intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Đánh giá hoạt động xúc tiến hỗn hợp của s-fone trong năm 2005 tại hà nội

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

97
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để nhận định về thị trường mạng điện thoại di động của Việt Nam trong năm 2005, hầu hết các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông và công nghệ thông tin của Việt Nam đều đưa ra một nhận xét chung :” Thị trường di động Việt Nam năm 2005: phát triển rất ấn tượng.” Theo con số điều tra của hãng nghiên cứu GFK (Đức ) thì thị trường di động Vịêt Nam đã đạt được con số tăng trưởng hết sức ấn tượng là 50% - đứng thứ 5 trên thế giới...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Đánh giá hoạt động xúc tiến hỗn hợp của s-fone trong năm 2005 tại hà nội

  1. TIỂU LUẬN: Đánh giá hoạt động xúc tiến hỗn hợp của s-fone trong năm 2005 tại hà nội.
  2. Lời mở đầu Để nhận định về thị trường mạng điện thoại di động của Việt Nam trong năm 2005, hầu hết các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông và công nghệ thông tin của Việt Nam đều đưa ra một nhận xét chung :” Thị trường di động Việt Nam năm 2005: phát triển rất ấn tượng.” Theo con số điều tra của hãng nghiên cứu GFK (Đức ) thì thị trường di động Vịêt Nam đã đạt được con số tăng trưởng hết sức ấn tượng là 50% - đứng thứ 5 trên thế giới ( chỉ sau các nước …).Nếu nhìn lại thị trường di động trong năm qua, ta có thể thấy rằng nhận định đó là hoàn toàn có cơ sở.Cách đây hơn một năm, số lượng thuê bao điện thoại di động tính trong cả nước mới chỉ dừn g lại ở con số kiêm tốn hơn 3 triệu với sự độc quyền trong việc cung cấp dịch vụ mạng di động của VNPT thông qua hai đại gia Vinaphone và Mobile phone. Thế mà cho đến cuối năm 2005, đầu năm 2006 , con số thống kê đ ã lên tới 5 triệu thuê bao - riêng VNPT đã có khoảng 4,5 triệu thuê bao trong đó Vinaphone chiếm khoảng 2,8 triệu thuê bao- và sự ra đời của hàng loạt các nhà cung cấp dịch vụ mạng di động mới như: Sfone, Viettel. Để có được những kết quả thần kỳ này, công chính một phần có lẽ sẽ thuộc về Sfone- nhà cung cấp mạng di động thứ hai tại Việt Nam. Sự ra đời của mạng điện thoại Sfone năm 2004 đã chính thức phá vỡ đi vị trí độc tôn trong bao năm qua của VNPT, được ví như “ làn gió mới”,” đòn bẩy” đánh dấu sự cạnh tranh thật sự trong ngành Viễn thông Việt Nam . Ra đời và chính thức đi vào hoạt động ngày 1/7/2004, mạng điện thoại di động CDMA đầu tiên tai Việt Nam với thương hiệu là Sfone là sự liên doanh giũa công ty Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn ( SPT) và công ty SLD Telecom ( nước ngoài) . Là nhà cung cấp dịch vụ đến sau phải chịu nhiều thách thức, Sfone một mặt phải tập trung mọi nỗ lực kinh doanh của mình vào việc xâm nhập vào thị trường di động Việt Nam thực chất mới chỉ bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển, còn nhiều khó khăn; mặt khác lại phải không ngừng đấu tranh phá vỡ thế độc quyền và sự cạnh tranh gay gắt của người khổng lồ VNPT . Để có thể kinh doanh có hiệu quả và đạt được những mục tiêu mà mình đã đề ra, trong
  3. năm 2005 vừa qua nhà cung cấp mạng điện thoại CDMA- Sfone đã tiến hành hàng loạt các hoạt động xúc tiến hỗn hợp với quy mô lớn, triệt để đạt được nhiều thành công. Và qua đó tôi muốn qua việc phân tích các hoạt động này để rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc sử dụng các công cụ xúc tiến hỗn hợp để làm tăng thị phần của doanh nghiệp. Do công ty STelecom-nhà cung cấp mạng điện thoại di động Sfone trong năm 2005 qua đã tiến hành rất nhiều các họat động xúc tién hỗn hợp khác nhạu trên phạm vi toàn quốc nên để đảm bảo tính chính xác về thông tin cũng n hư có thể phân tích các hoạt đó một cách cụ thể và sâu sắc, Phạm vi nghiên cứu của đề tài này sẽ chỉ nghiên cứu và đánh giá các hoạt động xúc tiến hỗn hợp mà Nhà cung cấp mạng điện thoại di động CDMA -Sfone đã tiến hành trong khoảng thời gian từ đầu năm 2005 cho tới đầu năm 2006 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Cũng giống như tên của bản đề án này, mục tiêu đầu tiên của đề án là phân tích và đánh giá các hoạt động xúc tiến hỗn hợp mà nhà cung cấp mạng điện thoại di động Sfone đã tiến hành thực hiện tại Thà nh phố Hà Nội trong năm 2005 đầu năm 2006 để từ đó có thể rút ra kết luận về các hoạt động xúc tiến đó có thành công hay không, đạt được những kết quả gì, những ưu điểm gì cần tiếp tục phát huy khai thác, những mặt hạn chế nào cần khắc phục, rút kinh nghiẹm. So sánh các hoạt động xúc tiến hỗn hợp của Sfone với các đối thủ cạnh tranh khác để từ đó có cái nhìn cụ thể và chính xác hơn về chính mạng điện thoại Sfone và các đối thủ , có cái nhìn tổng quan chính xác về sự bùng nổ cạnh tranh trong thị trường Bưu chính viễn thông Việt Nam
  4. Khái quát về hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong Marketing. I. 1. Xúc tiến hỗn hợp và vai trò của nó đối với hoạt động marketing của mỗi doanh nghiệp. Ngày nay hoạt động marketing hiện đại rất quan tâm đến các chiến lược xúc tiến hỗn hợp . Đây là một trong bốn nhóm công cụ chủ yếu của Marketing- Mix ( bao gồm sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến hỗn hợp) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh mà mình đã đề ra. Bản chất của các hoạt động xúc tiến chính là sự truyền tin về sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp tới khách hàng để thuyết phục họ mua. Vì vậy có thể gọi đây là các hoạt động truyền thông marketing. Marketing hiện đại ngày càng đòi hỏi nhiều thứ hơn, chứ không chỉ phát triển sản phẩm, định giá sao cho có sức hấp dẫn, và tạo điều kiện cho khách hàng mục tiêu có thể tiếp cận được với nó. Các công ty cũng phải thông tin cho khách hàng hiện có và tiềm ẩn. Mỗi công ty chắc chắn sẽ phải đóng vai trò người truyền tin và người khuyến mãi. Tuy nhiên nội dung truyền thông không thể là tuỳ tiện. Đối với hầu hết các công ty vấn đề không phải là có nên thông tin hay không mà là cần nói gì, nói cho ai và thường xuyên đến mức độ nào. Hoạt động xúc tiến hỗn hợp với các công cụ phổ biến của nó có vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược marketing của doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp có thể giới thiệu và khuyếch chương, tạo dựng lòng tin trong tâm chí khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp cũng như danh tiếng và hình ảnh của công ty. Nó giúp cho khách hàng nhận biết được giá trị của sản phẩm, khuyến khích và kich thích tiêu dùng bằng những lời mời mọc và hứa hẹn về những giá trị gia tăng mà ngưòi tiêu dùng sẽ nhận được. Từ đó đẩy nhanh lượng tiêu thụ, mở rộng thị phần giúp doanh nghiệp đạt được những mục tiêu mà mình đã đề ra. 2. Các công cụ xúc tiến hỗn hợp phổ biến.
  5. Những doanh nghiệp kinh doanh hiện đại thường tổ chức điều hành một hệ thống xúc tiến hỗn hợp phức tạp với một số dạng chủ yếu thường được sử dụng trong các chiến lược xúc tiến là : Quảng cáo: bao gồm mọi hình thức giới thiệu một cách gián tiếp và khuyếch - trương các ý tưởng, hàng hoá hoặc dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của chủ thể quảng cáo và chủ thể phải thanh toán mọi chi phí để thực hiện. Quảng cáo là một kiểu truyền thông có tính đại chúng, mang tính xã hội cao. Nó yêu cầu hàng hoá phải hợp pháp và được mọi người chấp nhận. Quảng cáo là một phương tiện có khả năng thuyết phục, tạo cơ hội cho người nhận tin so sánh thông tin với đối thủ cạnh tranh làm tăng thêm sức thuyết phục đối với khách hàng mục tiêu. Với ngôn ngữ quảng cáo phong phú , đa dạng, phương tiện quảng cáo phổ cập và tiện kợi, quảng cáo mở râ khả năng giới thiệu hàng hoá của doanh nghiệp, dịch vụ bán cũng như uy tín thế lực của doanh nghiệp một cách hiệu quả, trực diện. Tuy nhiên quảng cáo chỉ là hình thức thông tin trao đổi môt chiều: truyền tin về doanh nghiệp, hàng hoá và sản phẩm của doanh nghiệp tới khách hàng mà thôi Bán hàng trực tiếp: là hình thức giao tiếp trực tiếp với khách hàng triển vọng với - muạc đích bán được hàng. Nó là một công cụ hiệu quả nhất ở những giai đoạn hình thành sự ưa thích và niềm tin của người mua và giai đoạn ra quyết định mua trong quá trình mua hàng. Bán hàng cá nhân đòi hỏi có sự giao tiếp qua lại giữa hai hay nhiều người. Hai bên giao tiếp có thể nghiên cứu trực tiếp những nhu cầu vầ đặc điểm của nhau, đồng thời có sự linh hoạt trong giao tiếp cho phù hợp. Bán hàng trực tiếp hình thành nhiều mối quan thệ phong phú, đa dạng. Từ quan hệ mua bán thông thường đến quan hệ thân mật, thuỷ chung gần gũi giữa doanh nghiệp và khách hàng mà cách doanh nghiệp phải thiết lập theo quan điểm Marketing. Việc bán hàng trực tiếp khuyến khích người mua có những phản ứng đáp lại, thể hiện thông rtin phản hồi cho người bán vì người bán trực tiếp giao dịch, đã hình thành cơ chế thuận lợi, riêng biệt để người mua cung cấp thông tin ngược chiều và có phản ứng đáp lại.
  6. Khuyến mãi ( kích thích tiêu thụ ): là những hình thức thưởng trong thời gian - ngắn để khuyến kích dùng thử hay mua một sản phẩm hay dịch vụ. Xúc tiến bán có sử dụng nhiều phương tiện tác động trực tiếp, tạo ra lợi ích vật chất bổ sung cho khách hàng như phiếu mua hàng, các cuộc thi, sổ xố, trò vui có thưởng , quà tặng….. Chúng thu hút sự chú ý và thường xuyên cung cấp thông tin để dẫn khách hàng tới sử dụng thử sản phẩm. Chúng khuyến khích việc mua hàng nhờ đưa ra những lợi ích phụ thêm do mua hàng hoá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng các biện pháp kích thích tiêu thụ để có được phản ứng đáp lại của người mua sớm hơn. Tuy nhiên các hoạt động này chỉ phát huy tác dụng trong một thời gian ngắn và nếu sử dụng không cẩn thận có thể phản tác dụng. Marketing trực tiếp: là việc sử dụng thư, điện thoại và những công cụ gián tiếp - khác để thông tin cho những khách hàng hiện có và khách hàng tiềm n ăng hay yêu cầu họ có phản ứng đáp lại. Trong những năm gần đây marketing đã phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức khách nhau như marketing bằng catalog, marketing bằng thư trực tiếp, marketing qua điện thoại, marketing đáp ứng trực tiếp trên truyền hính, truyền thanh, trên báo chí hoặc mua hàng điện tử… Sự phát triển của nó trên thị trường người tiêu dùng chủ yếu là để đáp ứng xu hưóng chia nhỏ thị trường vì ngày càng có nhiều mẫu thị trường với những nhu cầu và sở thích hết sức cá biệt. Marketing trực tiếp mang lại cho khách hàng một số lợi ích. Nó sẽ giúp cho khách hàng tiết kiệm dược thời gian, đơn giản thuận tiện , không có sự phiền phức. Đồng thời marketing trực tiếp cũng mang lại một số lợi thế cho người bán. Nó cho phép lọc khách hàng triển vọng kỹ hơn, những tài liệu marketing trực tiếp có số người đọc nhiều hơn vì nó được đưa đến cho những khách hàng quan tâm đến nó, cho phép thử nghiệm những phương án phương tiện truỳên thông và thôn điệp để tìm kiếm phương thức chi phí hiệu quả cao nhất. Cuối cùng người làm marketing trực tiếp sẽ biết được các chiến dịch có sinh lợi hay không qua việc định lượng phản ứng đáp lại. Quan hệ công chúng: là các chương trình khác nhau được thiết kế nhằm đề cao - hay bảo vệ hình ảnh của một công ty hay những sản phẩm cụ thể của nó. Quan
  7. hệ công chúng ngày càng trở thành công cụ quan trọng và đắc lực bởi vì công ty không những phải có quan hệ tót với khách hàng , người cung ứng và các đại lý của mình mà còn phải có quan hệ với đông đảo công chúng quan tâm. Công chúng có thể gây trở ngại hay tạo thuận lợi cho khả năng công ty đạt được những mục tiêu của mình. Một công ty khôn ngoan phải có những biện pháp cụ thể đ ể giải quyết tốt các quan hệ với công chúng then chốt. Các công cụ chủ yếu trong marrketing quan hệ với công chúng th ường thực hiện là xuất bản phẩm, tổ chức các sự kiện, đưa tin tức, bài nói chuyện, các hoạt động công ích…. nhằm tạo ra sự biết đến hay thu hút sự chú ý đến sản phẩm, tổ chức, tạo dựng tín nhiệm, kích thích lực lượng bán hàng hay đại lý , đồng thời lại giảm bớt được chi phí khuýên mãi. Trên đây là năm công cụ xúc tiến hỗn hợp thường được sử dụng nhiều nhất. Trên thực tế Doanh nghiệp có thể lựa chọn chỉ sử dụng những công cụ xúc tiến phù hợp và được đánh giá là có hiệu quả nhất đối với mục tiêu kinh doanh của mình. Việc lựa chọn các công cụ này còn phụ thuộc vào kiểu loại thị trường mà doanh nhiệp tham gia kinh doanh, chiến lược kéo hay đẩy, các giai đoạn sống của chu kỳ sản phẩm…. Doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ này độc lập hay kết hợp với nhau. Khi sử dụng cần phối hợp một cách linh hoạt và sáng tạo sao cho phù hợp với thực tế thị trường. II.Thị trường điện thoại di động Hà nội- việt nam. 1. Khái quát chung về thị trường mạng điện thoại di động Việt Nam- Hà Nội. Thị trường mạng điện thoại di động Viêt Nam- Hà Nội là một thị trường còn rất non trẻ và đầy tiềm năng với gần mười năm phát triển. Phát súng đầu tiên khai phá thị trường này là sự ra đời của mạng điện thoại di động MobFone ( với mạng 090) năm 1994 và sau đó là mạng điện thoại Vinaphone năm 1996( với mạng 091). Trong đó cả hai mạng này đều thuộc sự quản lý của Tổng công ty Bưu chính và Viễn thông Việt Nam(VNPT ), được ví như hai anh em trong cùng một mái nhà,
  8. bắt tay cùng chia nhau miếng bánh là toàn bộ thị phần mạng di động Việt Nam. Mobi và Vinaphone hiện đang sử dụng hệ thống thông tin di động toàn cầu GMS dựa trên công nghệ TDMA hiện đang được sử dụng chủ yếu ở các nước châu Mỹ latinh, Canada, Đông á… Cho tới thời điểm này mạng di động Vinaphone đang là nhà cung cấp dịch vụ mạng di động lớn nhất tại Việt Nam với 2,8 triệu thuê bao và Mobi phone đứng thứ hai với 1,7 triệu thuê bao. Đặc biệt là “lợi thế” trong việc được nhà nước giao quản lý đường trục viễn thông quốc gia. Không có doanh nghiệp nào khi nhảy vào thị trường viễn thông lại không phải đấu nối qua đường trục quốc gia do VNPT quản lý. Và như thế, tuy không ai quy định song nghiễm nhiên VNPT được quyền “ làm khó” tất cả các doanh nghiệp khi tham gia thị trường viễn thông. Thị trường mạng di động khi đó là hầu như không có cạnh tranh. Do nhu cầu từ sự phát triển kinh tế ngày một cao và nhu cầu sử dụng điện thoại di động trong người dân gia tăng nên thị trường di động Việt Nam đã có những bước tăng trưởng nhất định song vẫn còn ở tốc độ thấp, giá cước dịch vụ cao so với thế giới và có rất ít các dịch vụ giá trị gia tăng cho khách hàng. Ngày 1/7/2003 mạng điện thoại di động Sfone chính thức đi vào hoạt động, xoá bỏ sự độc quyền trong kinh doanh mạng di động của VNPT. Sfone là tên thương hiệu của dịch vụ mạng điện thoại di động CDMA do Trung tâm điện thoại di động CDMA mang tên STelecom cung cấp với mã đầu là 095. Sự ra đời của mạng điện thoại Sfone khi đó là một sự kiện có ý nghĩa đột phá đối với thị trường viễn thông Việt Nam, đánh dấu thời kỳ phát triển mạnh mẽ và tạo ra nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng Việt Nam. Sau hơn một năm giưỡi đi vào hoạt động, hiện nay Sfone đang có gần 180 nghìn thuê bao và trở thành nhà cung cấp dịch vụ lớn thứ tư tại Việt Nam. Nhà cung cấp dịch vụ mạng di động chính thức đi vào hoạt động gần đây nhất tại Vịêt Nam là Viettel, ngày 15/10/2004. Viettel Mobile là mạng điện thoại di động của Công ty Viễn thông Quân đội, sử dụng công nghệ GMS có vùng phủ sóng trên toàn quốc, đi thẳng vào công nghệ 2,5G. Sự ra đời của mạng Viettel đã
  9. khuấy động và tạo nên sự cạnh tranh thật sự quyết liệt giữa các nhà khai thác dịch vụ thông tin di động Việt Nam. Chỉ sau hơn ba tháng chính thức triển khai dịch vụ, Viettel đã đạt được con số hơn 200 nghìn thuê bao- một sự tăng trưởng thần kỳ mà Sfone phải phấn đấu trong 1 năm rưỡi mới gần đạt được và là nhà cung cấp dịch vụ lớn thứ 3 tại Việt Nam. Sẽ thật là thiếu sót nếu không nhắc tới City-phone - một mạng điện thoại di động nội vùng tại địa bàn Hà Nội với công nghệ ….. cùng thuộc sự quản lý của VNPT, City phone hiện đang có khoảng 167nghìn thuê bao. Mặc dù là mạng điện thoại nội vùng , chỉ có phạm vi phủ sóng trong địa bàn thành phố Hà Nội song mạng điện thoại Cityphone cũng đang có những bước phát triển mạnh mẽ do có nhiều ưu điểm nổi bật như: cước phí rất rẻ, có nhiều chương trình khuyến mãi lớn, máy điện thoại di động giá thấp … Như vậy là tính cho đến thời điểm này trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có 6 nhà khai thác dịch vụ thông tin di động thuộc 4 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động bao gồm: Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam( VNPT) với 3 mạng: Vinaphone, MobiFone, Cityphone; Công ty cổ phần bưu chính viễn thông Sài Gòn( Saigon Postel) với mạng SFone; Công ty viễn thông Quân Đội( Viettel) với mạng Viettel; Côngty cổ phần viễn thông Hà Nội( Hanoi Telecom); Công ty viễn thông điện lực( VP Telecom) hứa hẹn những cuộc ganh đua quyết liệt trong những năm tới, mà kết quả chắc chắn rằng sẽ là một thị trường thông tin di động đa đạng và có tinh cạnh tranh cao sẽ được hình thành, mang lại nhiều lợi ích cho nguời tiêu dùng. 2. Sự xâm nhập của Sfone vào thị trường Hà Nội- Việt Nam. Cơ hội và những thách thức. Ngày 1/7/2004mạng điện thoại di động SFone chính thức đi vào hoạt động. SFone là tên thương hiệu của dịch vụ mạng di động CDMA do Trung tâm điện thoại di động CDMA mang tên STelecom cung cấp. Đây là d ự án hợp tác giữa Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn ( Saigon Postel) và công
  10. ty SLD( được thành lập tại Singapore gồm các thành viên SK Telelcom, LG Electronics và Dong A Elecomm) theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. SFone là mạng điện thoại di động đầu tiên tại VN có sử dụng công nghệ CDMA 2000- 1x tia hồng ngoại với tốc độ sử lý 153kb/ giây. Để sử dụng mạng điện thoại di động CDMA, người dùng phải trang bị thiết bị đầu cuối phù hợp với công nghệ của mạng. Mục tiêu của mạng điện thoại di động Sfone là hợp tác xây dựng, khai thác và phát triển mạng và cung cấp dịch vụ thông tin di động tế bào vô tuyến cố định vá các dịch vụ viễn thông khác bằng công nghệ CDMA trên băng tần 800 MHZ, trên toàn lãnh thổ VN. Đồng thời dự định mạng sẽ được nâng cấp lên mạng thông tin di động thế hệ thứ 3 (3G ) . Cung cấp các dịch vụ thoại và các dịch vụ giá trị gia tăng khác trên mạng điện thoại di dộng như: fax, truyền số liệu, các cuộc gọi đường dài quốc tế, truy cập Intẻnet trên phạm vi toàn quốc.... Hiện nay mạng di động Sfone đã phủ sóng được 13 tỉnh thành trên toàn quốc (bao gồm: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh tại vùng một và TP HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang tại vùng hai ) với hai trọng điểm kinh tế là Hà Nội, TP HCM, 104 trạm thu phát sóng và trong tương lai sẽ phủ sóng toàn quốc. Sfone dự kiến sẽ cung cấp dịch vụ ít nhất cho 700.000 đến 1000.000 thuê bao di động CDMA với tổng mức vốn đầu tư cho dự án trong giai đoạn đầu là 229 triệu đô la Mỹ, bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu đông. Sự ra đời của mạng điện thoại di động Sfone đươc ví như “ làn gió mới” thổi vào thị trường viễn thông VN, phá vỡ thế độc tôn của VNPT trong gần một chục năm qua. Đồng thời đánh dấu sự bùng nổ của các nhà cung cấp dịch vụ mạng, cạnh trong ngành thực sự bắt đầu. Chưa bao giờ thị trường di động VN lại phát triển mạnh mẽ và đạt đ ược nhiều thành tụi như trong thời gian qua: trong vòng hơn một năm từ tháng 8/2003 cho đến cuối tháng 12/2004, theo thống kê số lượng thuê bao di động đã tăng từ 3,5 triệu lên gần 5 triệu, mức độ tăng trưởng thị trường ngành đạt tốc độ kỷ lục 50%- đứng thứ 5 trên thế giới.
  11. Với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ mạng di động thứ 2 xâm nhập vào thị trường Việt Nam, SFone đang đứng trước những cơ hội hết sức hấp dẫn. Trước hết là ở giai đoạn này, thị trường viễn thông Việt Nam đ ang bước vào một giai đoạn phát triển mới với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Cho đến thời điểm đầu năm 2005 tại nước ta đã có gần 10,3 triệu máy điện thoại tương đương với 12,56 máy trên 100 dân. Trong đó, số thuê bao ĐTDD chiếm khoảng 45% tổng số máy điện thoại trên cả n ước so với 55% của điện thoại cố định. Tỷ lệ người sử dụng ĐTDĐ tại Việt Nam mới chỉ chiếm 4% trên tổng số dân( 80 triệu người) song tốc độ tăng trưởng thì rất mạnh mẽ, nhiều bản nghiên cứu cho thấy rất có thể sẽ bùng nổ trong thời gian tới. Theo thống kê của VMS, hiện nay tốc độ tăng trưởng thuê bao di động trong một ngày bằng tốc độ tăng trưởng của 3 tháng ở thời điểm 1996. Không những vậy ngành công nghiệp này còn rất nhiều tiềm năng để phát triển khi mà dân số Việt Nam hiện nay đã đạt đến con số 80 triệu dân, trong khi đó tỷ lệ người dùng ĐTDĐ thì còn rất khiêm tốn là 5máy/ 100 người. Và như vậy cũng đồng nghĩa với việc SFone đang đứng trước cơ hội lớn có thể nhanh chóng xâm nhập vào thị trường nước ta và mở rông thị phần, thu hút thuê bao để có thể đạt được mục tiêu của mình là 1 triệu thuê bao. Ngoài ra, Sfone còn có một ưu thế tích cực hơn hẳn những nhà cung cấp dịch vụ mạng di đ ộng tại Việt Nam hiện nay- xuất phát từ nội lực chủ quan của hãng, đó là SFone là mạng điện thoại di động đầu tiên tại Việt Nam có sử dụng công nghệ CDMA 2000-1x tia hồng ngoại tiên tiến trên thế giới. Với công nghệ CDMA này, tốc độ truyền dữ liệu hiện giờ là 153kbit/ giây và có thể lên tới 307kbit/ giây trong tương lai. Cần nói thêm rằng việc tryuền dữ liệu như vậy không hề phải hi sinh băng thông dành cho thoại, tạo khả năng kết nối liên tục. Đối với mạng SFone, hiệu quả sử dụng tần số của công nghệ CDMA 2000-1x cho phép hệ thống có dung lượng gấp 4-6 lần so với các mạng GSM mà đối thủ cạnh tranh đang cung cấp. Theo các chuyên gia quốc tế, cùng một đơn vị băng thông trong cùng một phạm vi phủ sóng thì CDMA 2000-1x sẽ phục vụ tốt hơn từ 2450343 cuộc gọi trong khi GSM chỉ phục vụ từ 40-60 cuộc gọi. Đây có thể coi là một thế mạnh chủ yếu của SFone, đặc biệt là tại thị trường
  12. VIệt Nam vào thời điểm đó- khi mà VNPT vẫn còn là nhà cung cấp dịch vụ mạng độc quyền, do vậy vẫn chưa chú ý tới việc phát triển và nâng cấp chất l ương đường truyền, khiến cho người tiêu dùng gặp phải rất nhiều sự cố mạng như nghẽn mạng, bị mất số… gây phiền phức- đặc biệt là vào những giờ cao điểm hay dịp lễ tết. Bên cạnh những cơ hội lớn, hấp dẫn thì SFone cũng gặp phải một số chở ngại thách thức, đòi hỏi nhiều nỗ lực. Thách thức đầu tiên mà SFone gặp phải đó là việc phải phụ thuộc và chịu sự “ chèn ép” của VNPT. Do lợi thế được quản lý đường trục viễn thông quốc qia, lại chi phối hầu như toàn bộ thị trường viễn thông nên VNPT nghiễm nhiên được quyền “ làm khó” mọi doanh nghiệp mới. Điển hình nhất là trường hợp SFone xin được kết nối với 2 mạng là Vinaphone và Mobifone. Trong khi VNPT nêu những lý do kỹ thuật về mạng GSM và CDMA là không tương thích và không cho kết nối thì mạng Cityphone( cũng là mạng …. Khó tương thích, nhưng của VNPT) thì lại được kết nối ngay. Phải mất đến một năm sau, đến tháng 7/2004 thì SFone mới thực sự kết nối hoàn toàn với Vina và Mobi. Cũng với lý do kỹ thuật, VNPT không cho SFone đấu nối trực tiếp với tổng đài chuyển mạch khép mà phải qua một tổng đài trung gian do VNPT quản lý. Cước phí qua tổng đài trung gian này là 250đồng/phút và mỗi tháng SFone cho biết là họ phải đóng góp thêm gần 2 tỷ đồng cho tổng đài trung gian này. Theo các chuyên gia thì với trình độ kỹ thuật như ngày nay, SFone có thể đấu nối trực tiếp mà không cần phải qua tổng đài trung gian. SFone đã trình bày vấn đề đó với VNPT và cũng nhờ Bộ bưu chính viễn thông can thiệp, nhưng hiện giờ vẫn chưa có hồi âm. Như vậy là 2 trong 4 công cụ của marketing mix là giá và phân phối đều không thể chiển khai theo ý muốn. Một thách thức nữa mà SFone gặp phải khi xâm nhập vào thị trường nước ta đó là do SFone là đơn vị đầu tiên sử dụng công nghệ CDMA- khi đó còn rất mới lạ đối với người tiêu dùng Việt Nam. Hơn nữa để sử dụng được mạng CDMA thì người dùng lại phải trang bị thiết bị đầu cuối cho phù hợp với công nghệ của mạng. Có nghĩa là nếu sử dụng mạng CDMA của SFone thì người tiêu dùng sẽ không thể lựa chọn sử dụng những máy điện thoại di
  13. động thời trang của một số hãng nổi tiếng như: Nokia, Samsung, Motorola… vốn rất được người tiêu dùng ưa chuộm. Cần phải có thời gian và công thêm nhiều nỗ lực từ phía nhà cung cấp dịch vụ di động SFone thì ngưòi Việt Nam mới có thể chấp nhận và tự tin sử dụng công nghệ này. Có thể nói trong giai đoạn này, các hoạt động xúc tiến hỗn hợp và những công cụ đi kèm của nó sẽ là phương án tốt nhất để có thể hạn chế được mặt bất lợi mà SFone đang phải đối mặt. Chỉ có tăng cường các hoạt động xúc tiến, thực hiện chúng thật sáng tạo và hiẹu quả thì SFone mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh và đạt được những mục tiêu kinh doanh mà mình đã đề ra. III. Các hoạt động xúc tiến hỗn hợp SFone đã tiến hành trong năm 2004, đầu năm 2005 tại địa bàn Hà Nội. 1. Các hoạt động xúc tiến hỗn hợp đã tiến hành trong thời gian qua. a) Quảng cáo. Vào thời điểm đầu năm 2005, khi mạng điện thoại di động Sfone mới bắt đầu đi vào hoạt động được vài tháng thì quảng cáo là một công cụ có một vai trò hết sức quan trọng trong chuỗi công cụ xúc tiến mà doanh nghiệp đã tiến hành. Hoạt động quảng cáo của Sfone nhằm giới thiệu và quảng bá hình ảnh của công ty STelecom- nhà cung cấp dịch vụ mạng điện thoại di động CDMA với thương hiệu Sfone tới toàn bộ người tiêu dùng trên thị trường; giới thiệu và tạo dựng lòng tin, sự tin dùng cho khách hàng về một công nghệ mạng điện thoại hoàn toàn mới lần đầu tiên có mặt tại VN đồng thời đưa ra những thông điệp mời chào người tiêu dùng sử dụng dich vụ của hãng. Các phương tiện truyền thông mà Sfone đã sử dụng: Báo chí: do tính chất công nghệ- hiện đại- cập nhật của dịch vụ nên - báo chí là phương tiện được sử dụng nhiều nhất. Sfone tiến hành quảng cáo trên các báo uy tín có số lượng đ ộc giả cao nh ư Sài Gòn
  14. tiếp thị, Hà Nội mới, các tạp chí thời trang và các báo chuyên ngành về công nghệ- viễn thông . Tần suất đăng quảng cáo tuỳ thuộc vào từng đợt chiến dịch khuyến mãi hoặc do tính chất của từng loại báo. VD như Hoa Học Trò là tờ báo dành cho đối tượng thanh thiếu niên tuổi từ 12 đến 24 có số lượng đọc giả rất lớn, là một trong những nhóm khách hàng mục tiêu chính của công ty nên tần suất đăng quảng cáo là định kỳ ở mọi số báo kéo dài trong một khoảng thời gian dài. Còn đối với một số tạp chí thời trang như: Mốt, Đẹp, Thời trang trẻ… thì chỉ tiến hành quảng cáo vào những đợt chiến dịch hoặc là quảng cáo nhắc lại với tần suất thấp. Để quảng cáo trên phương tiện báo chí, SFone có 2 hình thức. Trong thời gian đầu( năm 2005) thông điệp quảng cáo thường là tranh ảnh giới thiệu về các chương trình khuyến mãi hoặc quảng bá cho thương hiệu SFone. Cho đến đầu năm 2005 trở lại đây, Sfone bắt đầu đưa ra một xeri quảng cáo cho các gói dịch vụ mà mình cung cấp dưới hình thức là các đoạn chuyện tranh. Tuy nhiên theo một số nhà phân tích chuyên nghiệp thì loại thông điệp quảng cáo này không đạt hiệu quả cho lắm bởi nội dung thông điệp dài, rắc rối và màu sắc vàng chủ đạo gây cảm giác tối, khó đọc. - Truyền hình: Vào khoảng thời gian đầu năm 2004 tần suất phát quảng cáo tương đối lớn, khoảng 6-8 lần/ 1 ngày, chủ yếu phát vào giờ cao điểm có nhiều khán giả. Nội dung quảng cáo giới thiệu về thương hiệu Sfone và loại hình dịch vụ mạng điện thoại di động do Sfone cung cấp. Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2005 trở lại đây tần suất phát quảng cáo tăng dần, thông tin chủ yếu về chương trình khuyến mãi lớn nhất trong năm “ điện thoại trao tay” và chùm quảng cáo về một loại dịch vụ mạng dành riêng cho nh ững ngưòi thân tên là Sfone Free One. Những quảng cáo này đã đánh đúng vào tâm lý của một nhóm đông khách hàng luôn có nhu cầu nói chuyện dài và tần suất nhiều với những người thân, làm cho họ hiểu được tiện ích của việc sử
  15. dụng dịch vụ và tạo nên hứng thú trong việc sử dụng sản phẩm. Đây được đánh giá là một quảng cáo tương đối thành công của Sfone và có tác dụng tốt trong việc khích thích đăng ký thuê bao. - Quảng cáo ngoài trời: tại Hà Nội, loại phương tiện truyền thông này chưa được khai thác một cách triệt để, sử dụng phổ biến. Tại một vài trung tâm thương mại lớn của thành phố như: Trung tâm thương mại Tràng Tiền, TTTM VKO, tháp đôi Vincom có treo những băng rôn áp phích lớn quảng cáo cho chương trình” điện thoại trao tay”. Tuy nhiên loại hình quảng cáo này có thể nói là vẫn chưa đươc khai thác một cách cụ thể nên chưa tạo được hiệu quả tthích ứng. Người tiêu dùng nhận biết được thông điệp quảng cáo chủ yếu là qua quảng cáo trê n truyền hình, báo chí, các loại tờ rơi áp phích và các băng rôn quảng cáo trừn bày tại các của hàng bày bán sản phẩm. Thông điệp quảng cáo của Sfone : “ Sfone- nghe là thấy”. Đây là một lời thông điệp hết sức ngắn gọn nhưng xúc tích. Nó đã nêu lên đặc tính nổi trội trong dịch vụ di động mà Sfone cung cấp đồng thời cũng là lời thông điệp mà công ty muốn giới thiệu với người tiêu dùng: chất lượng cuộc đàm thoại của Sfone rất tốt, chân thực. Nó hiệu quả đến mức mà chỉ cần lắng nghe là cũng có thể cảm nhận được sự việc như được trực tiếp thấy. Trong năm vừa qua, thương hiệu SFone đã được truyền thông rất hiệu quả và mở rộng được vị thế trong tâm chí khách hàng. b) Khuyến mãi ( khích thích tiêu thụ ). Có thể nói khuyến mãi là công cụ xúc tiến hỗn hợp được Sfone sử dụng triệt để và tạo được hiệu quả lớn nhất trong thời gian vừa qua. Trong lịch sử phát triển của thị trường di động Việt Nam cho đến nay, các hãng cung cấp dịch vụ mạng điện thoại di động chưa từng bao giờ tiến hành một loạt các chương trình khuyền mãi với quy mô lớn và kéo dài như những chương trình mà Sfone đang áp dụng.
  16. - Đầu tiên, Nhân kỷ niệm một năm hoạt động, nhà cung cấp dịch vụ thông tin di động công nghệ CDMA – thương hiệu S-Fone chính thức công bố một chương trình mới với tên gọi “Điện thoại trao tay” bắt đầu từ ngày 1/7/2005 cho tất cả các thuê bao di động hoà mạng mới của S-Fone. S-Fone xem đây là một chương trình mới, tiếp nối và song song với hàng loạt các chương trình khuyến mãi, chăm sóc khách hàng nhằm thể hiện những nõ lực của nhà cung cấp dịch vụ đối với người tiều dùng sử dụng mạng di động S-Fone. “Điện thoại trao tay” có thể xem như một chương trình khuyến mãi đặc biệt với nội dung chính là tạo cơ hội cho khách hàng dùng điện thoại di động mà không phải chi thêm tiền mua sắm máy với thể thức như sau: + Khách hàng cam kết sử dụng dịch vụ S-Fone liên tục trong vòng từ 6- 12 tháng tuỳ theo loại máy mà người tiêu dùng đăng ký sử dụng. + Khách hàng sẽ phải trả trước một khoản thanh toán cước phí sử dụng. Các khoản chi phí và cước thông tin phát sinh (bao gồm GTGT) của khách hàng sẽ được trừ dần vào khoản thanh toán trước này. Khoản thanh toán này có giá trị sử dụng trong thời hạn cam kết, khách hàng sẽ được quyền sở hữu máy mà không phải trả thêm bất cứ khoản chi phí nào. Có nhiều loại máy phù hợp vơi sự lựa chọn của người tiêu dùng nh ư: LG SD_2130 (ứng trước 1,4 triệu), Sky IM-3000 (ứng trước 700 000đ); SK IM-1000( ứng trước 600.000)…. Đây là cơ hội lý tưởng để khách hàng sử dụng dịch vụ di động và tận hưởng các lợi thế mà mạng S-Fone đang cung cấp cho người tiêu dùng. Để có thể tham gia sử dụng các vụ “Điện thoại trao tay”, người tiêu dùng chỉ cần liên lạc trực itếp với các cửa hàng trực tiếp, đội bán hàng trực tiếp và các đại lý chính thức của S-Fone thên toàn quốc để tham khảo nội dung chương trình, thoả thuận sử dụng dịch vụ, nhận ngay máy điện thoại di động và hào mạng nhanh chóng. Với chương trình này S-Fone thêm một lần nữa khẳng định mỗ lực của mình trong việc duy trị độ tin cậy cảu khách hàng đối với dịch vụ mạng di động
  17. CDMA hướng tói khách hàng…Đồng thời, S-Fone cũng khẳng định sự lớn mạnh tứng bước của mình trong ngành viễn thông Việt Nam và đang được đón nhận ngày càng nhiều bởi các thuê bao mới, thực chất lời cam kết luôn luôn vì người tiêu dùng, không ngừng cải tiến chất l ượng dịch vụ đối với khách hàng đã, đang và sẽ ủng hộ S-Fone. - Đồng thời, trong tháng 7, S-Fone cũng tiến hành một chương trình khuyến mại khác dành cho các thuê bao hoà mạng mới. Tất cả những thuê bao hoà mạng mới sử dụng 2 loại máy LG SD-2030 và Alcom ACH-700 sẽ đựơc tặng 100 phút gọi miễn phí đối với thuê bao trả sau và 100 000 đ vào tàI khoản vếu là thuê bao trả trước. Tương tự, những thuê bao hoà mạng mới sử dụng 2 loại máy mới VK-100C và Nokia 3105 sẽ được tăng 300 phút gọi miễn phí đối với thuê bao trả sau và 300 000đ vào tài khoản nếu là thuê bao trả trước. Bên cạnh đó, S-Fone cón có chương trình chăm sóc khách hàng mang tên “Gia đình S-Fone (S-Fone Family)” dành cho tất cả thuê bao mới cũng như thuê bao hiện tại. - Để bổ sung tiếp tục cho ch ương trình “Điện thoại trao tay”, mạng điện thoại S-Fone tiếp tục đưa ra chương trình khuyến mãI “100 trận 100 thắng” với cơ hội trúng những giảI thưởng lớn hấp dẫn và thiết thực dành cho thuê bao mới của mình trong dịp năm mới đặc biệt là tết âm lịch 2006. Tất cả các khách hàng khi hoà mạng S-Fone mới từ ngày 27/12/2005 đến ngày 5/2/2005 đều được nhận 1 thẻ cào trúng thưởng ngay với nhiều cơ hội trúng thưởng như: 100 phút miễn phí, tiền trong tàI khoản hoặc phiếu mua sắm có giá trị tại các trung tâm thương mại. - Đối với thuê bao trả sau, S-Fone sẽ dành tặng một phần quà trị giá 200 000đ nhân dịp Tết Nguyên Đán cho mỗi khách hàng Công ty có mức cước phí sử dụng từ 10 000 000đ trở lên (tính từ ngày 1/1/2005 đến 31/12/2005, không bao gồm tiền trả góp máy điện thoại, cước gọi quốc tế, thuế giá trị gia tăng và các loại cước phí sử dụng dịch khác). Chương trình này sẽ đựoc thực hiện từ ngày 8/1/2005 đến 24/1/2005. Các thuê bao trả sau đang trong
  18. tình trạng hoạt động có mức cước sử dụng từ 3 triệu đến dưới 5 triệu sẽ được tặng 20 phút gọi trong nước miễn phí với thời gian sử dụng từ ngày 8/2/2005 đến ngày 17/2/2005. Có thể nói mạng điện thoại di động S- Fone đã rất khéo léo trong việc lựa chọn hình thức khuyến mãI: tặng máy miên phí, đại khuyến mãi để mở rộng thêu bao. Bởi vì Việt Nam là một thị trường có sức ì lớn, người tiêu dùng vốn không quen sử dụng mạng CDMA do chưa hiểu và tin tưởng vào công nghệ mới này. Rất khó để có thể thuyết phục người tiêu dùng thay đổi quan điểm và chuyển hướng sử dụng từ mạng GMS sang CDMA. Chỉ có hình thức tặng máy miễn phí – người tiêu dùng không phải trả bất khoản chi phí nào cho việc mua máy mà vẫn đựơc s ở hữu một chiếc điện thoại. Hình thức khuyến mãi này cũng góp phần khắc phục được một nhược điểm lớn của mạng CDMA đó là phải sử dụng máy đầu cuối phù hợp với công nghệ mạng. Ơ nhiều quốc gia trên thế giới, chuyện nhà cung cấp dịch vụ ĐTDĐ tặng máy cho người đăng ký dịch vụ do mình cung cấp đã trở thành điều bình thường. Tuy nhiên tại Việt Nam, chuyện đăng ký sử dụng dịch vụ ĐTDĐ là được tặng một máy ĐTDĐ, khỏi mua cũng đã bắt đầu, mặc dù chỉ với một số thuê bao của mạng Cityphone và Sfone. Có thể nói hình thức thức khuyến mãi “ tặng máy” cho khách hàng đang ngày càng trở thành xu thế tất yếu. Khởi đầu mạng di động nội thị Cityphone được khai sinh cùng lúc với việc nhà cung cấp dịch vụ “cho mượn” máy. Với sự hỗ trợ của nhà cung cấp hệ thống và thiết bị UT Starcom, tháng 7/2003, Bưu điện Hà Nội và Bưu điện TP HCM bắt đầu cho khách hàng…. Mượn máy ĐTDĐ. Những máy mà khách hàng cò thể mượn được là model 702U trị giá 1triệu6/cái. Tuy không phải trả khoản phí nào nhưng khách hàng phải đặt cọc một khoản tiền và cam kết sử dụng dịch vụ của họ trong một khoản thời gian nhất định. Sau khoản thời gian đó, nếu không có nhu cầu sử dụng tiếp, khách phải trả lại ĐTDĐ mà mình đã mượn.Sau khi khai thác việc cho mượn máy, Bưu điện Hà Nội lại “thừa thắng xông lên” tiếp tục thực hiện
  19. chương trình “tặng máy cho khách hàng trung thành”. Sau chương trình này, số lượng thuê bao của Cityphone tăng trưởng 200%- một kết quả vô cùng ấn tượng. Đặc biệt là qua chương trình “ điện thoại trao tay” vừa qua, người tiêu dùng Việt Nam đã bắt đầu được biết đến thế nào là “ tặng máy miễn phí” với việc sở hữu những máy điện thoại di đông “sành điệu” có giá trị mà không phải bỏ ra một số tiền nào để mua. Ông Trịnh Đình Khương- tổng giám đốc SPT tiết lộ: trước mắt SFone chỉ tặng các loại máy di động bình thường nhưng sắp tới, SFone sẽ nhập thêm vài ba loại điện thoại mới có giá từ 100-300 USD để tặng khách hàng. c) Bán hàng trực tiếp Sự thành công trong chương trình “Điện thoại trao tay” mà mạng điện thoại 095 đã tiến hành không thể thiếu sự đóng góp của công cụ bán hàng trực tiếp. S-Fone triển khai công cụ này thành 2 dạng chính: một là đội ngũ bán hàng cá nhân với lực lượng đông đảo, có qua đào tạo. Mỗi một thành viên bán hàng trực tiếp này đều được công ty giao cho một số l ượng máy điện thoại nhất định với giá ưu đãi và một khoản hoa hồng phần trăm cụ thể đói với mỗi loại máy khác nhau. Nhiệm vụ của mỗi thành viên là phải lan toả thành một mạng lưới rộng khắp, tìm đến với nhũng người tiêu dùng đang có nhu cầu sử dụng điện thoại và thuyết phục họ sử dụng dịch vụ mạng mà công ty cung cấp. Nếu mua hàng từ phía đội ngũ cá nhân này, khách hàng sẽ được mua hàng với giá rẻ hơn giá niêm yết và ngược lại, đội ngũ bán hàng sẽ nhận đươc phần trăm hoa hồng cho mỗi sản phẩm mà họ tiêu thụ được. VD như trong chương trình “ điện thoại trao tay” vừa qua, mặc dù thể thức yêu cầu của công ty là khách hàng phải ứng trước một khoản tiền là 700.000 đồng đối với máy SKY 3000 nhưng khi tới tay đội ngũ bán hàng trực tiếp này thì thể thức ấy đã được “biến tấu” thành chỉ phải ứng trước một khoản tiền là 490.000đồng cho một máy SKY 3000 hoặc là nếu người tiêu dùng bỏ ra 700.000đồng để ứng trước thì sẽ được khuyến mãi thêm một trong 3 món quà tự chọn là 1 nồi cơm điện, 1 máy ảnh hoặc
  20. một bàn là diện có giá trị. Việc áp dụng công cụ này trong chiến dịch” điện thoại trao tay” đã góp phần cho sự thành công của chiến dịch. Nó làm tăng khả năng tiếp cận khách hàng muc tiêu cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hiểu sâu hơn về nhu cầu mong muốn của khách hàng thông qua sự phản hồi của người bán trực tiếp và nâng cao doanh số tiêu thụ sản phẩm. Dạng triển khai thứ hai của Bán hàng trực tiếp là hệ thống các của hàng trực tiếp của Sfone. Chỉ trong một thời gian ngắn , hệ thống cửa hàng trực tiếp của Sfone đã được triển khai rộng khắp Hà Nội với đầy đủ mẫu mã các loại máy mới nhất, thông tin cập nhật và tương đối đồng nhất. Khi mua hàng ở các cửa hàng trực tiếp , khách hàng thường được hưởng nhiều quà tăng hấp dẫn kèmm theo nên việc mua máy và đăng ký sử dụng dịch vụ thường được thực hiện tại các cửa hàng trực tiếp đặc biệt là trong đợt chương trình “ điện thoại trao tay”hoặc “ Bộ chọn gói đặc biệt”... Quà tặng cho khách hàng kèm theo việc sử dụng dịch vụ giữa các cửa hàng có thể là không giống nhau do cửa hàng có thể tự bớt lại một phần tỷ lệ hoa hồng của mình cho khách hàng để khuyến khích mua. Hơn nữa khi mua tại cửa hàng này thì việc bảo hành sửa chữa hoặc khiếu nại, thắc mắc sẽ đơn giản hơn. Tại các cửa hàng trực tiếp này, khách hàng sẽ luôn đươc cung cấp những thông tin cập nhật nhất về các chương trình kích thích tiêu thụ mà công ty đang tiến hành thông qua vô số các loại tờ rơi, áp phích và sự hướng dẫn cụ thể của đội ngũ nhân viên với một khẩu hiệu “ SFone- phong cách phục vụ hoàn toàn mới”. d) Quan hệ công chúng. Trong hoạt động marketing của các doanh nghiệp hiện đại thì Quan hệ công chúng là một công cụ tuy mới mới xâm nhập vào thị tr ường Việt Nam xong đã chứng minh được tầm quan trong của mình. Trong các hoạt động xúc tiến hỗn hợp đã tiến hành trong năm qua, mạng điên thoại di động Sfone luôn tỏ rõ sự quan tâm và nỗ lực hết mình trong việc cố gắng đáp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2