Tiểu luận ca dao : Bằng Hữu Kim Ký Phú
lượt xem 3
download
Bài phú dài 150 câu của Nguyễn Đôn Phục dưới đây không phái là trường hợp cá bíệt - dạng tác phẩm thành văn có tên tác giả - được đưa vào cuốn sách này. mà rải rác đây đó bên cạnh đại đa số nhũng tác phẩm dân gián không tên kết tinh từ trí tuệ quân chúng- từng được chắt lọc qua thời gian. Còn có những bài ca dao,
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận ca dao : Bằng Hữu Kim Ký Phú
- Tiểu luận ca dao : Bằng Hữu Kim Ký Phú
- Bài phú dài 150 câu của Nguyễn Đôn Phục dưới đây không phái là trường hợp cá bíệt - dạng tác phẩm thành văn có tên tác giả - được đưa vào cuốn sách này. mà rải rác đây đó bên cạnh đại đa số nhũng tác phẩm dân gián không tên kết tinh từ trí tuệ quân chúng- từng được chắt lọc qua thời gian. Còn có những bài ca dao, bài vè... có mang tên tác giả. Ơ những trường hợp nhự thế. chúng tôi có chú thích Ở phần cuối trang để gìúp độc gìá biết rõ thêm nguồn xuất xứ. Người đọc bắt gặp Ớ bài Phú Bằng Hữu Kim Ký một kho ngôn ngữ dân gian gồm những tục ngữ. thành ngữ. phương ngôn cúa một vùng đất vô cùng phong phú, hàm súc về nội dung với tính triết lý và tính thẩm mỹ cao. đề cậ đến hầu hết các khía cạnh nhân sinh, từ tình yêu, tình cảm gia đình, tinh bè bạn đến tình yêu quê hương đất nước; từ phương cách đối nhân xử thế đến những quan niệm về đạo lý, về cái thiện và cái ác về cái cao thượng và cái thấp hèn của người đời v.v. Điều thú vị ở đây là lất cả những quan niệm những suy tư mang tính triết lý về đời, về người ấy đã được trí thức xuất thân từ cửa Khổng sân Trình chọn lọc từ khó tàng Văn học dân gian đem sắp xếp hệ thống lại một cách công phu trong bố cục
- của một bài phú có vần điệu có đối xứng theo luật bằng trắc vừa kết hợp được tính cổ điển nghiêm chỉnh và tính dân gian phóng khoáng thâm thúy mềm mại. Tác phầm Phú Bằng Hữu Kim Ký là một minh chứng sống động về sức sống bền vững của văn hóa dân gian trong đời sống tinh thần củạ dân tộc. (l) Tác giả : Nguyễn Đôn Phục, quê làng Phương Danh, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định, đỗ Cử nhân khoa quý dậu năm Tự Đức thứ 26 (1873). Phú Bằng Hữu Kim Ký Người trong trời đất, Học dõi thánh hiền. Sang hèn đã có mấy thiên, Thương ghét mặc dầu tình thế... . Cha nói ngang, quan nói hiếp, hiếp – ngang phận phải chịu lòn; Cú rằng có, vọ rằng không, không có đôi mỏ đôi chối. . Đất đã đắp, đắp cho nên núi, chín chầy phải gắng công lao . Đường dầu đi, đi dốc tới nơi, ngàn dặm chi nài lao khổ. . Tuy gần mực thì đen, gần đèn thì tỏ; song có thân phải dốc, có vóc phải toan. . Đừng quen người gậy múa vườn hoang, mà học kẻ trống qua nhà sấm.
- . Tài trí xem còn thấy chậm, hát xay Iúa, múa lại tắt đèn; phận duyên hỡi biết hèn, khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt. . Song mà khi này còn khi khác, mía sâu có đốt, nhà dột có nơi; muốn cho lòng đó tỏ lòng đây, chuông đánh mới kêu, đèn khêu mới sáng. . Mựa chớ đem lòng đen bạc, khá tua giữ dạ sắt đinh : Một con sâu khuấy rầu nồi canh, lầm lỡ đó đà thấy vậy. . Ba mươi cái răng đóng trăng cái lưỡi, hèn gì này phải lo âu . Miễn là mất lòng trước mà được lòng sau; khi một miệng kín mà chín miệng hở. . Cũng mong hiệp một nhà Tần Sở, thần cậy đa, đa cậy thần; Dễ muốn phân hai ngả Sâm Thương, Phật giả ni, ni giả Phật. . Khôn thì sống, mống thì chết, lời kia tục những thường rằng; Đầu trở xuống, cuống trở lên, lẽ ấy ai mà chẳng thấu. Thương nên tốt, ghét nên xấu, lành đôn gần, dữ lại đồn xa. : Gẫm cũng phường con ông cháu cha; phải chi nhà thuyền mượn lái mướn . . Người hiền xem tướng, rậm mày thì ắt cả lông; Đầy tớ kể công, cao ngày lại thêm dày kén. . Khó nhìn lời, côi nhìn lẻ, chẳng nói - nói thì thương; giàu đổi bạn, sang đổi hầu, không phô - phô hóa ghét. _ . Đời còn biết so hơn tính thiệt, đây bao nài kể việc xưa sau. . Đừng lo mụ vãi trọc đầu, chớ sợ con đò khát nước .
- . Trách là trách cưu giành ô thước, hiềm vì hiềm gởi bạ nhành dâu. Lươn đã cả kiếp lấm đầu, gà lại một nhà bôi mặt. . Vì con heo phải đèo khúc chuối, công phu đã chẳng so đo; liều nắm cải vãi vườn dâu, ngày khắc họa nên cây trái. . Nghĩ nào sợ chết thiêu cháy dái, hơi đâu lo làm đĩ thủng đồ. . Thà khi đầy tớ người khôn, hơn lúc quân sư đứa dại. . Bụng làm dạ chịu, có gian thì có ngoan; mũi dại lái mang, làm lớn ai cho làm láo. . Bến trong thì nhờ, bến nhơ thì chịu, nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong. . Ăn cơm mới nói chuyện cũ, kẻ thiếu việc người lại dư công. . Vì muốn cho bán thịt mua lòng, dễ tránh lúc đau chân há miệng. . Kiến ăn cá, cá rồi ăn kiến, mựa đừng ỷ thế ỷ thần, rồng lộn rắn, rắn lại lộn rồng, khuyên chớ rằng khôn rằng giỏi. . Cháo nấu dầu lòng suy nghĩ, đỗ cua thua thú đỗ mèo, cơm no lo việc đèo bòng, giờ mẹo trèo qua giờ tý. . Kìa cao lớn đã từng mấy nổi, khiến người thù để ba năm; Nọ rộng dài ước có bao lăm, xui kẻ lời phò tám sải. . . Mười hai bến dạ dầu dốc trải, bao nài lái mũi một đôi; Băm sáu nghề lòng nó muốn vui, phải gắng ngày ba, đêm bảy. Song còn nghĩ:
- . Rừng cao công gáy, em chị có ngàn; Đồng rộng gió luồn, vui buồn nhiều nỗi. . Một mặt hơn mười gói, nói là nói cho kêu; người sống bằng đống vàng, vì chăng có vì chỗ. . Ai cho nói vãi. thì lại nói vơ, hễ muốn ăn Phải lăn vô bếp. . Nơi sao ăn chẳng hết, nơi sao thết chẳng khắp. Nói với khôn không lại, nói với dại không cùng. . Đừng hung hăng như trâu húc nhà thần; mà lật đật như ma trật đám quải. . Suy đi nghĩ lại cơm mắm thấm về lâu; nhắm trước nhắm sau, bến hiên thuyền đậu. . Dạ gịữ dạ mựa đừng sợ lậu, nhà có vách, ngạch có tai; lòng dặn lòng đâu dám đơn sai, ăn coi nồi, ngồi coi hướng. . Chớ thấy của đời mơ tưởng, con trê cũng tiếc, con diếc cũng ham; Đừng cho miệng thế thị phi, bánh sáp trao đi, bảnh chì trao lại. . Trách mấy kẻ nhiều lời phải trái, nước lã khuấy nên hồ; ghét thay người học thói hàm hồ, bát ngô xô chẳng chết. . Bới lông tìm vết thế gian lắm chuyện sâu cay; thiên hạ mấy người xởi lởi ? . Đừng quen trục lợi, tham ván bán thuyền; phải nghĩ thân duyên, liệu cơm gắp mắm. . Lịch sự đủ điều lich sự, 1. để lỗ đeo hoa; đàn bà ba thứ đàn bà, mặt dường nào ngao dường ấy.
- . Tai nghe mắt thấy, chớ như ốc nọ mượn hồn; ăn ham chắc, mặc ham bền, mựa học mua trâuvẽ bóng. . Vì nhíêu sãi và cửa chùa không ai đóng; thà ít thầy mà đãy lại đầy thêm . Dẫu khoe cả vú lấp miệng em, cả hèm lấp miệng hũ; song cũng làm thầy đất ta, làm ma đất người. . Trải qua, nhiều sự nực cười; gẫm lại nhiều đường thắm thiết. . Cảm là cảm gà nuôi con vịt, chít chiu nào kẻ nâng niu; thương những thương cá bỏ giỏ cua, hiếp đáp nhiều bề tủi hổ . . Dễ chẳng muốn lời kia cặn kẽ, nóng súng – sung phải nổ, đau gỗ - gỗ phải kêu; song chi bằng lẽ nọ êm đềm, cơm mình ăn ngon, con mình dễ khiến. . Hầu mong cả tiếng, làm dâu nhà cả thế; làm rể nhà nhiều con; Lại sự vô duyên, bằng lông quăng chẳng đi, bằng chì quăng xa lắc. . Rượu chẳng say, chè say quá mức, môn không ngứa, ráy ngứa nỗi gì ? . Nói ra là sự vân vi : ấu sao tròn mà bồ hòn sao méo ? . Thiệt vậy chớ phòng khi dễ, lành làm thúng mà lủng cũng làm mê. . Bảy mươi chưa què, chớ khoe rằng trọn. . Cầm dấu sao khỏi dính tay, trách chi những lễ. . Ba mươi đời đĩ bợm thì mắc điếm thầy, . Rót nước phải toan chừa cặn, miễn đặng xíu tình.
- . Sao cho lèo lái phân minh, giỏ có quai, chài có chóp, chớ để tôm cá, lộn xộn, quân vô tướng hổ vô đầu . Dám đâu cử cá hành câu, mà lại tham mùi chè gắp. . Nhiều ít cũng là ơn nghĩa, miếng khi đói bằng gói khi no; thiệt hơn chớ khá so đo, một đời ta ba mươi đời nó. . Chớ ăn đằng sóng mà nói đằng gió, hễ một câu nhịn là chín câu lành. . Chẳng qua vì nghĩa vì tình, nào phải rằng vinh rằng nhục. . Đắng mà ruột thịt, chẳng chọc - chọc đau lòng; ngọt cũng người dưng, dầu thương - thương giúp miệng. . Lẽ dời đổi nay sông mai biển, khiến quên nơi bến đò xưa; chốn nương nhờ cội cả bóng cao, xin đừng phụ nơi đây dạ cũ. . Ăn chưa no, lo chưa tới, để đèo bòng cóc nọ leo thang; học còn It, chí eòn hèn, dám mong mỏi voi kia đẻ trứng. . Miễn có đức không sửc mà ăn; bằng chẳng biết lo, của kho cũng hết. . Phận mình biết, ăn bằng hôm, lo bằng mai, duyến ai nấy nhờ, tắm khi nào vuốt mặt khi ấy. . Tuy mừng đặng cá sau gặp buổi chợ; phòng khi trâu trắng mất mùa.
- . Biết đâu cao nấm mồ, trao duyên gởi phận; ta cũng bắt buồm coi gió, cầm lái dõi sông. . Dễ khoe khoang vợ cậy thế chồng; cũng may mắn con nhờ đức mẹ. . Liệu lời liệu lẽ, sao cho phải phải phân phân; dầu đặng ốâu chăng cũng mặc, không không có có. . Bởi vì cơm chúa nên múa tối ngày; chớ thấy ăn khoai vác mai chạy quấy. . Sao cho có chí, sắt mài rồi cũng nên kim chớ có lưu tâm, sành rán muốn cho ra mỡ. . Dầu mà không mợ thì chợ cũng đông; e khi có chồng như gông vào cổ. Đừng khinh dại ngộ, cha nó lú còn chú nó khôn; phải nghĩ nguồn cơn, mẹ tốt sữa nên con mới mập. . Chớ dớn dác cái cù cái đập, mà dựa hơi lũ cá lòng tong. . Nhẫy đồng vì bởi nước sông, có gió nên rung mõ. . Trách đòn gánh, nọ công trau rồi lại đè vai; sợ lũ gà kia vì vắng chủ đã toan bươi bếp. . Nói sao cho hết tình đời ai dại ai khôn, kể thử mà nghe lời thế tục, tục thanh thanh tục. . Ai chưa nhắm mắt về cùng mười đất chín trời, thì phải cắn răng với năm cha ba mẹ...
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo án bài Kể chuyện: Bà cháu - Tiếng việt 2 - GV. T.Tú Linh
4 p | 436 | 40
-
Giáo án tuần 1 bài Luyện từ và câu: Từ và câu - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 679 | 32
-
Giáo án tuần 2 bài Tập đọc: Làm việc thật là vui - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 889 | 32
-
Giáo án tuần 4 bài Tập đọc: Mít làm thơ (tiếp theo) - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 364 | 28
-
Bài 3: Ca dao, dân ca: Những câu hát về tình cảm gia đình - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
7 p | 1058 | 25
-
Giáo án tuần 8 bài Luyện từ và câu: Từ chỉ hoạt động, trạng thái - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 510 | 25
-
Giáo án tuần 8 bài Chính tả (Tập chép): Người mẹ hiền, ao/au, r/d/gi - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 373 | 20
-
Giáo án tuần 7 bài LTVC: Mở rộng vốn từ: từ ngữ về các môn học - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 346 | 19
-
Bài 10: Ôn tập truyện kí Việt Nam - Giáo án Ngữ văn 8
5 p | 585 | 18
-
Giáo án tuần 8 bài Chính tả (Nghe viết): Bàn tay dịu dàng, ao/au - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 265 | 14
-
Bài 2: Bố cục trong văn bản - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
7 p | 244 | 9
-
Nguyễn Công Hoan và thể tiểu thuyết
17 p | 85 | 6
-
Vẻ đẹp bi tráng của ngươi lính trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng
5 p | 125 | 5
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: "Sáng mát trong như sáng năm xưa... Những dòng sông đỏ nặng phù sa"
4 p | 140 | 5
-
Tài liệu: Tục hóa - Quay về để tiến tới
10 p | 58 | 5
-
Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: ''Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta'' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
9 p | 132 | 3
-
Phân tích hai tính cách trái ngược của Gia-ve và Giăng Van Giăng trong Người cầm quyền khôi phục uy quyền
3 p | 67 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn