA VẬT LÝ:    Khái quát        Các thế kỉ XVII và XVIII là thế kỉ của cơ học Newton. Theo cơ học  Newton,  nếu  ta  biết  được  khối  lượng  của  của  từng  điểm  trong  cơ  hệ  (tọa độ, vận tốc của từng chất điểm tại một thời điểm bất kì chọn làm  thời điểm ban đầu), và biết được các nguyên nhân làm thay đổi trạng thái  đó (các lực tác dụng lên từng chất điểm), ta có thể áp dụng các định luật  của cơ học để xác định một cách đơn giá mọi trạng thái tương lai của cơ  hệ. Đó là nội dung của quyết định luận của cơ học Newton.         Laplaxơ cho rằng tất cả các hiện tượng  thiên nhiên (cơ, nhiệt, điện,  quang...), kể cả sự sống và hoạt động tinh thần của con người đều là sự  vận  động  của  cơ  hệ  bao  gồm  các  nguyên  tử  tuân  theo  các  định  luật  Newton.
  4.  Tuy nhiên, thực tế chứng tỏ rằng các định luật của cơ học Newton không  đủ khả năng giải thích mọi hiện tượng thiên nhiên.   Bước  sang  thế kỉ  XIX,  khi  nhiệt  động lực học và điện  động  lực  học  đã  được xây dựng, người ta thấy được rằng các quá trình nhiệt và điện từ  không thể quy được về các quá trình cơ học.  Vật  lý  cổ  điển  của  thế  kỉ  XIX  có  ba  thành  phần  chủ  yếu  gồm:  cơ  học,  nhiệt động lực học và điện động lực học. Thế giới vật chất không những  tuân theo những qui luật của cơ học Newton mà còn tuân theo những qui  luật của nhiệt động lực học, điện động lục học và tuân theo định luật bảo  toàn và chuyển hóa năng lượng. 
  5.  Vật lý cổ điển có những hạn chế của nó. Lúc đầu nó đã tuyệt đối hóa  khả  năng  cơ  học  Newton,  về  sau  nó  đã  tuyệt  đối  hóa  ý  nghĩa  và  khả  năng của chính bản thân mình. Chính và vậy mà nó rất khó chấp nhận  tính  thống  kê  của  các  hiện  tượng  nhiệt.  Nó  đã  tự  coi  mình  là  đã  hoàn  toàn  đủ  khả  năng  để  khảo  sát  và  giải  thích  mọi  hiện  tượng  của  thế  giới tự nhiên.   Tư tưởng siêu hình không cho phép vật lý học cổ điển quan niệm được  rằng thế giới vật chất là vô cùng phong phú và đa dạng, còn nhiều lĩnh  vực  hiện  tương  mà  nó  chưa  biết  hoặc  chưa  có  khả  năng  vói  tới.  Tư  tưởng đó đã dẫn đến cuộc khủng hoảng trong vật lý học đầu thế kỉ XX.
  6. Những quan niệm về ête:  )  Vào cuối thế kỷ XIX các nhà vật lý cho rằng sóng ánh sáng và sóng điện từ  lan truyền trong một môi trường đặc biệt gọi là ête có mặt khắp nơi trong  vũ trụ và bên trong các vật, và đứng yên trong không gian tuyệt đối.  Giữa thế kỷ XIX, Phiđô thực hiện một thí nghiệm để đo vận tốc ánh sáng  trong một chất lỏng chuyển động.   u: vận tốc ánh sáng trong chất lỏng đứng yên.  v: vận tốc vận tốc chất lỏng chuyển động.  n: chiết suất chất lỏng.  công thức này trái với công thức cộng vận tốc cổ điển    Phiđô nói rằng khi chất lỏng chuyển  động với vận tốc v so với  ête vũ trụ  đứng yên, thì ête thấm trong chất lỏng bị nó kéo theo một phần, nghĩa là kéo  theo với vận tốc: 
  7.       Cũng vào th   ời gian đó, Macxoen nhận xét rằng  khi đo  vận tốc ánh sáng, ta phải xác định khoảng thời gian để  ánh sáng truyền từ A đến B, rồi lại truyền ngược lại từ  B đến A mà không thể biết được thời gian của hai lần  đó có bằng nhau hay không. Để xác định  ảnh hưởng của  chuyển động của Trái Đất lên vận tốc ánh sáng, phải so  sánh  thời  gian  t1  để  ánh  sáng  truyền  xuôi  và  truyền  ngược  trên  quãng  đường  L  theo  phương  chuyển  động  của trái đất, với thời gian t2  để ánh sáng truyền xuôi và  truyền ngược trên quãng đường L đó, theo một phương  khác.  Về  nguyên  tắc  có  thể  dựng  được một thí nghiệm  như  vậy,  nhưng  độ  chính  xác  của  dụng  cụ  đo  phải  rất  cao, vào cỡ                           .Ông cho rằng khó có thể tạo ra  một dụng cụ như thế.
  8. •   Năm 1879 Maikenxơn (1852 – 1931) thực hiện công  trình khoa học đầu tiên của mình về cách đo vận tốc  ánh sáng theo phương pháp gương quay của Fucô .  •     Năm  1881  đã  thiết  kế  giao  thoa  kế  đầu  tiên  của  mình  gọi  là  giao  kế  Maikenxơn.  Ông  công  bố  kết  quả: không phát hiện được chuyển động tương đối  giữa trái đất và ête. Maikenxơn (1852 – 1931)
  9. Giao kế Maikenxơn Giao thoa kế Maikenxơn gồm 2 tấm gương phản chiếu và một tấm kính ngăn đôi  bán­phản  chiếu  nghiêng   một  góc   45°.  Tấm  kính  này  tách  chùm  tia  tới  làm  hai  chùm tia phân tán theo cánh tay của giao thoa kế, rồi mỗi chùm tia phản chiếu lên   một  trong  những   tấm  gương phản  hồi  và  trở  về  trên  tấm lam  ngăn  để  chúng  giao thoa.
  10.                  Năm 1892 Lorenxơ (1853 – 1928) đề xuất một cách giải  thích kết quả phủ định của thí nghiệm Maikenxơn. Ông cho  rằng trái đất chuyển động với vận tốc v = 30km/s so với  ête  đứng yên khi một nhánh của giao thoa kế được đặt theo  phương vuông góc với chiều dài của nó là l0. Khi quay nhánh  đó theo phương song song với các lực tương tác giữa các hạt  mang điện tích trong nhánh đó và các hạt ête làm cho nó bị co  lại và chiều dài của nó trờ thành Lorenxơ (1853 – 1928)                   v2 . Sự co đó vừa đủ để bù trừ sự chênh l l =ệch  quang trình c l0 1 − 2 ủa các  c tia sáng, khiến cho hình  ảnh giao thoa không thay đ ổi và ta  không  thể  phát  hiện  được  gió  ête  mặc  dù  nó  vẫn  thực  sự  tồn tại.         các nhà khoa học bối rối
  11.   Vật đen tuyệt đối :       Nhiều vật  ở nhiệt  độ khác nhau đặt chung trong một thể tích trống  rỗng và đóng kín (không trao đổi nhiệt với không gian bên ngoài) thì sau  một khoảng thời gian các vật đó sẽ có cùng một nhiệt độ như  nhau.   => giải thích:  giữa các vật có sự trao đổi năng lượng nhờ bức xạ mà không  có sự dịch chuyển của vật chất. Mỗi vật phát ra và hấp thụ các bức xạ  điện từ với rất nhiều bước sóng khác nhau. Vật nóng hơn thì phát xạ  nhiều hơn là hấp thụ, còn vật lạnh hơn thì hấp thụ nhiều hơn là phát  xạ. Khi đó mỗi vật bức xạ bao nhiêu năng lượng thì cũng hấp thụ bấy  nhiêu  năng  lượng,  hệ  đạt  trạng  thái  cân  bằng  nhiệt  động  lực  học  và  trạng thái đó được duy trì trong một thời gian dài vô hạn.
  12.               Năm 1860 Kiêcsôp (1824 – 1887) đưa ra khái niệm vật đen tuyệt đối.        Vật đen tuyệt đối là một vật có khả năng hấp thụ tất cả mọi bức xạ mà nó  nhận được. Vật đen tuyệt đối không có thật trong tự nhiên        Kiêcsôp đã chỉ ra cách tạo ra một vật có tính chất rất gần với vật đen tuyệt  đối, bằng cách dùng một bình kín chỉ có một lỗ nhỏ để “giam” trong đó tất cả các  bức xạ từ ngoài lọt vào trong bình qua lỗ nhỏ đó. Nếu đặt vật đen tuyệt đối đó  vào một máy điều nhiệt để giữ nó  ở nhiệt độ không đổi T và hướng lỗ nhỏ  của nó vào một máy đo, ta xác định được cường độ bức xạ toàn phần của vật  đen tuyệt đối  ở nhiệt độ T. Nếu giữa  lỗ nhỏ và máy đo  ta đặt những bộ lọc  thích hợp để chỉ cho những bức xạ có tần số λ  đi qua và đến máy đo, ta xác định  được cường độ bức xạ riêng của vật đen tuyệt đối ứng với tần số    và nhiệt  độ T.                                                  
  13.      Đường cong biễu diễn sự phụ thuộc của cường độ  bức xạ của vật đen tuyệt đối vào tần số bức xạ ở  những nhiệt độ khác nhau.       f (λ,T)  T3 > T2 > T1                                                                                              
  14. • Năm 1894 Vin (1864 – 1928) đã rút ra một định luật quan trọng: định luật  dịch chuyển: tích của nhiệt độ vật đen tuyệt đối với bước song ứng với  cường độ bức xạ cực đại là một lượng không đổi. • Năm 1896  Vin xây dựng được một công thức về sự phân bố năng lượng  trong  phổ  của  vật  đen  tuyệt  đối.    Khi  đối  chiếu  với  các  dữ  liệu  thực  nghiệm,  người  ta  thấy  rằng  ở  miền  tần  số  cao  nó  phù  hợp  với  thực  nghiệm,  nhưng  ở  miền  tần  số  thấp  năng  lượng  tính  theo  công  thức  đó  lớn lên vô cùng , trái với kết quả thực nghiệm.  
  15.               Năm 1900 công trình Rêlây (1842 – 1919). Ông coi vật đen tuyệt đối là một  cái hốc kín chứa đầy sóng điện từ là sóng đứng của các dao động tử. Mật  độ sóng đứng (số lượng sóng đứng trong một đơn vị thể tích) trong hốc có  tần số trong khoảng từ    đến    +d    là:              Mỗi sóng đứng có một năng lượng bất kì và năng lượng trung bình  ứng  với một sóng đứng là :                  k: 1,381. 10­23 J/K: hằng số Bônxơman        Mật độ năng lượng trong hốc ứng với các tần số trong khoảng từ    đến      +d   
  16.                        Về sau Ginxơ cũng đi đến công thức như trên bằng một con đường  khác, vì vậy công thức này được gọi là công thức Rêlây­Ginxơ .         Công thức này chỉ đúng với tần số nhỏ nhưng khi cho thì điều đó mâu  thuẫn với thực nghiệm.                 Sự  thất  bại  của  công  thức  Rêlây­Ginxơ  được  các  nhà  vật  lý  gọi  là  “thảm  họa  tử  ngoại”.  Lý  thuyết  và  thực  nghiệm  lại  hoàn  toàn  mâu  thuẫn  với  nhau  ở  mức  không  thể  khắc  phục.  Đây  là  một  trong  những  nguyên nhân quan trọng dẫn đến cuộc khủng hoảng vật lý học.
  17.          Nhiều điều khác nữa cũng làm các nhà khoa học bối rối: ho tới đầu thế kỷ XX chưa ai quan sát được phân tử, nguyên tử, electron  trong thực nghiệm. Việc khảo sát sự phóng xạ không cho biết nguồn gốc năng lượng của tia  ß và có vẻ như ở đây định luật bảo toàn năng lượng bị vi phạm.  ự phát hiện ra hiện tượng tỷ số e/m của các hạt tích điện giảm (tức là  khối lượng của chúng tăng) khi chúng chuyển động với vận tốc lớn đã  làm  lung  lay  khái  niệm  khối  lượng,  từ  lâu  được  coi  là  đặc  trưng  quan  trọng và  bất biến của vật chất.  ý thuyết đáng tin cậy của nhiệt động lực học mâu thuẫn nghiêm trọng  với những kết quả thực nghiệm khi khảo sát bức xạ của vật đen tuyệt 
  18.         Huân tước Kenvin vẫn lạc quan và coi thí nghiệm Maikenxơn và bức  xạ  của  vật  đen  tuyệt  đối chỉ là  hai  đám mây  đen trên bầu trời trong  xanh của vật lý học.   Trái lại, Poanhcare gọi tình trạng trên là “sự khủng hoảng của vật lí  học”.   Nhiều  nhà  vật  lý  đã  hoài  nghi  giả  thuyết  ête  và  khả  năng  của  giả  thuyết  đó  giải  quyết  các  vấn  đề  của  vật  lý  học.  Người  ta  bắt  đầu  nghi ngờ sự tồn tại của ête và cả của phân tử, nguyên tử, electron, tức  là các hiện tượng không quan sát trực tiếp được.         Thực tiễn phát triển của vật lý học thế kỷ XX sẽ chứng tỏ rằng quá  trình nhận  thức khoa  học là một quá trình liên tục và vững chắc, sự  khủng hoảng đã qua chỉ là một sự lầm lạc nhất thời.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2